Người đàn ông dựng Việt đứng lên, và vẫn giữ chặt lấy anh. Việt vùng vẫy cố thoát, nhưng càng bị kềm chắc hơn. Gã đàn ông hầm hè nói:
- Đứng im!
Rồi ngửng đầu lên thấy Khôi trên đầu thang, hắn hỏi:
- Còn bao nhiêu mống ở trên đó nữa?
Việt toan thừa cơ quật ngã hắn, bằng một thế đánh đột ngột. Anh xoay người, huých ngược khủy tay vào bụng hắn, đồng thời cúi mình xuống toan kéo hắn ngã lộn qua vai mình, vừa kêu:
- Xuống mau đi, Khôi!
Nhưng thế võ “bay bướm” của Việt không hạ nổi một địch thủ khỏe như voi. Gã đàn ông vẫn đứng trơ ra đó, và bàn tay hộ pháp của gã nắm cứng lấy gáy Việt. Hắn nhìn Khôi quát:
- Còn chú mi nữa, sao không xuống nốt cho tao cụng đầu hai đứa vào nhau!
Nhưng Lan đã chồm ra, ngó xuống hét:
- Anh làm gì đó, anh Minh, anh có bỏ ngay cậu đó ra không. Tui bảo anh bỏ ra mà.
Minh buông tay, nhưng xô Việt một cái mạnh, khiến Việt chúi nhủi vào một góc tường. Lan lanh lẹ bước xuống thang. Nàng tiến lại phía Minh đấm thùm thụp vào ngực anh ta.
- Đồ vũ phu! Anh không được phép đối xử với các bạn của tui như thế.
Minh giận dữ nhìn em:
- Hừ! Bạn của cô! Cô đưa họ tới đây hồi nào?
Khôi đã xuống tới nơi. Minh đứng sửng sững, hai tay chống bên sườn gờm gờm nhìn Khôi Việt. Anh ta cao lớn vạm vỡ, hai cánh tay rắn chắc, bắp thịt nổi cuồn cuộn.
Minh gằn giọng tiếp:
- Có lẽ tui phải nói rõ cho cô hay về số phận kẻ nào muốn tới đây dọ thám.
Lan sừng sộ:
- Tui cấm anh không được động tới hai người này. Nếu anh không có điều chi phải giấu diếm, anh sợ ai do thám?
- Nói cho cô biết, nếu cô rủ ai sang đây là cô sẽ khổ ngay. Tui phải bắt hai tên này về trại.
Lan vớ lấy một khúc cây, hăm:
- Anh cứ thử động tới hai người này coi, tui phang anh quẻ giò liền!
Minh như muốn phân trần với em nên giọng bớt gay gắt:
- Lan, cô không còn bé bỏng gì nữa, và cũng đừng coi anh như một đứa trẻ con. Cô nên hiểu là cả hai anh em mình sẽ khốn đốn nếu cô cứ bướng bỉnh đưa người tới đây dò xét. Đáng lý cô nên vâng lời cậu Chế Bảo trở về Hội An từ chiều qua, và đừng đưa hai thanh niên này tới đây...
Khôi can thiệp:
- Chúng tôi tự ý tới đây cắm trại, chớ không phải chị Lan đưa tới.
Việt cũng tiếp:
- Và chúng tôi tình cờ mà gặp chị Lan.
Cặp mày của Minh nhíu lại, anh lẩm bẩm:
- Vô lý!
Vẻ giận dữ trên nét mặt của Minh đã dịu bớt. Nhưng anh vẫn quay nhìn Việt, với ánh mắt nghi ngờ:
- Vậy chớ các chú mi lẻn vô trại, lần vào chỗ nhà kho làm chi? Khôn hồn thì các chú nên chuồn ngay về đất liền, đừng ở đây nữa.
Khôi đáp:
- Tụi tôi đã định sang đây cắm trại và ngoạn cảnh...
Nhưng Việt cướp lời:
- Chúng tôi còn muốn biết về số phận thầy Phong nữa!
Câu ấy vừa thốt ra, Việt đã hối ngay. Chính Việt cũng không hiểu tại sao lúc ấy anh lại bộp chộp đến thế. Khi nói lỡ rồi, anh mới thấy Lan giật mình tái mét, còn Khôi thì ngẩn ngơ nhìn Việt như không hiểu tại sao Việt lại ngu xuẩn đến thế.
Lan vội chống chế:
- Nói cho đúng, cậu ấy không hề quen biết thầy Phong. Chỉ nghe phong thanh thầy ấy có ở trên đảo.
Minh càu nhàu:
- Thế sao hắn không câm mỏ lại? Dính dáng gì tới hắn chứ!
Khôi cãi:
- Anh cấm chúng tôi không được nói nữa sao?
Minh tiến lên một bước:
- À, té ra các chú là quân do thám. Các chú qua đây với câu truyện bịa đặt về thầy giáo Phong...
Khôi đắc trí:
- Sao anh biết thầy Phong là một nhà giáo? Anh vừa cho đây là truyện bịa đặt mà!
Minh lúng túng, gắt:
- Ai nói thế hồi nào!
Lan liền cầm lấy tay Minh, nhỏ nhẹ nói:
- Anh Minh, anh vẫn chưa hiểu là tụi em muốn giúp anh sao. Chính tụi em muốn giúp anh và cả thầy Phong nữa. Từ ngày em qua đây chơi thăm anh, em đã linh cảm có nhiều truyện kinh khủng đang xảy ra. Tới bữa em bắt gặp anh kềm hãm thầy Phong thì em lại càng tin chắc rằng anh biết nhiều điều mà chẳng dám nói ra. Sao anh không coi hai cậu này như bạn, và nói hết sự thật cho chúng em biết?
Thấy Minh đứng im, Lan tiếp:
- Em chỉ có mình anh là ruột thịt ở trên đời. Chỉ có hai anh em nên thấy anh úp mở không dám nói thật những điều anh làm nên em lo ngại vô cùng. Anh làm chuyện gì mà không dám nói cho em biết?
Minh cắn chặt vành môi. Hình như anh đã toan nói nhưng lại bước tới cửa nhìn ra ngoài như sợ có ai rình rập.
Khi quay vào, anh nói:
- Không ai giúp tui được việc gì mô. Tốt hơn hết là hai chú này nên đi ngay và đừng nhắc đến những gì đã nghe biết ở trên đảo nữa. Còn Lan, em dư biết em phải về phố Hội ngay từ chiều qua rồi. Tại em cứ nấn ná ở lại không chịu nghe lời cậu Chế Bảo, nên anh rất lo cho em.
- Vì răng rứa, anh?
- Vì tai họa sẽ đến nếu em còn ở lại. Kẻ lạ nào lai vãng đến đảo này đều bị chung số phận ấy cả. Anh muốn Lan đi khỏi đây ngay cho yên thân.
Việt hỏi, với hy vọng làm cho cuộc đối thoại thêm gay cấn.
- Sao anh không nói điều ấy cho thầy Phong rõ?
Minh nhìn sâu vào mắt Việt:
- Tui nói cho thầy ấy biết thì đã muộn mất rồi.
Khối thốt nói:
- Như vậy là anh có biết thầy Phong! Anh có gặp thầy ấy!
Lan tiếp:
- Thấy chưa, anh giấu đầu hở đuôi rồi đó.
Minh không giấu được vẻ bứt rứt:
- Phải, anh đã giấu Lan điều đó, nhưng dù có nói ra cho em biết hay bất cứ ai đi nữa, thì cũng thế thôi, chẳng làm gì được.
Nhận rõ vẻ bồn chồn của anh, Lan nắm lấy cơ hội:
- Anh đừng ở đây nữa. Trưa nay chúng em sẽ đưa xuồng đón anh về Hội An. Ở đấy anh sẽ không còn sợ gì hết. Anh trình bày hoàn cảnh của anh, và nhờ thế cứu luôn được cả thầy Phong.
Minh lắc đầu:
- Không dễ như em nói đâu Lan ạ. Người ta sẽ không tin lời anh nói. Cho đến một ngày nào đó, e rằng sự việc xảy ra rồi họ mới công nhận điều anh phát giác thì đã muộn. Nếu anh rời đảo ngay bây giờ, gia đình cậu Chế-Bảo sẽ gánh chịu hậu quả khủng khiếp. Em thì không sao. Vì em chỉ là một bà con sang đây chơi vài ba ngày cũng như hai chú này, em nên đi với họ, đừng nấn ná nữa.
Lan nhìn anh đau xót:
- Nếu em đi, em sẽ trở lại tìm anh. Chúng em sẽ dẫn đầu một lực lượng giải thoát...
Minh hoảng hốt nhìn ra ngoài:
- Em đừng có xuẩn động mà chết cả. Dù anh có muốn thế chăng nữa, anh cũng không thể giao phó cho em trọng trách ấy được. Không, việc này quan trọng và nguy hiểm hơn em tưởng. Ngay cả thầy Phong cũng đã lầm như em. Nếu chúng biết thầy Phong còn sống, mạng thầy ấy kể như tàn, và nếu chúng lại biết anh đã tiết lộ phần nào bí mật, thì chẳng riêng gì anh mà hầu hết mấy gia đình trên đảo này đều khốn đốn cả. Cứ để mặc anh. Thời cơ đến, anh và thầy Phong sẽ hành động.
Lan và Khôi Việt đều nhao nhao:
- Nhưng biết đến bao giờ?
- Anh bị chúng cầm tù hả?
- Rứa anh và thầy Phong trốn ngay bây giờ không được sao?
Minh xua tay:
- Đừng hỏi nhiều vô ích. Thầy Phong và anh sẽ vượt được mọi hiểm nguy. Nhưng Lan nì, em về phố Hội với hai chú này bằng xuồng có được không?
Thấy Minh lo lắng cho em, và có vẻ như không tin ở tài tháo vác của mình, nên Khôi nói:
- Anh bạn khỏi lo. Tụi tôi không đến nỗi “cù lần” lắm đâu. Vả chị Lan cũng là tay “chì” có hạng. Nếu anh chẳng muốn chúng tôi giúp đỡ thì thôi. Nhưng tôi cũng nói trước với anh là chúng tôi sẽ lấy xuồng...
Khôi chưa kịp nói hết, Lan đã ngầm đá vào chân. Biết rằng khó lay chuyển được Minh và sợ anh ngăn cản, nên Lan không muốn cho Minh biết ý định của nàng là cùng Khôi Việt vào thám thính trong hang đá.
Minh vô tình không thấy nên bước lại thân mật đặt tay trên vai Khôi, nói:
- Tui với các chú giờ đây là bạn rồi. Tui nhờ hai bạn săn sóc hộ em tui và lập tức rời ngay đảo...
Nhìn vào đồng hồ tay của Khôi, Minh tiếp:
- Tui lẻn tới đây, vì đêm qua chợt thấy có ánh lửa ở chỗ này. Chừ tui phải về, kẻo bị nghi ngờ. Hai chú nhớ cẩn thận đừng để ai trông thấy. Còn Lan...
Minh nhìn em dò hỏi.
