Thật là một đêm khủng khiếp đã trôi qua. Hai giờ, trời đổ mưa như trút nước đến tận sáng. Chiếc xe kéo bị sa lầy, nên đoàn thám hiểm phải nghỉ lại giữa rừng. Chiếc lều không đủ sức che mưa, Glenarvan và những người cùng đi phải vào trú trong xe. Không ai ngủ được mọi người kháo nhau đủ chuyện. Riêng thiếu tá chỉ im lặng ngồi nghe. Trận mưa rào dữ dội vẫn chưa ngớt. Ayrton và John Mangles sợ chiếc xe sa lầy bị ngập nước, nên chốc chốc lại đi xem mực nước sông. Khi về, ai nấy ướt như chuột lột. Cuối cùng, trời sáng. Mưa tạnh, nhưng những tia nắng chưa thể xuyên thủng những làn mây đen dày đặc. Chung quanh toàn thấy những vũng nước lớn vàng khè. Glenarvan quyết định trước hết phải kiểm tra lại cỗ xe. Hai bánh trước gần như bị ngập lút dưới bùn, còn hai bánh sau thì bị lút tới trục. Kéo cả cỗ xe lên khổi hố lầylà một việc không dễ dàng, dù cho có dùng cả sức người, sức bò và ngựa! - Dẫu sao cũng phải khẩn trương kéo lên. Nếu không, khi đất sét bắt đầu khô thì lại càng khó kéo hơn, - Harry Grant nhận xét. - Ta nhanh tay nào, - Ayrton lên tiếng. Glenarvan, hai người thuỷ thủ, John Mangles và Ayrton vào rừng tìm đàn bò và ngựa mà họ buộc tối hôm qua. Mọi người bổ đi tìm khắp rừng, nhưng chỉ uổng công, Ayrton rất đỗi kinh hoàng trở lại bờ sông Snowy. Anh ta bắt đầu lớn tiếng gọi những con bò theo cách thông thường ở trang trại, những cũng không thấy chúng đâu. Viên hoa tiêu tỏ ra hết sức hoảng hốt, những người trong đoàn thất sắc nhìn nhau. Cứ thế, cuộc tìm kiếm kéo dài cả giờ, Glenarvan đã định trở lại chỗ xe đậu ở cách đó chừng hơn một dặm bỗng ông nghe có tiếng ngựa hí và sau đó gần như cùng một lúc là tiếng bò rống. - Đây rồi! – John Mangles kêu lên, rồi lách qua những bụi cây rậm rạp có thể che khuất cả đàn súc vật. Glenarvan, Mulrađi và Ayrton lao ngay đến chỗ chúng và lặng điếng người đi, những con bò và ngựa nằm lăn ra chết, xác đã cứng đờ. Bầy quạ đói nháo nhác quanh cả bụi cây mắc cỡ đợi dịp nhào xuống rỉa mồi. (Hình vẽ trang 168) Glenarvan và những người cùng đi đưa mắt nhìn nhau. Wilson buông lời não nuột: - Biết làm sao bây giờ! - Ayrton, ông dẫn con bò và con ngựa còn sống đi. – Glenarvan cố dằn lòng nói. – Bây giờ hai con này đây sẽ cứu giúp chúng ta đó. - Giá chiếc xe không bị sa lầy, - John Manglé nói, thì cứ đi từng chặng, từng chặng một, chúng cũng kéo được xe tới biển đấy. Bây giờ phải bằng mọi cách trục xe lên mới được. - Ta sẽ thử xem, John, - Glenarvan đáp, - Còn bây giờ hãy quay về đã. Có lẽ mọi người ở đó đang sốt ruột đợi, vì ta đi lâu quá rồi. Ayrton tháo dây buộc bò, còn Mulradi thì tháo dây buộc ngựa, rổi tất cả cùng đi cặp theo bờ sông về trại. Nửa giờ sau, Paganel, Mac Nabbs, huân tước phu nhân và cô Mary đã được biết đầy đủ chuyện gì xảy ra. - Tiếc quá đấy, ông Ayrton ạ. Hôm đi qua sông Wimerra ta đã không