Lan vội nói:
- Em trở về trại thu nhặt mấy thức vặt vãnh, chờ tới trưa Khôi Việt sẽ đưa xuồng đón sẵn ngoài ghềnh.
Minh yên tâm gật đầu:
- Như vậy được! Thôi, đi bằng yên nghe và nhớ kỹ điều tui dặn đó.
Nói rồi Minh phóng ra ngoài biến mình vào màn sương còn dày đặc. Lan nhìn theo anh, đôi mắt ngấn lệ. Nàng lẩm bẩm:
- Anh ấy khác trước nhiều lắm, không còn là anh Minh ngày xưa nữa.
Khôi nói như để an ủi:
- Anh ấy lo sợ điều gì nên cứ đuổi chúng mình phải đi ngay! Nhưng thôi, nếu chị đã nhất quyết, thì chúng ta nên thi hành ngay chương trình đã định.
Lan lau ngấn lệ, gật đầu.
Rồi ba người, như ba cái bóng lặng lẽ rời khỏi căn nhà hoang.
Việt lẻn ra trước tiên. Cuộc gặp gỡ bất thần với Minh vừa rồi đã làm sáng tỏ thêm nhiều điều, song cũng chưa ai đoán được rồi sẽ kết thúc ra sao. Điều quan hệ là Việt phải làm sao lấy lại được mảnh giấy còn vướng trong túi quần móc ngoài hàng rào kẽm.
Việc này, đối với Việt không khó, nhất là sương sớm còn giăng mờ trên đảo sẽ giúp cho công tác của Việt dễ hoàn thành. Vả lại, theo Việt nghĩ, không ai có thể trách một thanh niên đi tìm lại cái quần rách của mình.
Vừa lần theo con đường mòn theo hướng Lan đã chỉ, Việt vừa nghĩ đến kết quả đạt được khi anh nắm chắc mảnh giấy của thầy Phong trong tay. Mảnh giấy đó bây giờ Việt mới thấy nó quan trọng. Nó chứng thật sự có mặt của thầy Phong trên đảo Chàm, và khi trở về Hội An, Khôi Việt có thể tự tiếp xúc với nhà chức trách xin họ can thiệp, khỏi cần phải chờ chú Triều Dương. Có mảnh giấy đó với bút tích của thầy Phong, người ta sẽ không cho những điều Khôi,Việt thuật lại là bịa đặt.
Lối mòn Việt đang đi, đầy gò đống gập ghềnh, và nhiều bụi gai án ngữ. Qua được vài khúc quanh, Việt bỗng có cảm tưởng như đang bị có người theo dõi. Cảm tưởng đó thật mơ hồ, nhưng ai đã đi một mình giữa nơi hoang vắng, trong rừng sâu hay ngoài bãi tha ma chẳng hạn thường vẫn bị cảm tưởng đó xâm lấn. Nó làm gai ốc mình nổi lên, cứ muốn ngó ngoái lại phía sau, và nếu không giữ được bình tĩnh rất dễ bị xúc động, hoặc chùn chân muốn xỉu, hoặc hét lên rồi cuống cuồng phóng chạy như bị ma đuổi.
Việt thận trọng từng bước. Chân anh đặt nhẹ trên mặt đất ẩm, cố tránh cho những gai góc khỏi cứa vào đùi, vậy mà âm vang của bước chân nghe vẫn cứ rõ mồn một.
Việt đã từng trải qua những giây phút xông xáo đơn độc, nên tuy hồi hộp, anh vẫn không hề nao núng. Tới hàng rào gai, Việt lần theo, lòng tự nhủ không nên hấp tấp và vừa đi vừa lắng tai nghe ngóng. Men theo rào thật khó đi, vì cỏ sắc mọc đầy. Thỉnh thoảng Việt phải dừng lại sờ tay lên sợi kẽm để khỏi bị lạc đường. Đảo Chàm vẫn vắng lặng hoàn toàn, chỉ nghe văng vẳng tiếng sóng rì rào ngoài biển theo gió sớm mơ hồ vọng lại. Đột nhiên sợi giây kẽm của hàng rào rung động, như có ai chạm phải. Việt lặng người, cố nhìn thủng màn sương mờ đặc, và anh chợt nhận ra có tiếng chân bước âm thầm trên cỏ. Thoạt đầu Việt ngờ đó là những bước chân khỉ, vì bọn “giặc khởi” theo lời Lan cho biết, thường hay ra ngủ ngoài ghềnh đá. Chúng không dám ngủ trong rừng Chàm, vì ở đó có rất nhiều trăn. Giống này, lại rất ưa thịt khỉ, nên để khỏi bị tuyệt giống, họ hàng nhà khỉ cứ tối đến thường dắt díu nhau ra những mỏm đá cheo leo ngoài ghềnh nằm ngủ đến tảng sáng mới về rừng.
Nhưng không phải, vì tiếng chân tiến tới gần nghe rõ cả tiếng nói đông đảo của một nhóm người.
Việt hoảng hốt bỏ chạy. Lần này Việt tưởng mình bị theo dõi thật sự, và bọn người kia đang đuổi phía sau lưng. Vừa chạy Việt vừa khom mình ẩn núp và cố nén hơi thở để khỏi bị lộ. Đến địa điểm có ba tảng đá lớn như một hòn giả sơn vĩ đại nằm cách rào chừng vài chục thước Việt mừng rỡ biết mìmh đang chạy đúng hướng Lan đã chỉ dẫn. Anh vượt qua và đến khúc quẹo thì Việt bỗng hụt chân ngã lộn nhào. Cái ngã đã làm Việt quay người trở lại. Anh nằm mẹp giữa đám cỏ rậm chỗ vừa ngã xuống và nhìn thấy nhiều bóng người xuất hiện.
Họ có tất cả năm người, đi theo hàng dọc, kẻ trước người sau, và kỳ lạ hơn hết là quần áo họ mặc toàn bằng cao su bó chẽn lấy thân hình. Họ tiến đến chỗ ba mỏm đá. Người đi đầu nhìn đồng hồ, điệu bộ như hối thúc người đi sau khỏi trễ giờ. Tất cả đều rảo bước song hình như họ đi một cách khó khăn vì dưới chân có mang thứ giày rất nặng.
Thấy họ rẽ ngang về phía mỏm đá, Việt thở phào nhẹ nhõm. Anh yên trí chờ đợi họ đi qua. Nhưng Việt bỗng sững người ra nhìn. Bọn người đi thẳng đến vách đá cúi mình tiến vào, rồi biến luôn như có phép tàng hình. Quên mọi nguy hiểm, Việt nhỏm người lên cố nhìn cho rõ. Hai ngưới đã lần lượt bước vào trong hang đá. Còn lại ba người đang tiếp tục vào theo. Việt thầm hỏi: “Phải chăng họ đang chui vào một cửa hang? Và họ vào đó làm gì?” Việt nghĩ đến những người đi làm nghề gỡ tổ chim Yến. Nhưng chỗ đó có phải là một hang động không? Và có phải nơi chim Yến đến làm tổ hay không? Đang phân vân, Việt chợt thấy người cuối cùng trong bọn họ quay đầu lại.
Anh vội mọp người xuống. Khi ngửng lên bóng người ấy đã mất hút. Và cũng chính lúc ấy, Việt bỗng nghe có tiếng chuông văng vẳng nổi lên.
Tiếng chuông đổ hồi rồi im bặt. Lắng tai chỉ còn nghe thoang thoáng tiếng hải âu kêu chập chờn ngoài biển. Chờ đợi một lát khá lâu Việt mới dám nhỏm người khỏi chỗ nấp.
Đồng hồ tay của Việt chỉ đúng 6 giờ. Anh thầm nghĩ: Tiếng chuông vừa nghe đúng là tiếng chuông mà Khôi, Việt đã nghe chiều hôm trước. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà nó gióng lên. Ngày hôm qua nó kêu vào lúc 6 giờ chiều. Sáng nay vừa đúng 6 giờ nó cũng lại kêu.
Nếu tiếng chuông đổ hồi đúng giờ giấc như thế, tất phải có một ý gì. Việt tiếc rằng không có Khôi ở đây để nêu lên điểm nhận xét đó.
Việt ngẩng đầu lên, hai tay chống lên mặt cỏ ướt cố gắng nhìn lần nữa...Cả năm bóng người đều đã biến hết.
Thận trọng, Việt rón rén lại chỗ ba tảng đá. Chúng đứng tựa vào nhau, sừng sững giữa khoảng đất trống, trông như một quái vật khổng lồ, đen ngòm và bất động trong sương. Những tảng đá dị hình đó không thiếu ở dọc miền duyên hải, nên Việt chẳng lấy làm ngạc nhiên. Anh chỉ băn khoăn về sự biến mất của nhóm người vừa rồi. Thoạt đầu Việt đoán họ nấp trong các kẽ đá, hoặc đã lách mình qua để đi tắt ra nương rẫy cho gần. Nhưng qua màn sương, tuyệt nhiên không thấy bóng ai cả. Tiếng nói chuyện rì rầm của họ mà Việt vừa nghe, tắt lịm ngay cùng với âm thanh văng vẳng của tiếng chuông như đột nhiên được một cánh cửa đậy kín lại. Trong ba tảng đá này, đứng dựa nhau thành khối chân vạc liệu có môt cánh cửa nào chăng?
Tuy đang vội, cần phải đi lấy mảnh giấy vướng ngoài rào gai, nhưng Việt vẫn không thể nào ngăn được tính hiếu kỳ. Anh tiến vào khối đá và chợt nhận thức được: những âm thanh vừa nghe, - tiếng người nói và tiếng chuông kêu - lịm tắt dưới lòng đất. Như vậy tức là bọn người kia đang ở dưới.
Họ đã đi xuống. Nhưng họ xuống bằng cách nào?
Dưới chân ba khối đá, đất rắn đầy sỏi không có một kẽ hở! Chẳng lẽ bọn năm người kia đều có phép độn thổ hay sao? Việt không còn tin ở mình nữa. Anh đâm ngờ vực những điều vừa thấy, vừa nghe chỉ là do trí tưởng tượng của anh mà thôi!
Đang lò dò bước sâu vào kẽ đá, Việt bỗng cảm thấy đất dưới chân chuyển động, làm Việt mất thăng bằng, ngã đập đầu vào vách đá. Mặt đất dưới chân Việt đột nhiên kênh lên độ vài tấc, rồi sập ngay xuống. Việt muốn nghẹt thở khi khám phá ra điều bất ngờ này. Thì ra bọn năm người đã xuống dưới đất bằng một cửa hầm bí mật. Nhưng xuống đó làm gì? Và họ mở nắp hầm bằng cách nào đây?
Việt quýnh người lên khi nhớ đến phần công tác của mình. Lan và Khôi đã dặn trước là sương sớm sẽ tan dần vào lúc mặt trời mọc, và chính từ lúc ấy, theo như chương trình đã định Việt phải lấy xong mảnh giấy ra bến gặp Khôi.
Việt đưa mắt nhìn quanh, màn sương tan mỏng hơn trước nhưng ánh bình minh chưa hiện. Đảo Chàm vẫn còn đắm mình trong cơn ngái ngủ.
Việt lần lại chỗ cửa hầm, tìm thử cách mở. Anh sờ soạng trên mặt đất, cố nhớ lại khoảng mình vừa đứng, và dùng cả tay lẫn chân để gõ, đập xuống đất, nhưng mặt đất đặc cứng, rắn như si măng.
Dùng sức một hồi thấy mệt mỏi vô ích, Việt mới sực nhớ là vừa rồi có lẽ anh đã chạm nhằm vào một hệ thống chuyển động máy móc nào đó khiến nắp hầm vừa mở, thì Việt mất thăng bằng ngã văng ra chỗ khác nên nó lại sập xuống. Nắp hầm đó không thể dùng sức để mở được. Phải tìm cách để nó tự chuyển động.
Và, Việt đã tìm ra cách đó. Hồi nãy khi tiến vào vách đá chật hẹp, trong lúc sờ soạng tìm lối, tay Việt đã chạm nhằm một nút bấm, nút bấm đó ăn chuyền xuống dưới đất làm chuyển động bộ máy đóng mở nắp hầm - Tìm ra được nút bấm đó, được ngụy trang hết sức kín đáo - Việt ấn thử. Nắp hầm từ từ mở lên. Việt rùng mình, chỉ kịp thấy một lỗ hổng đen ngòm, sâu thẳm, và trước khi chiếc nắp sập xuống, anh còn nghe được cả tiếng sóng biển ì ầm từ dưới ấy đưa lên.
*
Nếu Việt nán lại thêm lúc nữa, hẳn anh sẽ khám phá thêm được nhiều điều. Chẳng hạn anh sẽ mò ra cách năm người kia mở nắp hầm như thế nào, lối xuống hầm ra sao, và không chừng bốc đồng lên dám lần mò xem họ đi đâu nữa. Nhưng Việt không thể nán lại được. Anh nhớ đến một lời khuyên của chú Triều Dương: Nên khôn ngoan hơn là liều lĩnh.
Việt chọn sự khôn ngoan, nên dù bị máu anh hùng cám dỗ, anh cả quyết rút lui. Hơn nữa Việt còn phải đến hàng rào gai trước khi sương mù tan biến.
Việt quay trở lại, lần bước theo hàng rào, cố nhớ xem chiếc quần đã vướng mắc ở khoảng nào. Qua con dốc lên tới mô đất cao. Việt nhớ ngay ra chính chỗ này, chiều qua, Khôi đã nhảy qua rào, băng vào cánh đồng, và bên kia mô đất là chỗ Việt... bị Lan đuổi kịp.
Đứng trên mô đất, Việt đưa mắt tìm trước chiếc quần rách của mình, trước khi xuống lấy. Nó kia rồi. Nó vẫn còn mắc dính trên dây kẽm, phất phơ trước gió như một lá cờ.
Nhưng Việt hoảng hốt thụt vội người xuống. Anh vừa trông thấy có một người đàn ông nằm ngay cạnh đó. Hắn nằm đó làm gì mà như có vẻ canh chừng chiếc quần rách của Việt? Hắn đã lục túi lấy mất mảnh giấy kia chưa? Dù sao thì không phải vô cớ mà hắn đến nằm ăn vạ ở đó. Hắn có vẻ bồn chồn, luôn đảo mắt nhìn quanh, như sợ ai bắt gặp. Nếu hắn sợ, tại sao hắn lại ra nằm đây ngay sát bên hàng rào?
Trong khi Việt thầm hỏi như thế thì sương đêm bắt đầu tan loãng. Người đàn ông chắc đã lợi dụng lúc sương mù dày đặc để ra đây. Và biết đâu không cùng một mục đích như Việt. Tìm cái quần rách để chiếm đoạt mảnh giấy?
Việt leo lại lên mô đất. Anh phải liều, để nếu cần thì tranh đoạt lại mảnh giấy nọ. Nhưng khi Việt nhô được người lên, thì người đàn ông đã cắm đầu bỏ chạy. Hắn chạy vào trong đảo, lẩn núp bên những lùm cây rậm. Việt không hy vọng gì đuổi kịp hắn nữa. Nhìn lại mảnh quần rách vẫn còn phất phơ trước gió.
Việt nhìn theo người đàn ông cho đến khi bóng hắn khuất dạng. Và anh thắc mắc: Tại sao bỗng nhiên hắn lại bỏ chạy như thế? Hắn lẩn trốn ai, trong khi không có ai đuổi kịp hắn cả?!
Việt nhảy xuống hàng rào gai, gỡ vội lấy chiếc quần. Anh yên tâm thấy mọi thứ trong túi quần còn nguyên. Gã đàn ông đã không lấy một thứ nào. Mảnh giấy thầy Phong viết vẫn còn ở túi bên trái, với chiếc la bàn của Việt. Túi bên phải Việt lấy lại con dao và cây bút nguyên tử. Một sợi dây dài thắt gút ở khuy quần chợt làm Việt để ý. Anh kéo sợi dây và nhận ra đầu dây kia được buộc vào một cổ chai nút kín đặt dấu trên cỏ. Việt rủn người nghĩ đến cạm bẫy mà bọn khủng bố thường dùng: một sợi dây mắc vào một khối chất nổ, chỉ cần chạm vào sợi dây đó là... banh xác! Nhưng chậm rồi, Việt đã kéo sợi dây ấy, và đã thấy cái chai. Nếu nổ thì nó đã nổ ngay và Việt đã... lãnh đủ rồi! Việt ngồi xuống, dè dặt nhấc cái chai lên. Đầu mối dây buộc trên cổ chai, có cột thêm mảnh giấy:
Lấy cái chai này và trốn ngay. Các anh đang nguy.Việt bỏ vội cái chai và mọi vật anh vừa lấy lại vào trong áo, rồi lẩn nhanh ra con đường mòn xuống bến! Người đàn ông vừa rồi có lẽ đoán biết Việt sẽ tới đây lấy chiếc quần chăng? Hay ít nữa là Minh đã nói với hắn? Dù sao thì hắn đã báo động cho Việt biết là các anh đang lâm nguy. Như thế cũng đủ làm cho Việt hối hả. Anh vừa đi vừa chạy, con đường mòn nhiều chỗ dễ ẩn nấp, nên Việt thấy yên tâm phần nào.
Tới hốc đá hai anh em đã ẩn mưa hôm trước, Việt ngồi lại nghỉ chân cho đỡ mệt. Anh lần vào trong áo lôi cái chai ra. Ngoài vỏ chai, có một mảnh giấy bao quanh, với mấy giòng chữ:
Trong chai này có đựng một tài liệu vô cùng quan trọng. Cần đưa gấp đến nơi tiếp nhận. Địa chỉ ở trong chai.Chữ viết vội vàng nguệch ngoạc. Hình như người lạ có ý định ném cái chai này xuống bể, rồi không hiểu tại sao hắn lại thôi? Tuồng chữ này Việt thấy hồ nghi quá. Anh lôi mảnh giấy của thầy Phong ra so thử. Đúng rồi. Việt nghi không sai. Hai mảnh giấy cùng một tuồng chữ. Nếu vậy thì chính là thầy Phong đã ra đợi Việt ngoài hàng rào, và đã bỏ chạy khi sương núi bắt đầu tan. Việt mở lưỡi dao định cắt sợi dây buộc tờ giấy bao quanh chai xem mặt sau thầy Phong còn viết những gì, thì chợt nghe có tiếng nổ. Việt đứng bật lên, lắng nghe.
Một tiếng nổ nữa tiếp theo. Lần này Việt nghe vẳng lên từ dưới bến. Chết rồi! Khôi đang bị tấn công? Việt không kịp suy nghĩ hơn nữa, nhét vội mọi thứ vào người rồi lao mình ra bờ biển.
Không lâu, Việt đã tới đầu ghềnh. Sóng biển dạt dào phía dưới và đàn hải âu bay lượn trên không gọi nhau lảnh lót. Gió sớm từ ngoài biển thổi vào làm Việt thấy tỉnh táo và dễ nhận ra được những tiếng động từ bãi biển đưa lại. Chiều qua lúc đặt chân lên đảo, Việt chưa kịp quan sát kỹ địa thế, đến lúc này anh mới nhận thấy là con đường dốc từ trên mặt ghềnh đi xuống, không thể thấy được bến thuyền phía dưới.
Nếu tiếng nổ vừa nghe là tiếng súng bắn dưới bến, mà bây giờ Việt lại đâm bổ ngay xuống, tất không khỏi chạm trán với những người có súng, và dĩ nhiên là điều bất lợi rồi.
Nhưng biết sao được. Việt đâu còn thì giờ suy tính. Anh chỉ hy vọng sẽ tránh được mọi cuộc gặp gỡ bất thần.
Việt tuột xuống con đường dốc. Đường uốn khúc ngoằn ngoèo nên rất khó nhận định. Tiếng sóng nghe mỗi lúc một gần, và Việt nghe được cả tiếng hò hét vẳng lên. Anh ngưng chạy, lắng tai nghe ngóng, linh tính như báo cho biết có sự nguy hiểm gần bên. Việt vẫn muốn phóng xuống trợ lực với Khôi vì theo anh nghĩ có lẽ Khôi đang lâm nguy, hơn nữa, nếu theo đúng như chương trình đã hoạch định thì anh cũng không thể chậm trễ hơn được. Tuy vậy bản năng tự vệ buộc Việt phải thận trọng.
Nhìn lên thấy một mô đá chìa ra phía trên cao. Việt liền leo lên, hy vọng có thể dùng nó làm đài quan sát.
Leo được nửa chừng, Việt đưa mắt trông xuống con đường anh vừa đi, chợt thấy hai đầu gậy đang di chuyển len lỏi giữa các mô đá gần đó. Việt đã gần kiệt sức, nhưng thấy nguy nên buộc phải cố gắng trèo nhanh. Cuối cùng Việt cũng lên được tới đỉnh. Anh nằm ẹp trên mỏm đá thở dốc một hồi, và ngó xuống lần nữa. Hai đầu gậy mà Việt vừa thấy, nhìn kỹ lại chính là hai nòng súng trường do hai gã vạm vỡ khoác trên vai. Lúc họ đi khuất giữa các mô đá chỉ có đầu súng nhô lên, Việt đã tưởng nhầm là hai đầu gậy.
Đỉnh mỏm đá Việt đang nằm rộng chừng hai mặt phản, Việt có thể nằm ẩn ở đó mà không sợ bị lộ, và gặp trường hợp nguy cấp, anh có thể chạy trốn sang các khe hốc gần bên.
Nằm đây Việt nhìn bao quát được ra mặt biển nhưng bến thuyền vẫn bị che khuất dưới chân ghềnh. Việt muốn leo ra tận mép đá nhìn xuống, mong tìm thấy Khôi với chiếc xuồng. Nhưng anh đành nằm bất động vì hai gã đeo súng đang rình mò bên dưới. Họ có vẻ hấp tấp bước vội vã như chạy và trao đổi những lời bàn cãi sôi nổi.