đóng móng cho tất cả mấy con ngựa, - không kìm được nữa, thiếu tá nói với viên hoa tiêu. - Vì sao vậy, thưa ông? - Vì rằng, trong tất cả những con ngựa của ta chỉ có mỗi một con đã được thợ rèn của ông đóng móng là con sống sót mà thôi. - Hoàn toàn đúng thế! – John Mangles khẳng định. - Thật là một sự ngẫu nhiên lạ lùng! - Đấy chỉ là một sự ngẫu nhiên thôi. – viên hoa tiêu đáp, nhìn thiếu tá trừng trừng. Mac Nabbs cắn chặt môi, tựa hồ như muốn kìm lại những điều sắp bật ra khỏi miệng, Glenarvan, John, Helena có vẻ như chờ đợi thiếu tá nói hết ý của mình ra, nhưng ông đã lặng lẽ đi đến chỗ chiếc xe mà Ayrton vừa xem xét xong. - Thiếu tá muốn nói gì vậy? – Glenarvan hỏi John Manglé. - Tôi không biết, thưa huân tước, nhưng thiếu tá không phải là người nói thừa. - Tất nhiên rồi, John, - Helena nói, - Mac Nabbs có vẻ nghi ngờ Ayrton điều gì đó. - Nghi ngờ à? – Paganel nhún vai trả lời. - Nhưng nghi ngờ cái gì chứ - Glenarvan ngạc nhiên. – Không có lẽ thiếu tá cho Ayrton là người giết ngựa và bò của chúng ta chăng? Để nhằm mục đích gì? - Anh nói đúng, Edward thân yêu ạ, - Helena nói, - Vả lại, ngay từ lúc đầu, viên hoa tiêu đã tỏ ra rất trung thành với chúng ta kia mà. - Vậy không nghi ngờ, - John Mangles khẳng định. - Thế thì những lời thiếu tá nói có ý nghĩa gì, tôi muốn hiểu điều đó. - Hay là thiếu tá cho anh ta là kẻ đồng loã với bọn tù khổ sai nọ, - Paganel bộp chộp nói… Trong lúc ấy, Ayrton và hai thuỷ thủ cố gắng kéo cỗ xe ra khỏi vùng lầy. Con bò và con ngựa được đóng vào xe thành đôi cố sức kéo, tưởng như các dây kéo sắp bị đứt, và cái ách sắp bị gãy tung ra. Wilson và Mulradi cố bắt bánh xe, còn viên hoa tiêu thì quật, đánh và thúc hai con vật. Cỗ xe nặng vẫn không nhúc nhích. Đất sét đã kịp khô bám chặt lấy bánh xe như xi măng vậy. John Mangles ra lệnh lấy nước đổ vào đất sét cho nhão ra - Uổng công: cỗ xe sa lầy vẫn đứng ì. Sau những cố gắng mới không có kết quả, cả người và vật đều ngừng lại. Không biết làm gì được nữa, chẳng lẽ tháo tung cỗ xe ra. Mà cũng không có dụng cụ, nên không thể làm như vậy được. Một mình Ayrton vặn cổ tìm mọi cách để khắc phục trở ngại. Anh ta định đưa ra một kế mới, nhưng Glenarvan đã ngăn lại: - Thôi Ayrton, thôi! Chúng ta phải bảo vệ con bò và con ngựa còn lại này. Nếu cần phải đi bộ để tiếp tục cuộc hành trình thì một trong hai con ấy để cho Helena và Mary cưỡi, còn con kia chở lương thực. Cả hai con vật vẫn còn giúp ích cho chúng ta. - Hay đấy, thưa huân tước! – Viên hoa tiêu đáp và bắt đầu tháo ách những con vật kiệt sức ấy ra khỏi xe. - Còn bây giờ, các bạn của tôi, - Glenarvan nói tiếp, chúng ta trở vào lều bàn bạc tình hình, cân nhắc xem phải làm gì, rồi sẽ quyết định. Các nhà thám hiểm sau một đêm vất vả đã được ăn bữa sáng khá tươm tất để lấy lại sức, rồi bắt đầu bàn việc. Tất cả mọi người đều nói lên ý kiến của mình và nhất trí tiếp tục cuộc hành trình về phía vịnh Twofold – Bay càng sớm càng tốt, Helena và Mary sẵn sàng đi bộ năm dặm mỗi ngày. - Helena yêu quý, em thật sự là người bạn tin cẩn của anh trong cuộc hành trình, - Glenarvan nói với vợ. – Nhưng liệu chúng ta có tin chắc được rằng đến vịnh ấy sẽ xoay sở được những thứ cần thiết không? - Không nghi ngờ gì cả, - Paganel nói, - Eden không phải là thành phố mới xây dựng ngày hôm qua, giữa cảng của nó với Melbourne nhất định phải thường xuyên có tàu bè qua lại. Nhưng tôi nghĩ, đến Delegete cách đây 35 dặm chúng ta sẽ có thể không những dự trữ lương thực mà còn tìm được phương tiện đi lại nữa. - Còn “Ducan” thì sao? – Ayrton hỏi. – Huân tước không thấy bây giờ ra lệnh cho tàu đến Twofold – Bay là đúng lúc rồi sao? - Ý kiến anh thế nào, John? – Glenarvan hỏi. - Thưa huân tước, tôi thấy không nên vội vã chuyện này. – John trả lời sau khi đã nghĩ kỹ, - Huân tước có thể ra lệnh cho Tom Austin đến vùng duyên hải lúc nào cũng kịp ạ. - Hoàn toàn đúng thế - Paganel nói thêm vào. - Huân tước cứ suy nghĩ đi, - John Mangles nói tiếp, - vì chỉ bốn, năm ngày nữa là chúng ta sẽ có mặt ở Eden rồi. - Bốn, năm ngày! – Ayrton nhắc lại, lắc đầu. – Không đâu, thuyền trưởng ạ. Ông hãy thêm vào đó độ mười lăm ngày nữa, vị chi là hai mươi ngày, kẻo rồi sau đó các ông lại phải ân hận. - Mười lăm hoặc hai mươi ngày mới đi được bảy mươi dặm thôi ư? – Glenarvan ngạc nhiên. - Không ít hơn đau, thưa huân tước. Bởi vì phía trước là vùng cằn cỗi nhất của tỉnh Victoria, nhiều nơi hoang vắng không có lấy một trang trại nào, chỉ thấy toàn những bụi cây dại mọc, không có đường sá. Phải vừa đi, vừa cầm rìu hay dao mà phát, vì vậy các ông hãy tin rằng không thể đi nhanh hơn được đâu. Ayrton nói thất cả những điều ấy bằng một giọng đầy tự tin. Mọi người nhìn Paganel vẻ dò hỏi. Nhà địa lý gật đầu khẳng định lời viên hoa tiêu. - Cứ cho là vậy đi! – John Mangles nói, - biết làm sao được. Mười lăm ngày nữa huân tước gửi lệnh cho “Ducan” cũng vẫn kịp. - Cần nói thêm là, - Ayrton tiếp lời, - đường khó đi vẫn chưa phải là điều chủ yếu. Mà còn phải vượt qua sông Snowy nữa. Lại phải đợi nước rút mới đi được. - Đợi nữa? - Thuyền trưởng trẻ ngạc nhiên. - Thế không có chỗ nào nước nông sao? - Hoàn toàn không, - Ayrton đáp, - Sáng nay tôi đã thử dò chỗ nông, nhưng chẳng hy vọng gì. - Vậy là con sông Snowy này rộng lắm phải không? – Huân tước phu nhân Helena hỏi. - Rộng mà sâu nữa, thưa phu nhân, - Ayrton đáp. – Nó rộng đến một dặm, nước lại chảy xiết. Đến tay bơi giỏi cũng không thể liều lĩnh bơi qua được đâu. - Vậy thì có sao – Robert kêu lên, không hề bối rối. – Ta chặt cây làm bè mà đi. Thế là xong. - Con trai thuyền trưởng Grant khá lắm! – Pagenel khen ngợi. - Robert nói đúng, - John lên tiếng. – Ta không còn