Khi tới chân mỏm đá Việt nấp, họ dừng lại và Việt phân biệt được một trong hai người nói lơ lớ giọng ngoại quốc.
Việt tính trước: Nếu thấy họ dợm trèo lên, là anh sẽ phóng mình chuồn gấp... Còn nếu họ tiếp tục đi trở xuống con đường dốc, thì anh phải kêu lên thật lớn để báo động cho Khôi đang ở dưới bến biết. Nhưng không biết tiếng kêu của anh có vọng tới tai Khôi không.
Nghĩ thế, Việt trườn mình ra đầu mỏm đá. Gã có giọng nói lơ lớ đã đặt chân lên một mốc đá toan trèo lên. Trước khi lên hắn cúi xuống dặn dò gì người kia nên không thấy Việt. Việt thụt vội đầu lại sẵn sàng vùng chạy.
Tiếng súng lại nổ “chiu chiu” dưới bến. Việt rủn người nằm yên, lo sợ cho số mệnh của Khôi.
Nghe tiếng súng nổ, hai gã đàn ông vội xách súng chạy xuống. Việt tạm thoát hiểm được lúc này, chỉ còn lo cho Khôi. Tưởng tượng Khôi bị những tay súng săn đuổi, rồi hạ sát, khiến Việt mê loạn tâm thần. Bất chấp mọi nguy nan Việt trèo ra tận mép đá cheo leo nhất để cố nhìn xuống bến. Bến kia rồi, nhưng không thấy chiếc xuồng đâu cả.
Thực tình, sau loạt súng nổ vừa rồi, Việt tưởng sẽ thấy xác Khôi nằm gục trên bãi. Tuy nhiên anh chỉ thấy đám người xách súng đang nháo nhác chạy lại chỗ neo thuyền. Chiếc thuyền không còn nổi trên mặt nước nữa, mà đã bị chìm phía đuôi lái, mũi ghếch lên bờ.
Bọn người dưới bến tụ lại trước mũi thuyền bàn tán.
Việt đưa mắt nhìn bao quát một vòng hy vọng tìm được dấu vết của Khôi và chiếc xuồng, nhưng cả Khôi lẫn xuồng đều biệt tăm. Bọn đàn ông đang chỉ trỏ tứ phía, như đoán xem Khôi Việt đã thoát đi hướng nào. Hai gã mang súng Việt thấy trên con đường dốc cũng đã xuống tới nơi. Gã toan trèo lên mỏm đá Việt nấp, đưa tay chỉ về phía đó. Hình như gã quan tâm nhiều về hướng này.
Việt không thể giúp gì Khôi được nếu cứ nằm lỳ ở đây, anh trở lui, trèo sang các mỏm đá khác, và sau bao cố gắng mệt nhọc, mới tới được mỏm đá mọc chìa ra sát mép ghềnh. Địa điểm mới này giúp Việt quan sát rõ ràng hơn. Bọn người săn đuổi Khôi đã trở lên bến. Mặt trời lúc này đã lên cao. Ánh hồng ban mai mờ nhạt, nhường cho những tia sáng chói lọi chiếu trên mặt biển sóng gợn óng ánh.
Khôi vẫn biệt dạng. Việt toan bỏ cuộc tìm kiếm thì chợt thấy một đốm sáng loé lên ngay dưới chân ghềnh. Khôi đang bình tĩnh chèo xuồng, và ánh mặt trời phản chiếu loang loáng trên mái chèo của hắn.
Việt mừng rỡ hét gọi, nhưng tiếng kêu của anh tắt chìm vào tiếng sóng. Khôi không hề ngửng đầu lên. Thỉnh thoảng hắn chỉ nhìn ngoái lại phía sau và chèo với một điệu bộ thành thạo. Dãy đá lô nhô dưới chân ghềnh án ngữ tầm mắt của những người đứng trên bến. Việt hiểu ngay mưu lược của bạn. Khôi không dại gì chèo ra xa để làm cái đích cho các mũi súng. Hắn men sát chân ghềnh, cho xuồng len lỏi giữa các mỏm đá.
Việt không có cách nào nhảy xuống được với bạn, mà Khôi thì không hề biết có Việt đang gọi bên trên. Xuồng hắn đã lướt qua chỗ Việt đứng khá xa rồi Việt mới vớ vội lấy hòn đá ném xuống.
Nhưng xuồng Khôi đã xa quá tầm ném. Hòn sỏi rơi trên mặt sóng chẳng gây được tiếng động nào khiến Khôi chú ý. Cũng may trong lúc cúi mình nhặt sỏi, túi “ba-lô” của Việt trút xuống làm rơi vãi mấy món đồ dùng lặt vặt. Thấy cái gương soi lăn ra, Việt chợt nảy ra một ý kiến. Anh vớ lấy chiếc gương, dùng nó làm vật phản chiếu ánh mặt trời, chiếu xuống. Tia phản chiếu ở mặt gương rọi đúng vào giữa mặt Khôi. Hắn bỡ ngỡ buông chèo, đưa tay che mắt nhìn lên.
Hồi còn ở trong đoàn Hướng đạo, Việt đã học cách gởi tín điện bằng lối chữ “Morse”. Không ngờ trò chơi đó bây giờ lại đắc dụng. Anh lay động tấm gương phát ra chữ KHÔI. Cái miệng của Khôi há ra tròn vo lắp bắp nhiều lần. Việt biết bạn đang gọi mình, như khi nãy anh đã gọi Khôi. Nhưng tiếng kêu của Khôi cũng chìm mất trong tiếng sóng. Khôi quay xuồng lại. Việt muốn nói nhiều với Khôi, nhưng trong lúc này còn có gì cần hơn là báo cho bạn phải thận trọng vì tiếng súng đã nổ! Việt liền gởi xuống cho Khôi chữ: NGUY HIỂM. Khôi lục túi, móc chiếc gương của hắn và chiếu lên chữ: CON KHỈ.
Trong các cuộc đùa nghịch bằng cách gửi tín hiệu cho nhau, Khôi Việt thường rỡn chơi như thế. Nhưng nhè lúc này mà đùa thì quả là bực mình hết chỗ nói. Việt toan đáp lại: ĐỒ BÒ thì Khôi đã nghiêm trang đánh lên: TIẾN SANG TRÁI. CÓ MỘT ĐƯỜNG MÒN.
Việt đáp O.K., rồi nhặt ba-lô đeo lên vai. Khôi dong xuồng tiến trước, giữ khoảng cách rất khéo để trên bờ dưới nước có thể thấy nhau. Việt chạy dọc theo mặt ghềnh và luôn luôn nhận được tín hiệu của Khôi chỉ dẫn. Đến một chỗ mặt ghềnh sụp xuống thành khe, Việt ngừng lại để thở, thì nhận được chỉ dẫn của Khôi: ĐÂY RỒI XUỐNG ĐI.
Khe đá sâu, phải chật vật một lúc Việt mới buông người xuống. Chân Việt vừa chạm đất, cặp giò của anh như hai bánh xe đứt thắng, không tài nào hãm nổi, tuột nhanh xuống một triền dốc đầy cát sỏi. Việt chới với ngã lộn đi mấy vòng, và khi hãm lại được thì anh đã ngồi bệt trên bãi biển để tức tối nhìn Khôi đang chèo xuồng tới, vừa cười hinh hích!
*
Việt bám lấy mạn xuồng trèo lên cự nự:
- Hay lắm sao mà cậu còn cười!
- Trông cậu trượt xuống hi... hi... múa may quay cuồng như con khỉ, tớ không thể nhịn cười được.
- Còn cậu thì có khác gì đười ươi trèo xuồng!
- Thôi, bỏ qua đi cậu! Chúng mình thoát khỏi tầm súng rồi. Có gì đáng lo nữa không?
Khôi làm ra vẻ bình tĩnh, nhưng thâm tâm hắn không khỏi nao núng bối rối. Việt vừa ngồi yên chỗ trên xuồng, Khôi đã băn khoăn hỏi:
- Giờ tính sao đây? Tụi mình có nên trở về Hội An tìm cứu viện không?
- Nếu chúng mình ló xuồng ra khơi thì có khác gì làm đích cho họ bắn!
- Họ ở xa mà xuồng mình lại nhấp nhô trên sóng, có nhắm bắn tụi mình cũng còn khuya mới trúng. Nhưng, dù sao tớ cũng không muốn làm cái bia đỡ đạn nữa.
- Thế vừa rồi chính họ nhắm bắn vào cậu đấy à?
- Ừ, nhưng may quá lúc ấy lại có một bọn khỉ đang ngủ ngoài đầu ghềnh. Nghe phát súng nổ đầu tiên bọn khỉ nhảy tán loạn, nên...
- Nên họ nhầm khỉ ra cậu, cậu ra khỉ chứ gì?
- Ừ, họ toàn bắn hoảng vào các bóng khỉ! Nhân đấy tớ lủi vào các mỏm đá và chuồn êm ra đây. Cậu có ý kiến gì không?
- Ý kiến gì bây giờ? Theo tớ thì nếu tụi mình cho xuồng ra khơi, đứng ở trên cao họ có thể nhắm mình dễ dàng. Mình dám lãnh đạn của họ lắm chứ cậu! Hơn nữa tụi mình đã trót hẹn với Lan, bây giờ bỏ về Hội An ngay sao được.
Khôi thở dài:
-Thôi được, tụi mình tạm thời núp dưới chân ghềnh. Bọn họ không còn thuyền để đuổi theo mình được vì tớ đã cẩn thận cho nó chìm rồi.
Lúc ấy nước triều đang bắt đầu dâng. Khôi Việt không lo xuồng bị mắc cạn, nên men sát ghềnh, vách ghềnh cao như một tường thành đứng thẳng nên bên trên không thể thấy được. Gặp một cửa hang. Hai anh em cho xuồng nấp vào trong đó.
Yên tâm rồi, Khôi kể cho Việt nghe những diễn biến sau khi chia tay nhau ở ngôi nhà hoang. Thoạt đầu Khôi đi loanh quoanh mãi không tìm thấy đường xuống bến. Khi tìm ra lối, Khôi bỗng thấy một bóng người hiện ra trong sương. Bóng đó vừa chạy vừa nấp, như sợ bị ai bắt gặp. Khôi vội nằm sắp xuống, dán mình trên mặt cỏ, vừa lúc bóng người đó hoảng hốt vượt qua. Để cho bóng đó qua rồi Khôi nhỏm đầu dậy nhìn theo. Qua màn sương, anh nghe có tiếng kêu, và bóng người đang chạy như bị một bóng khác cao lớn hơn ngăn lại. Khôi cố lắng nghe hai bóng đó nói gì với nhau, nhưng họ thì thào nhỏ tiếng nên không nghe được.
Lợi dụng sương mù còn dày đặc Khôi trườn người đến gần, nghe được họ đang nói về Lan và về hai thanh niên sang đảo cắm trại. Rồi bóng thứ nhất bỏ đi, bóng thứ nhì đứng lại. Khi hắn quay lại Khôi nhận ra Minh. Anh liền nhỏm người lên gọi. Minh hấp tấp chạy tới, làm dấu cho Khôi im đi. Hắn càu nhàu:
- Đồ ngu, sao chưa đi còn ở đây làm gì!
Khôi nói lảng:
- Tôi không rõ anh đang nói chuyện với ai, nên chưa dám gọi ngay. Tôi bị lạc đường...
Minh cau mặt:
- Phải chi hồi nãy chú mi ló mặt ra thì đỡ cho hắn biết mấy!
Minh nhìn theo hướng mấy người kia vừa đi, và đưa ngón tay lên miệng như muốn huýt lên tiếng sáo gọi, nhưng anh bỗng dè dặt ngưng lại. Khôi hỏi:
- Ai thế?
- Thầy Phong. Thầy ấy biết có các cậu ở đây, và muốn gửi một tài liệu khẩn cấp, nên đã toan xuống bến gặp cậu. Nhưng như thế liều mình quá, nên tôi bảo thầy ấy ra tìm bạn cậu ở ngoài hàng rào vì thế nào bạn cậu cũng ra đó lấy lại cái quần.
- Sao anh biết rõ thế?
- Lan cho tôi hay kế hoạch của các cậu.
Khôi hơi tỏ vẻ bất mãn. Minh tiếp:
- Tôi biết thế nào các cậu cũng chờ đón em tôi, nên tôi dặn cậu điều này là hễ ra lọt tới bến, cậu hãy đánh chìm ngay hai chiếc thuyền neo sẵn ngoài nớ.
- Anh bảo sao? Đánh chìm đi à? Sợ có rắc rối gì không?
Minh gằn giọng:
- Cần phải làm như thế, các cậu và em tôi mới có thể trốn thoát được. Nếu để nguyên họ sẽ dùng thuyền ấy đuổi theo. Thôi cậu đi ngay đi!
Minh vỗ nhẹ lên vai Khôi, và trước khi quay đi anh còn dặn thêm:
- Bạn cậu sẽ nhận được bản tài liệu của thầy Phong, còn cậu nhớ đừng quên đánh chìm thuyền đó nhé.
Kể đến đó Khôi ngưng lại nhìn Việt. Anh chàng “tắc họng” vì vừa đút cả trái trứng luộc vào miệng! Các thức ăn Lan đã bới cho, còn mấy trái trứng luộc bây giờ mới được hai anh em chiếu cố. Vừa nhai nhồm nhoàm, Khôi tiếp:
- Tớ đã cho hai cái thuyền ấy chìm. Còn cậu có lấy được những tài liệu của thầy Phong không?
- Có đây... Nhưng kể nốt chuyện của cậu đi đã.
- Thì... rồi tớ xuống bến, leo lên thuyền rút chiếc sào có bịt mũi sắt nhọn thường vẫn dùng để chống khi thuyền mắc cạn, đoạn lật ván sạp lên thúc mạnh mũi nhọn xuống đáy thuyền cho thủng ra một lỗ là nước cứ việc ùa vào. Thực tình tớ không muốn làm cái việc phá hoại ấy chút nào, vì thuyền là của dân đảo, mà cũng là phương tiện di chuyển duy nhất của họ khi muốn rời đảo. Thế mà mình lại chọc cho thủng ra, tuy không gây hư hại nhiều, song cũng mất công trục lên trám lại mới dùng được, nên tớ thấy áy náy làm sao ấy. Nhưng anh Minh đã căn dặn phải đánh chìm...
- Thì cậu cho chúng chìm luôn!
- Ừ. Xét cho cùng, anh ấy lo xa thế cũng phải, chứ nếu không thì giờ phút này anh em mình nguy rồi.
- Thế còn tiếng súng? Họ bắn vào cậu lúc nào?
- Khoan đã! Đục xong thuyền, vừa ngửng lên thì thấy xuất hiện trên bờ mấy bóng người, tớ bèn nhảy xuống xuồng men theo các mỏm đá chuồn đi. Bọn người trên bờ không có vẻ gì vội vã. Chỉ sau khi thấy hai cái thuyền cứ từ từ chìm xuống, họ mới nháo lên. Một người trong bọn nhác thấy xuồng của tớ đang len lỏi giữa hai mô đá liền nổ súng. Phát súng đầu tiên ấy làm cho bọn khỉ ngủ trên ghềnh nhảy hoảng lên. Và chính nhờ thế mà tớ thoát nạn!
Khôi nhe răng cười:
- Hì...hì... Hồi nãy thấy cậu chẳng khác gì một anh khỉ gộc nhảy hoảng khi nghe tiếng súng nên tớ không nhịn cười được.
Việt tức tối:
- Thú lắm đấy mà còn nhe hàm răng ngựa của cậu ra!
- Cậu cũng phải để tớ cười chứ. Bộ cậu không mừng tớ vừa thoát chết à? Thôi kể truyện của cậu đi.
Việt kể cho bạn nghe phần của mình, và dĩ nhiên phù hợp với những điều Khôi đã kể. Màn bí mật được hai anh em vén lên dần dần.
Việt lôi cái chai trong bọc ra, tháo sợi dây cột mảnh giấy bao quanh chai. Trên mảnh giấy ấy thầy Phong viết:
Mấy tuần nay tôi tìm cách gửi những tin tức quan hệ về đất liền mà không được. Rất tiếc đã lấy cái lều vải của các anh. Tôi cần dùng để làm một cánh buồm. Tôi muốn trao tận tay bản tài liệu để sẵn trong chai cho các anh. Nếu nhận được các anh hãy đưa đến cho người có thẩm quyền. Bằng như bị trắc trở, hãy ném nó xuống biển. Tôi chưa gặp và chưa biết tên các anh, song tôi cũng tin các anh là người đáng tin cậy, và cho các anh biết rằng đây là một điều tối ư quan trọng cho đất nước chúng ta. Các anh hãy đem cô Lan theo, đưa cô ấy về đất liền ngay đừng trì hoãn nữa. Chúc nhiều may mắn.Nguyễn đức PhongĐọc xong những giòng chữ của thầy Phong, Khôi nhìn đồng hồ tay, nói:
- Chưa biết sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng từ nay hành động của tụi mình không còn mơ hồ nữa.
Việt loay hoay ghè vỡ cổ chai vào vách đá, và lôi ra chiếc phong bì không dán kín. Khôi nói:
- Nếu không dán kín, chúng mình có thể xem qua được, như vậy càng dễ cho công tác bọn mình được giao phó.
Việt mở xếp giấy trong phong bì ra. Những giòng chữ của thầy Phong chi chít trên mặt giấy nhưng Việt không hiểu nổi một chữ!
Khôi lắc đầu:
- Vô ích, Việt ạ. Cậu không đọc nổi đâu, vì thầy ấy viết bằng ám ngữ! Thử xem tập tài liệu này thầy ấy định gửi cho ai?
Việt lật chiếc phong bì. Anh sửng sốt kêu:
- Gửi cho chú Triều Dương! Phía dưới còn ghi thêm giòng chữ: “Nhờ cơ quan cảnh sát địa phương chuyển hộ”.
Khôi, Việt chuyền tay xấp giấy, và ngẩn ngơ hỏi nhau:
- Thầy Phong quen chú Triều Dương à?
- Thì quen chứ sao! Ít nữa hai người cũng phải có liên lạc với nhau.
- Thế sao chú Triều Dương lại làm như không biết thầy Phong là ai?
- Chắc có lý do, ví dụ như nếu thầy Phong là một nhân vật quan trọng cần che giấu tung tích.
Khôi nhận xét:
- Chú Triều Dương không bao giờ cho biết ý định của chú. Theo tớ thì có lẽ chuyến đi Hội An lần này, mục đích của chú là để tìm thầy Phong chứ không sai.
- Nhưng cậu có nhớ là chú ấy đã chế diễu tụi mình về việc thầy Phong mất tích chứ. Chú ấy còn cho rằng đó chỉ là chuyện bày đặt.
- Khôi gật đầu:
- Phải, chú ấy còn nói có lẽ thầy Phong đã xảy chân, ngã xuống biển! Và câu chuyện tiếng chuông kêu dưới đáy biển nữa. Chú ấy kể lại như một chuyện hoang đường. Nhưng mới chiều qua đây, chính tai chúng mình đã nghe...
- Nếu quả chú ấy muốn tìm thầy Phong, hà tất chú ấy cứ phải lò mò ở ven bờ biển với những máy móc lỉnh kỉnh làm gì nhỉ?
- Thôi, bỏ chú Triều Dương đi! Hãy tính xem tụi mình phải làm gì bây giờ đây?
- Nếu chúng ta mang tài liệu này về Hội An cũng chưa thể gặp ngay chú Triều Dương được vì chú hiện đang ở Đà Nẵng. Chú ấy đã hẹn tụi mình ngày mai, chú mới trở lại.
- Vậy chúng mình cứ đến chỗ hẹn gặp Lan rước đã, biết đâu chẳng khám phá thêm được nhiều điều hay.
Nước triều lúc ấy đang lên. Giờ hẹn với Lan cũng đã tới, cần phải đi ngay mới kịp. Việt đút xấp giấy của thầy Phong vào túi áo, nhưng Khôi ngăn lại:
- Cậu đã mất tiêu cái quần short rồi. Bây giờ nếu cái áo sơmi của cậu nhỡ lại rách nốt thì tập tài liệu kia sẽ ra sao? Thôi, cho lại nó vào chai đi cậu. Như vậy chắc ăn hơn.
Giọng nói của Khôi hơi làm Việt phật ý. Nhưng Việt cũng chịu là bạn có lý. Anh nhìn lại thân hình mình, trơ trọi còn có chiếc quần xà lỏn và cái áo sơ-mi hồi nãy lăn từ cồn cát xuống đã rách nát. Chiếc xuồng của hai anh em lại nhỏ bé mỏng manh, thêm Lan nữa là ba mạng, ngồi lên chưa chắc gì đã vững. Nếu Lan cứ nhất quyết vào sâu trong động thám thính, thì cuộc mạo hiểm này hứa hẹn rất nhiều tai nạn bất ngờ.
Việt lẳng lặng bỏ tập giấy vào chai, nút lại cẩn thận rồi buộc chặt dưới tấm ván ngồi. Như vậy dù xuồng có bị lật, cái chai cũng không thể mất, giấy bên trong không sợ bị ướt.
Khôi cho xuồng rời khỏi chỗ nấp. Việt ngồi giữ tay lái phía sau, Còn Khôi thì chèo. Cả hai đều im lặng chăm chú vào phận sự của mình, Việt phải lái làm sao cho mũi xuồng khỏi va vào những tảng đá mọc lởm chởm trên mặt biển, còn Khôi luôn luôn hướng lên mặt ghềnh canh chừng nhỡ có người truy nã.
Từ chỗ nấp, không xa bến thuyền bao nhiêu, men theo vách ghềnh để tới chân ngọn hải đăng nơi hẹn đón Lan thật là vất vả. Hai anh em chỉ trao đổi với nhau vắn tắt được vài lời. Xuồng đi ngược dòng thủy triều nên chỉ nhúc nhích từng chút, không ai còn thừa hơi để lãng phí nữa. Tất cả sức lực đều dồn vào các cánh tay chèo lái. Gan bàn tay của Khôi Việt đã bắt đầu phồng rát, nhưng chẳng ai dám quan tâm.