cách nào khác nữa. Tôi cho rằng không nên mất thì giờ tranh luận vô ích. - Ayrton, ý kiến của ông thế nào? – Glenarvan quay sang hỏi viên hoa tiêu. - Thưa huân tước, tôi sợ rằng néu không có chi viện kịp thời thì có khi ta còn phải chờ đợi ở sông Snowy này cả tháng nữa đó. - Thế anh có cách gì khác tốt hơn không? – John Mangles hỏi, giọng hưi bực bội - Ôi chao, lại “Ducan”! Vậy ông hãy cho tôi biết vì sao nếu “Ducan” đến Twofold – Bay thì chúng ta đi đến đó sẽ đỡ vất vả hơn? Ayrton suy nghĩ một lát, rồi nói khá quanh co: - Tôi không thể ép buộc thực hiện ý kiến của mình. Tôi chỉ muốn vì lợi ích chung và sẵn sàng đi tiếp theo lệnh của huân tước. – Nói xong, anh ta khoanh chéo tay trước ngực. - Đó không phải là câu trả lời, ông Ayrton! – Glenarvan nói, - Ông hãy cho biết kế hoạch của mình và chúng ta sẽ cùng nhau bàn… Ông tính thế nào? - Tôi cho rằng trong tình cảnh nguy khốn của ta thì không nên mạo hiểm rời khỏi sông Snowy. – Ayrton nói bằng một giọng bình tĩnh, tự tin. – Chúng ta cần phải ở lại đây chờ chi viện. Mà chỉ có “Ducan” mới chi viện được thôi. Chúng ta dừng lại ở đây và cử một người mang lệnh cho Tom Austin đưa tàu đến Twofold-Bay. Mọi người hơi ngạc nhiên trước đề nghị bất ngờ này, còn John Mangles thì rõ ràng là không đồng tình. - Trong thời gian đó, - viên hoa tiêu nói tiếp, - nếu nước sông rút thì chúng ta sẽ lội qua hoặc là sẽ làm thuyền bơi qua. Đó là kế hoạch mà tôi đề nghị, thưa huân tước. - Tốt lắm Ayrton ạ, - Glenarvan đáp, - ý kiến của ông đáng được bàn một cách nghiêm túc… Nhược điểm chủ yếu của ý kiến này là nếu làm như vậy thì chúng ta sẽ mất nhiều thời gian. Nhưng lại bớt phải tiêu hao sức lực, mà cũng có thể tránh được những nguy hiểm trước mắt. Các bạn, ai có ý kiến gì không? - Thế ý kiến của bác thế nào, Mac Nabbs thân mến? – Helena hỏi thiếu tá. - Từ đầu đến giờ bác chỉ nghe mà chưa nói lời nào? - Nếu huân tước phu nhân hỏi ý kiến tôi, - Mác Nabbs trả lời, - thì tôi xin nói hoàn toàn thẳng thắng suy nghĩ của mình. Tôi thấy rằng Ayrton đã nói như một người thông minh và thận trọng. Tôi ủng hộ đề nghị của ông ta. Không ai ngờ đến câu trả lời ấy, bởi vì trước đây Mac Nabbs luôn luôn bài bác ý kiến của Ayrton. Đến bản thân viên hoa tiêu cũng ngạc nhiên – anh ta thoáng nhìn thiếu tá, Paganel, Helena và các thuỷ thủ đều ủng hộ phương án của Ayrton. Những lời của Mac Nabbs đã xua tan những nghi ngờ của họ. Glenarvan tuyên bố rằng kế hoạch của Ayrton đại để được chấp nhận. - CÒn bây giờ, John, - Glenarvan nói với thuyền trưởng trẻ, - anh cũng cho rằng ở lại bờ sông đây để đợi phương tiện đi là hợp lý chứ? - Vâng, - John Mangles đáp, - nhưng chỉ với điều kiện là người liên lạc của chúng ta sang được bờ bên kia sông Snowy mà chúng ta không thể qua được. Mọi người nhìn viên hoa tiêu, anh ta cười với vẻ tự tin: - Người liên lạc sẽ không cần phải qua sông. - Không cần? – John Mangles ngạc nhiên. - Anht a chỉ quay lại đường Luknow rồi đi thẳng Melbourne. - Đi bộ những hai trăm năm mươi dặm! – John thốt lên. - Không, đi ngựa, - Ayrton phản ứng lại, - vì chúng ta còn một con ngựa khoẻ có thể cưỡi đi bốn ngày là tới nơi. Cộng thêm hai ngày “Ducan” đi Twofold – Bay, một ngày ghé vào chỗ chúng ta. Như vậy là sau một tuần người liên lạc cùng với độ thuỷ thủ sẽ có mặt ở đây. Thiếu ta gật đầu tán thành ý kiến của Ayrton, khiến John Mangles rất ngạc nhiên. Như vậy là đề nghị của viên hoa tiêu đã được nhất trí thông qua, chỉ còn thực hiện kế hoạch đã được cân nhắc rất cẩn thận ấy nữa thôi. - Còn bây giờ, các bạn của tôi, - Glenarvan nói, - chúng ta sẽ chọn người liên lạc. Người đó sẽ đảm nhận nhiệm vụ vừa khó khăn, vừa mạo hiểm, tôi không muốn giấu giếm điều đó. Ai sẽ là người thể hiện lòng trung thành với đồng đội đi chuyển giao thư cho Tom Austin? Ngay tức khắc Wilson, Mulradi, John Mangles, Paganel và cả Robert nữa đều tình nguyện. John Mangles một mực đòi đi. Nhưng, Ayrton im lặng nãy giờ mới lên tiếng: - Nếu được ngài huân tước cho phép, tôi xin đi. Tôi rành vùng này. Đã nhiều lần tôi phải phiêu bạt ở những nơi còn hoang vắng và nguy hiểm hơn nữa kia. Tôi có thể thoát nạn ở nơi mà người khác phải bỏ mạng. Bởi thế, vì lợi ích chung, tôi xin ngài hãy cử chính tôi đi Melbuorne. Ngài giao cho tôi bức thư gửi cho phó thuyền trưởng tàu “Ducan” và tôi bảo đảm rằng sáu ngày sau sẽ có mặt tại vịnh Twofold – Bay! - Ông nói hay lắm, Ayrton! – Glenarvan trả lời. – Ông là người thông minh và dũng cảm, ông sẽ được toại nguyện. Thật vậy, rõ ràng là Ayrton có thể hoàn thành nhiệm vụ khó khăn này hơn ai hết. Ai cũng hiểu như thế, nên không ai tranh luận với ông ta. - Thôi được, để ông đi, Ayrton, - Glenarvan xác định. – Ông hãy khẩn trương đi và trở lại trại của chúng tôi trên bờ sông Snowy này. Mắt viên hoa tiêu ánh lên vẻ đắc thắng. Anh ta quay thoắt đi, nhưng John đã kịp bắt được ánh mắt ấy. Viên thuyền trưởng trẻ tự nhiên cảm thấy càng nghi ngờ Ayrton hơn. Ayrton lo chuẩn bị đi. Hai thuỷ thủ giúp anh ta: một người thắng ngựa, người kia chuẩn bị lương thực. Còn Glenarvan ngồi viết thư cho Tom Austin. Trong thư ông ra lệnh cho phó thuyền trưởng “Ducan” đưa tàu đến ngay Twofold – Bay. Ông nói rằng Ayrton như là một người có thể hoàn toàn tin cậy được. Sau khi tàu đến vùng duy hải phía đông thì Tom Austin được phép giao đội thuỷ thủ của tàu cho Ayrton chỉ huy. Đúng lúc Glenarvy ký vào lệnh ấy thì Mac Nabbs, nãy giờ vẫn theo dõi ông, đã hỏi ông bằng một giọng hơi đặc biệt, xem ông và biết tên Ayrton như thế nào? - Viết theo đúng tên gọi – Glenaravan đáp. - Chú nhầm rồi, - thiếu tá nói, giọng bình tĩnh – cái tên ấy kêu là Ayrton, nhưng lại được viết là Ben Joyce kia!