Điều an ủi là hai anh em đã thấy Lan đứng đón sẵn trên mặt ghềnh. Vừa thấy bóng Khôi, Việt, nàng đã giơ tay vẫy và chạy xuống một lối mòn vòng theo chân ngọn hải đăng. Để đón Lan, Khôi Việt phải lách xuồng đến gần. Ngọn hải đăng này có đã lâu đời, dựng lên từ triều đại nào về trước,nên tường vách được xây bằng đá ong, và thời gian đã phủ lên nó lớp áo phong sương rêu phủ. Một chiếc thang sắt bám bên vách hải đăng, nhiều nấc đã rỉ sét và điều làm Khôi Việt hơi lấy làm lạ là chân thang không đứng trên mặt đất mà lại thõng sâu xuống biển, nên người ta có thể áp thuyền tới sát bên thang mà không cần đặt chân lên bờ.
Giá vào lúc khác thì Khôi Việt đã ghé xuồng trèo lên coi chơi, nhưng vì còn phải đón Lan nên hai anh em chỉ bàn tán, ước lượng bề cao của ngọn hải đăng khi xuồng lướt tới. Cũng đúng lúc ấy Khôi Việt chợt nhận ra sự lạ.
Một bóng người vừa chợt hiện trên đỉnh hải đăng. Hắn mặc bộ y phục bó chẽn bằng cao su như năm bóng người bí mật mà mới đây Việt đã thấy mất hút vào vách đá. Bóng người trên ngọn hải đăng mải vào công việc của hắn, nên không thấy xuồng của Khôi Việt men phía dưới. Hắn làm những động tác đánh dấu hiệu, rồi bước xuống thang.
Khôi vội nép xuồng vào một mô đá thì thào:
- Coi kìa, Việt! Hắn xuống thẳng dưới biển!
Quả nhiên, điều đó không cần Khôi nói, Việt cũng thấy rõ. Hắn bước xuống, quay lưng lại phía Khôi Việt và khi tới mặt sóng hắn vẫn tiếp tục bước sâu xuống nữa.
Giọng Khôi lạc hẳn đi:
- Cậu có thấy không đó?
Việt đáp:
- Tớ không rõ cậu đã nhìn thấy gì, riêng tớ, thì thấy một người đang đi xuống lòng biển! Kỳ cục thật! Hắn định trầm mình hay sao chứ!
- Có sao đâu... Cậu không thấy khi xuống nước hắn kéo cái mũ úp kín đầu và được gắn liền với cổ áo à? Thứ áo đó là trang phục riêng của những người thợ lặn...
Việt băn khoăn:
- Khôi này: cậu thử nghĩ xem tụi mình sức mấy mà đối phó được với những người chuyên môn chui xuống lòng đất và lòng biển như thế hả!
Khôi trầm ngâm:
- Họ làm tớ nghĩ đến câu chuyện hoang đường liên quan tới Phố Hội cổ xưa bị chìm ngập...
- Tớ cũng đã nghĩ như thế, nhưng không dám nói ra. Tụi mình trèo vào đón Lan thôi.
Vừa bước chân xuống xuồng Lan đã hỏi:
- Hai cậu có thấy người đàn ông trên ngọn hải đăng vừa rồi không? Ngày nào tui cũng thấy hắn, song không biết hắn chui ở phía nào lên. Điều tôi biết chắc là hắn chỉ lên đấy, làm những ám hiệu vào lúc có nước triều dâng. Khi xuống thấy biến luôn, không hiểu hắn đi mô?
Khôi nói:
- Hắn mặc đồ lặn, và hắn xuống thẳng dưới nuớc. Tụi tôi vừa thấy xong.
Lan gật gù:
- Tui thường nghe họ nói đến bộ áo làm việc. Lâu lâu cũng bất chợt gặp họ mặc kể cả anh Minh. Nhưng không ai chịu nói rõ mặc áo đó để làm công việc gì. Thôi cậu Khôi để tui chèo đỡ cho. Khi tới cửa hang, cậu lại chèo để tui lái.
Khôi liếc nhìn Việt tỏ ý ngại ngùng phải nhường mái chèo cho một cô gái. Dù sao thì tay Khôi cũng đã nổi chai lên rồi. Vả lại, Lan nói là làm. Nàng nắm lấy mái chèo và ngồi vào chỗ của Khôi. Trong khi Lan sử dụng mái chèo một cách khéo léo, thì Khôi Việt kể cho nàng nghe sự việc đã xảy ra. Lan im lặng nghe và không giấu nổi xúc động khi nghe đến đoạn thầy Phong mò ra chỗ rào gai để gửi tập tài liệu bí mật.
Nghe xong chuyện, Lan gác mái chèo và quan sát chăm chú vách ghềnh.
Việt lo lắng;
- Tôi chỉ sợ nếu bọn họ xuất hiện ở phía hải đăng thì tụi mình sẽ là cái đích thật ngon xơi cho họ ngắm bắn.
Lan lắc đầu:
- Điều ấy không lo lắm vì họ không ngờ bọn mình lại đi ngược lên đây. Vụ náo loạn đã xảy ra từ sáng sớm. Thím Chế Bảo tui có vẻ bồn chồn lắm. Thím cho biết là mọi người đàn ông trong trại đều mắc việc không về ăn cơm trưa, còn thím cũng phải ra đồng với các người đàn bà khác. Thừa dịp đó tôi lẻn ra đây, và chắc không ai để ý, vì ngọn hải đăng này bỏ phế lâu đời rồi. Từ thời Pháp thuộc, Đà nẵng đã trở thành bến tầu chính và ngọn hải đăng mới cũng được dựng lên ở ngoài mũi Sơn Trà. Chỗ này hoang phế, đổ nát, cỏ sắc cây dại chen lấn, chẳng ai ra đây làm gì.
Khôi từ lúc nhường chèo cho Lan vẫn ngồi trên mũi xuồng canh chừng phía trước. Việt vẫn giữ tay lái, nhưng Lan đột nhiên bảo;
- Cậu Việt lại chèo đi, để tôi lái cho.
Việt đổi chỗ. Lan tiếp:
- Cậu nhớ chèo mạnh tay về bên trái một chút. Mình bắt đầu tiến vào cửa động đấy.
Đằng mũi, Khôi đã cầm sẵn chiếc đèn bấm. Hắn ngồi chồ hổm với chiếc gậy hướng đạo, thỉnh thoảng lại chống mũi gậy vào các mỏm đá ngầm cho xuồng khỏi va phải khi bị sóng đánh tròng trành. Lan luôn miệng nhắc chừng Việt:
- Chèo cho đều nhịp chứ. Cậy đi, cậy! Xuôi chèo lại kẻo vấp vào đá bây giờ! Được rồi, bát, kìa bát đi.
Việt quýnh lên. Anh chẳng hiểu gì về ngôn ngữ Lan đã dùng, nên vừa bực mình vừa ngượng ngùng hỏi:
- Chị nói gì tôi cóc hiểu! Bát là gì, cậy là gì chị?
Như sực nghĩ ra, Lan cười ngặt nghẽo:
- Ừ nhỉ, tui quên mất các cậu không phải là dân biển, cứ quen miệng như khi ngồi thuyền với anh Minh. Nhưng “bát” là bên trái, “cậy” là bên phải. Khi tui nói “bát” thì có nghĩa là tay chèo bên trái của cậu mạnh hơn để ăn nhịp với tay lái của tui cho xuồng đi về bên trái. Còn “cậy” là ngược lại...
Việt thở ra, mỉm cười:
- Thế mà hồi nãy chị làm tôi quýnh quá! Kể ra chị Lan cũng bảnh thật. Chị biết nhiều hơn tụi tôi.
Lan thản nhiên đáp:
- Quen vậy thôi, chớ có giỏi giang chi!
Nàng trầm giọng tiếp:
- Bọn mình vô đây cũng là liều mạng lắm, song trước khi rời đảo mà không mạo hiểm một phen thì làm sao khám phá ra những bí ẩn mà tụi mình đang muốn biết. Bọn họ không làm gì được mình mô, vì đuổi bắt bằng đường thủy thì thuyền họ đã bị kẹt rồi. Hy vọng đến chiều tối tụi mình sẽ trở về được phố Hội bình yên.
Kể ra ý định của Lan cũng khá liều lĩnh. Việt tự hỏi tại sao không lợi dụng ngay lúc này - lúc họ không còn phương tiện đuổi theo - để chuồn êm về phố Hội cho rồi? Nhất là khi đã biết chắc chắn thầy Phong hiện có mặt trên đảo? Nhưng xuồng càng đến gần hang ý nghĩ phân vân của Việt cũng tan biến dần theo. Kế hoạch của Lan tuy liều lĩnh song rất hợp lý vì cuộc mạo hiểm vào trong hang dù sao cũng giúp cho ba người khám phá thêm nhiều điều cần biết.
Việt còn đang mải suy nghĩ, đến khi ngửng lên đã thấy vòm hang che trên đầu, Lan nói:
- Mạnh tay chèo bên trái một chút.
Việt làm theo lời Lan chỉ dẫn và đưa mắt nhìn quanh một lượt. anh nhận ra lòng hang phình rộng, và xuồng càng tiến thêm vào mặt nước càng lặng. Việt gác xuôi mái chèo để xuồng luớt theo đà, nhẹ nhàng tiến vào trong động. Khôi luôn tay lia ngọn đèn bấm đi tứ phía.
Lan phải can:
- Cậu nên dành “bin” để lát nữa chúng ta còn phải dùng khi vào sâu trong các ngách động. Với lại còn đêm nay nữa, chúng ta cũng cần có đèn để tránh các mỏm đá ngầm khi trở về Phố Hội.
Hang không tối lắm. Mặt nước phản chiếu những tia nắng dọi từ các kẽ hở trên nóc hang, nên chỉ một lát sau quen mắt là có thể nhìn được dễ dàng. Việt nhận ra các ngách hang đúng như Lan đã tả khi thấy bóng thầy Phong, ngách hang này chia làm hai đợt, thoạt trông tưởng đá mọc tự nhiên. Nhưng khi nhìn gần mới thấy đó là lối đưa vào các đường hầm do bàn tay người tạo tác.
Ngách không có lối lên, nhưng sau một hồi tìm kiếm, ba người phát giác ra một góc tối vừa có thể leo lên được, vừa rất tiện làm chỗ giấu xuồng. Lan nói:
- Chúng mình chỉ có vài tiếng đồng hồ để thám thính ở đây thôi, và phải thoái lui đúng vào lúc nước triều xuống.
Việt kêu:
- Có hai giờ thôi!
Nhưng anh bỏ lửng câu nói vì không ai nghe anh cả. Khôi đã nhanh nhẹn đặt chân lên ngách đá. Hắn quì một gối trên đất, xem xét và huýt lên nho nhỏ:
- Coi này! có một đường rầy đã rỉ sét, ăn thông vô trong hầm.
Ánh đèn trên tay Khôi run run chứng tỏ anh ta đang xúc động và Việt nghe rõ bạn lẩm bẩm:
- Chắc chắn tụi mình khám phá ra được nhiều sự lạ!
Các đường rầy Khôi vừa thấy giống như đường rầy ở mỏ than Nông Sơn. Đó là những đường sắt song hàng, hẹp bề ngang đặt sơ sài trên mặt đất. Các ngách hang nằm bên ngoài cửa hầm có thể là các bến nổi khi nước triều dâng cao. Nhưng các thuyền lớn không thể cặp vào bến này được, vì lòng hang tuy khá rộng, song không đủ cho những thân thuyền dài xoay chuyển.
Khôi đặt câu hỏi:
- Phải chăng đây là một thứ bến để bốc hàng bằng các xuồng nhẹ?
Lan nói:
- Tui sinh trưởng ở đây, và sống trên đảo này suốt thời thơ ấu, mà tui có thấy ai bốc hàng, dỡ hàng chi mô? Thổ sản ở đây, ngoài cá mú, và dầu chàm ra không còn có gì để phải chuyên chở bằng những chiếc goòng trên đường này!
Khôi quả quyết:
- Chắc ở đây phải có một cái mỏ. Đúng rồi. Tiếng chuông mà chúng ta nghe âm u dưới lòng đất là tiếng chuông báo hiệu giờ làm dưới mỏ.
Việt vỗ tay lên trán:
- Nếu thế, năm người mà Việt thấy sáng nay là năm thợ mỏ!
Lan trầm ngâm nhắc lại:
- Một cái mỏ! Có thiệt những người trong trại đã xuống làm việc dưới hầm mỏ chăng? Tại sao không ai nói chi tới cái mỏ đó bao giờ cả?
Giả thuyết có một hầm mỏ giải thích được nhiều điểm nghi ngờ, ví dụ như năm người sáng nay đã chui cửa hầm để xuống chỗ làm việc. Nhưng Việt vẫn không thể hiểu được tại sao họ xuống hầm mỏ mà lại phải lặn dưới biển, với bộ đồ thợ lặn. Hơn nữa, còn thầy Phong, nguyên nhân nào đưa thầy đến đây và hầu như bị cầm giữ trên đảo?
Đứng trên đường rầy, Khôi, Việt và Lan thì thầm bàn tán. Tiếng sóng vỗ ngoài ghềnh lấn át tiếng nói của họ. Khôi nói:
- Không hiểu họ đang khai thác mỏ gì ở đây nhỉ?
Lan tiếp:
- Và những ai đang làm việc ở đây? Ngoài ít dân trên đảo, tui chắc còn có nhiều người khác nữa mà anh Minh phải e dè. Còn thầy Phong, Chẳng hiểu thầy ấy ra sao?
Khôi đưa tay lên gãi sau gáy, một thói quen của Khôi khi gặp điều bối rối, và ngắt ngang lời Lan:
- Tụi mình cứ đứng đây bàn tán mãi chẳng được tích sự gì cả. Tốt hơn hết ta nên tìm xem những cửa hầm này đưa tới đâu. Chỉ ngại là không biết có kịp không, vì nước triều đang lên và mực nước còn dâng cao hơn nửa.
Lan gật đầu:
- Đúng thế! Có thể lúc tụi mình đang mò mẫm trong đường hầm mà nước dâng lên thì tụi mình chẳng khác gì một lũ chuột mắc kẹt trong ống cống!
Khôi chỉ ngấn nước của mức thủy triều hôm trước còn để dấu lại gần sát nóc hang:
- Nếu vậy chúng ta rút lui chứ? Rõ ràng là mực nước sẽ ngập quá nửa hầm rồi.
Giọng Lan có vẻ gay gắt:
- Muốn thoái thì cũng đành vậy chứ biết răng chừ! Nhưng tính sao đây? Xuống xuồng ngồi đó chờ nước rút rồi ra hả?
Thực tình Khôi Việt không có ý định bỏ cuộc sớm như thế. Lời nói gay gắt của Lan làm hai anh em ái ngại. Mạo hiểm vào hang trong lúc gặp điều kiện thuận lợi đã là can trường rồi. Nhưng nếu đi sâu vào các hầm mỏ trong hang đầy rẫy nguy hiểm rình rập thì quả là liều mạng. Trong những trường hợp tương tự, nếu phải chú Triều Dương, chú sẽ khuyên: nên khôn ngoan chứ đừng liều lĩnh. Việt quay sang Lan phân trần:
- Chị cũng nhận thấy là nếu tụi mình tiến sâu hơn có thể bị mắc kẹt lắm chứ? Bởi vậy đã tới đây mà có phải thoái lui thì cũng kể như bất đắc dĩ...
Lan cướp lời:
- Theo tui thì cần phải khám phá ra những bí ẩn ở trong hang nầy và tìm cách cứu thầy Phong còn hơn là...
- Là sao chị?
Lan đổi giọng. Nàng ôn tồn nói:
- Các cậu đừng tưởng là tui mạnh bạo chi mô. Tui cũng run lắm chớ.
Nhưng tui tin chắc tụi mình chẳng đạt được kết quả nào hết nếu không tranh thủ thời gian, hành động kịp thời trước khi nước triều xuống. Trong trường hợp phải rút lui, chắc chắn chúng ta có thể tìm được chỗ ẩn náu để chờ nước rút. Chiếc xuồng của tụi mình đã được giấu vào một chỗ kín đáo nên không sợ gì hết.
Khôi gật đầu. Hình như không còn cách nào hơn là tán thành ý kiến của Lan khi nàng bày tỏ ý kiến ấy một cách hết sức điềm tĩnh. Lan tiếp:
- Còn điều này nữa là không ai có thể vô đây vào giờ nước lớn, vì cửa hang đã bị ngập kín rồi. Muốn vô trong ni phải lợi dụng đúng lúc nước triều lên, như hồi chúng ta chèo vô mới được. Thường thường mực nước chỉ dâng tới ngách hang này thôi. Ngách trên ít khi bị ngập.
Khôi nói:
- Chị nói cũng có lý. Cửa hang ngoài một khi đã ngập kín rồi thì chẳng ai vào đây được nữa. Còn chúng mình đã vào đây, đã thấy cái đường rầy này ăn thông vào trong hầm mà không xem xét cho tỏ tường, kể cũng uổng công lắm.
Khôi gãi gáy tiếp:
-Theo tôi, ta nên leo lên ngách trên thì hơn, vì đứng dưới này dầm chân dưới nước khó chịu quá.
Ba người quay lại chỗ giấu xuồng kiểm soát lần nữa cho chắc, rồi tìm cách leo lên. Điều cả ba người đều quan tâm là tìm kiếm tỉ mỉ xem hai ngách hang này được dùng làm thứ bến bí mật để bốc dỡ món hàng gì? Nhưng muốn lên ngách trên không thể bám vách hang leo lên được; nên sau một hồi bàn tán, ba người quyết định chui vào đường hầm vì chắc hai ngách phải có lối ăn thông với nhau. Ánh nắng bên ngoài lọt qua các kẽ hở trên nóc hang lóe lên thứ ánh sáng mập mờ, đủ cho ba người nhìn được lối đi.
Tiến sâu thêm chút nữa, khoảng đường rầy có vẻ ít rỉ sét hơn. Đoán chừng chỗ này là nơi bốc dỡ hàng, ba người khom lưng tìm kiếm, nhưng thấy toàn sỏi đá, tuyệt nhiên không có một cục than hay miếng quặng nào.
Việt nói:
- Họ chuyên chở thứ gì mà tuyệt nhiên không thấy vương vãi một dấu vết nào. Bí mật thật!
Lan nhún vai:
- Có thể là họ chẳng chuyên chở chi hết. Biết đâu khúc đường sắt này đã có sẵn từ lâu vậy thôi.
Khôi thúc dục:
- Mình cứ tiến vào xem sao. đường hầm này dốc trở lên trên chắc ăn thông lên ngách trên được.
Lan gật đầu:
- Đúng thế. Tui đã thấy thầy Phong và anh Minh xuất hiện trên đó.
Hầm tối om, nên phải chờ Khôi sửa soạn đèn bấm. Trước khi chui vào, ba người còn thận trọng nhìn về chỗ giấu xuồng.
Lan chỉ tay nói:
- Coi kìa, chỗ chúng mình vừa đứng ngập nước rồi.
Quả nhiên, mực nước dâng lên rất chóng đã vít kín hẳn cửa hang. Ba người lặng lẽ nhìn nhau, hồi hộp. Giờ phút này kể như họ đã bị nước triều nhốt kín trong động. Trước hoàn cảnh đó cả ba đều cảm thấy hoảng sợ, nhưng cảnh tượng trước mắt, từng đợt nước sôi réo, cuồn cuộn từ ngoài tràn vào, làm họ sững sờ đứng ngắm không chán mắt.
Khôi bật đèn:
- Chúng mình chui vào hầm thôi chứ?
Đúng lúc ấy, Việt chợt thấy ở cửa hang nổi lên một vật đen ngòm, loáng ướt. Anh chỉ tay kêu:
- Kìa! Một con cá ông!
Con vật kỳ dị mà ba người chưa hề thấy, nổi lưng trên mặt nước xoáy động nom giống như một con kình ngư của biển cả.
Nó lừ lừ tiến về phía ba người đang đứng, và khi tới gần, nó lặn xuống. Lúc ấy ba người mới kịp nhận ra con vật đó chỉ là một chiếc tầu ngầm.
Người nhận ra điều ấy trước tiên là Khôi. Anh kêu:
- Không phải cá ông! Nó là một chiếc tầu! Một tiềm thủy đĩnh!
Việt nói:
- Chắc nó đến lấy hàng!
Lan tiếp:
- Ừ hí, nó chờ đúng lúc nước triều lên cao, lẻn vô đây để khỏi ai trông thấy.
- Ồ. Có một nắp tàu vừa mở!
- Nguy rồi, tụi mình trốn mau!
Cả ba phóng mình vào trong hầm, xô đẩy chệnh choạng trên đường sắt. Qua cơn hốt hoảng, ba người dừng lại. Khôi bật đèn, phía trước mặt, khúc đường rầy quẹo sang một ngách hầm khác và bên tay mặt có một khe hẹp mà Khôi đoán là lối lên tầng trên.
Khôi nói:
- Chúng mình tạm ngừng đây xem tình hình ra sao đã.
Lan phụ họa:
- Phải đấy. Đứng thở một chút cho đỡ mệt.
Việt băn khoăn:
- Sợ nước triều còn dâng lên tới đây nữa thì sao?
Việt vừa nói xong thì một tiếng động chát chúa vang lên phía sau lưng. Khôi quay phắt lại, rọi ánh đèn, kịp cho mọi người thấy một cánh cửa sắt nặng nề sập xuống.
Việt bàng hoàng kêu:
- Chêt cha! Tụi mình bị kẹt trong này rồi!
*
Lan lẩm bẩm:
- Cánh cửa này ngăn cho nước triều khỏi tràn vô trong hầm. Như vậy tụi mình cũng đỡ lo được phần nào!
- Nhưng nó cũng bít luôn lối rút lui của bọn mình!
Khôi cố giữ vẻ bình tĩnh.
- Mình sẽ tìm lối khác!
- Biết có lối nào khác không? Lớ ngớ nhỡ họ tóm được thì nguy!
Lan thản nhiên đáp:
- Rủi có lọt vào tay họ tui cũng bất cần. Thầy Phong cũng đang ở trường hợp đó.
Từ lúc cánh cửa sắt nặng nề sập xuống bít kín cửa hầm, bọn Khôi, Việt và Lan không dám bàn tán mạnh dạn nữa. Ba người chỉ thì thào trao đổi ít lời để trấn tĩnh nhau: vì ai cũng hiểu rằng họ đã bị kẹt trong hầm, và phân vân không biết nên đi theo con đường sắt, hay vào khe hẹp để lên từng trên?
Chiếc tầu hiện ra giữa lòng hang đúng là một tiềm thủy đĩnh rồi. Nhưng nó khác hẳn các loại tầu ngầm thường thấy, có thân dài như mình cá. Đây là một loại tầu ngầm nhỏ, thân ngắn, sườn phình tròn giống hình thù một con rùa khổng lồ, và hình như đặc biệt được dùng ở nơi chật hẹp cho dễ xoay trở. Việt tự hỏi: tại sao nó phải chờ nước triều lên để lặn sâu vào trong động. Chắc chắn nó phải có một lý do bí mật nào. Lý do đó rất dễ hiểu:
Nó vừa cặp vào sát ngách hang để chờ bốc hàng xuống! Nhưng hàng gì? Và do đâu chở tới? Đứng trong đường hầm tối om, Việt không ngớt đặt ra nhiều câu hỏi. Thoạt đầu anh tưởng việc thầy giáo Phong mất tích đã là một việc quan trọng. Nhưng bây giờ trước sự xuất hiện đột ngột của chiếc tầu ngầm này, Việt lại thấy mình đứng trước một bí ẩn còn quan trọng hơn.
Anh nghĩ giá lúc nhận được tập tài liệu mật của thầy Phong, anh và Khôi đem ngay về Phố Hội, thì có lẽ chú Triều Dương và các nhà chức trách đã có những biện pháp thích hợp cho các vấn đề rắc rối này. Nhưng bọn anh cũng không thể bỏ mặc Lan ở đây được. Lan đã giúp đỡ các anh, cùng phe với các anh; hơn nữa Lan lại sẵn sàng chịu đựng mọi gian nguy để mong cứu thoát anh nàng và thầy Phong thì Khôi Việt càng có bổn phận phù trợ nàng. Bây giờ việc đã lỡ rồi, chiếc xuồng đã để lại ngoài kia, cửa hầm bị vít kín có than trách cũng là vô ích. Chỉ còn cách tiến tới, may ra còn cơ hội thoát ra được, hoặc hy vọng tìm được Minh hay thầy Phong.
Việc trước nhất bọn Khôi Việt nhắm tới là men theo vách hầm đến cuối khe đá bên tay mặt mà cả bọn đều cho rằng đó là lối lên ngách thứ hai. Nếu lên tới ngách trên mà gặp trắc trở, chẳng hạn như đụng độ với người của chiếc tầu ngầm vừa xuất hiện thì sẽ lại rút xuống hầm để theo con đường sắt xem nó dẫn tới đâu.
Lối lên ngách trên thật khó nhọc. Khe chật chỉ vừa đủ lọt một người, có lúc phải chui qua một lỗ tối trơn trượt, có lúc lại phải trèo những bậc đá xoáy trôn ốc. Khôi trao cho Việt chiếc đèn bấm, và Việt tiến lên trước, vừa chiếu đèn trở lại cho Khôi và Lan theo sau. Chiếc ba-lô Việt đeo sau lưng cứ bị vướng chạm vào các mô đá. Phía dưới, giọng Khôi lại luôn luôn nhắc nhở.
- Chậm chậm chứ! Sao cậu đi nhanh thế?
Việt phải ngừng lại từng chặng và đưa ánh đèn dò dẫm.
Sau khi lách qua khe đá, Việt thấy trước mặt hiện ra một hành lang có cầu thang. Anh thở phào:
- Ra tới chỗ rộng rồi. Chỗ này có một cầu thang.
Việt vừa dứt lời, chợt nghe có tiếng chân bước nặng nề đi xuống!
Việt khựng lại, ghé tai Lan bảo:
- Quay lại! Chị nói với Khôi quay lại mau!
Anh vừa thụt lui được vài bước Lan đã thì thào:
- Cậu Khôi hỏi tại sao rứa?
Khôi vẫn có cái tật ấy! Nhè lúc tình thế khẩn cấp mà bắt giải thích tại sao! Việt bực mình đáp:
- Không cần hỏi lôi thôi, chị cứ xô hắn đi hộ tôi. Có người đang tới!
Việt cố khom người cho khỏi bị vướng mắc mà chiếc ba-lô vẫn cứ như muốn cản anh lại. Phía sau có tiếng cằn nhằn của Khôi vì bị Lan xô đẩy. Nhịp chân của người lạ vẫn đều đặn bước xuống, không nhanh không chậm. Hắn chưa biết có bọn Khôi Việt ở đây, nhưng chầy kíp hắn cũng khám phá ra. Việt lui tới một khoảng khá rộng, vừa đủ cho anh xoay người lại. Từ lúc quay lui, Việt không dám bấm đèn nữa. Anh sờ soạng lần theo vách đá, và càng hấp tấp anh càng lúng túng thêm. Chiếc ba-lô của Việt vướng quai vào mốc đá kéo đè lên đầu Việt.
Đúng lúc ấy, tiếng chân người đã xuống hết bực thang. Có ánh đèn lướt qua chỗ Việt vừa nhô lên khi nãy và khi nghe tiếng động nên thụt lại. Hoảng hốt Việt mất hết bình tĩnh. Anh giật mạnh chiếc ba-lô làm nó tuột qua đầu và cũng đồng thời vật anh ngã ngửa. Ánh đèn bên trên tiếp tục di động lại gần. Việt vùng lên bỏ chạy.
Thoát khỏi khe đá, Việt gặp lại Khôi và Lan đứng đợi. Họ rồn rập hỏi:
- Có chuyện chi rứa?
- Cậu nghe ngóng ra sao?
- Còn chiếc “sắc” đâu?
- Rơi mất rồi hả!
Khôi dằng lại cây đèn. Việt hổn hển nói:
- Mau lên có người đang soi đèn đi xuống. Tụi mình chỉ còn cách chuồn theo lối đường sắt thôi.
Đầu kia, trong khe tối vẳng lên tiếng nói của một người đàn ông. Hắn càu nhàu bằng giọng nói ngoại lai khó hiểu.
Việt thì thầm.
- Hắn thấy rồi. Chắc hắn vấp phải chiếc ba lô. Thôi, chuồn mau đi!
Cả ba người hấp tấp bỏ chạy. Khôi nói:
- Nắm lấy nhau cho khỏi lạc! Mình cần phải tới khúc quẹo của đường sắt trong khi gã kia còn mải ngắm chiếc ba lô của Việt!
Việt chống chế:
- Tớ có muốn thế đâu! Tại cái quai nó mắc vào đá đấy chứ!
Lan nói:
- Dĩ nhiên rồi! Cũng như nó đã làm khốn đốn cậu ngoài hàng rào kẽm gai bữa gặp tui đó tề! Mấy cậu con trai ưa đeo sắc trên vai lắm. Làm như hễ đi đâu là phải mang theo đủ thứ!
Tới khúc quẹo của đường sắt, Khôi bật đèn, nhưng cẩn thận che bớt ánh sáng. Chỗ đó là nơi tiếp giáp của nhiều đường ăn thông vào các cửa hầm khác. Có lẽ đây là những đường hầm đi sâu xuống dưới lòng mỏ. Còn đang phân vân chưa biết chọn ngả nào thì ánh đèn của gã đàn ông đã tiến tới phía sau. Hắn đã thấy chiếc ba-lô nên đang lùng kiếm bọn Khôi Việt.
Khôi tắt phụt ánh điện, kéo cả bọn vào một con đường hầm gần nhất. Bước chân của ba người vang lên trong đường hầm. Thỉnh thoảng họ dừng lại vì nghe như có tiếng sóng gió gầm thét đâu đây. Chẳng biết đó là tiếng sóng vỗ hay tiếng gió lùa vào các cửa hầm tạo nên thứ âm thanh u trầm, hun hút? Chạy quanh co một lúc khá lâu, ba người thấy yên tâm hơn vì có cảm tưởng như đã làm gã đàn ông lạc hướng không còn biết ngả nào đuổi theo.
Lan bỗng nói:
- Từ nãy giờ tụi mình chạy cuống lên, chẳng hiểu đâu với đâu cả.
Nhận xét của Lan thật đúng. Ba người như bị lạc vào một hang động đầy ngõ ngách và vắng bóng người.
Ánh đèn lại được chiếu sáng, cả bọn lần đến một khúc đường sắt chia làm ba ngả. Phía trên đầu, những dây điện cao áp chằng chịt trên vòm đá. Việt thầm nghĩ: Không biết những dây điện này dùng để làm gì? Có còn được dùng nữa không? Mà sao có vẻ hoang vắng thế?
Khôi đứng trên đường rầy chợt lên tiếng:
- Tụi mình mạo hiểm vào đây cũng khá xa rồi. Có lẽ nên tìm lối chuồn ra thôi.
Việt đáp:
- Đã chắc gì tìm được lối mà ra chứ!
Bỗng có tiếng kim khí rít lên ken két, tiếp theo là tiếng rú đau đớn của Khôi:
- Ối cha! Chân tôi bị kẹt rồi. Chiếu đèn mau!
Lan rọi ánh đèn vào Khôi đang múa may trên đường sắt:
- Chết, sao thế?
Khôi rên rỉ;
- Chi không thấy một chân tôi bị kẹt vào đường rầy đó sao? Còn hỏi!
Lan vùng nói:
- Phải rồi, họ đổi “ghi”. Hèn chi có tiếng kêu ken két vừa rồi.
Khôi giục:
- Hai người làm ơn kéo tôi ra với chứ!
Vừa nói Khôi vừa vùng vẫy cố rút chân ra khỏi đường sắt.
Việt kinh hoàng nghĩ đến trường hợp có người đã vướng chân vào đường ghi và bị cả một toa xe lửa xông đến cán nát thây. Lan luống cuống lai ánh đèn tìm một đòn bẫy, hy vọng dùng đòn bẫy ấy làm nhả hai mối sắt đang kẹp cứng chân Khôi.
Nhưng cả ba bỗng kêu lên kinh hãi.
Đường hầm vụt sáng.
Xa xa, có tiếng chuyển động ầm ầm của một đoàn xe đang tiến đến..