B ên kia mặt hồ là cánh đồng. Trên cánh đồng còn in lại dấu chân người đàn bà vừa rời khỏi ngôi nhà lão câm. Người ta cho rằng, mặt hồ là miệng ngọn núi lửa thời tiền sử, nó đã phun một lần, thực ra chỉ là cái ngáp vặt khiến một nhúm đất đá bay lên đủ tạo một khoảng lõm nhất định nào đó rồi thôi, và bây giờ thì ngậm miệng, chẳng cớ gì phun mãi. Mùa mưa, nước tràn xuống lấp kín mặt hồ, bèo mọc dày. Trên khoảng lõm ấy, thanh niên nam nữ lâu lâu cũng có mò ra đó than thân trách phận, trò chuyện, bấu véo nhau... Cũng có một vài nhân vật chửa hoang tại hồ, những khối u uất không bao giờ sinh nở vì người ta cho là ô nhục lắm. Rồi từ đó, hồ như dấu ấn ô nhục hay thanh cao của hàng loạt thế hệ đi qua... Thời ấu thơ, ai cũng từng bơi một lần trong hồ; kín kín hở hở hồ đều thấy cả, đôi khi nó sủi bọt như bật cười. Rồi tuần tự theo lứa tuổi người ta rời hồ, xem như đã lớn, mà hồ là bằng chứng tuổi thơ, không tắm ở đó nữa. Có một nhân vật sau này trở thành huyền thoại của hồ là nàng Thơm. Cô đẹp lắm. Mặt trắng như chén ngọc và một nốt ruồi lệ ngay dưới mí mắt. Nhưng đó không phải là tất cả. Cái người ta nhớ đến cô là vẻ bẽn lẽn, ngơ ngác và một chút bạc phần. Nhiều thế hệ sau sinh tại hồ như phảng phất một nỗi buồn vu vơ không cắt nghĩa, như sự hoài nhớ được truyền lại trong máu thịt hình ảnh không còn của cô. Lúc đầu không ai nghĩ như vậy vì sự đè nặng đó vô căn cứ quá. Nhưng rồi nỗi ám ảnh thật sự trở đi trở lại trong mắt bọn trẻ và đến một lúc nào đó người ta phải công nhận, cô là con quỉ đa tình. Cô thâm nhập vào tâm hồn bọn trẻ sâu đến độ chúng luôn có cảm giác đã nhìn thấy cô mặc dù chúng chưa nhìn thấy cô lần nào. Cảm giác đó lan rộng trong làng nảy sinh ra nhiều bi kịch, hàng loạt sự kiện ra đi không quay về, hàng loạt đứa trẻ bảnh mắt ra đã buồn héo hắt. Chúng ngơ ngác chẳng hiểu vì sao lại là như vậy. Câu chuyện về cô cứ thế được truyền qua miệng những người đàn ông nhậu say. Nâng chén rượu người ta thấy hình bóng cô phảng phất trong đó, tóc mướt mượt, răng trắng và vẻ duyên thầm. Từ cô, rượu đã được ban một phép màu, càng uống say người ta càng nhìn thấy cô và rượu càng ngọt. Và cũng từ đó người ta nghiệm ra, giữa rượu và sắc đẹp luôn có mối liên hệ đặc biệt với nhau. Khi uống rượu nhu cầu thưởng thức cái đẹp tăng lên, nó gần như trở thành thú tính về sự thưởng thức, và họ thèm khát lắm. Để tìm đến cái đẹp chỉ có một con đường duy nhất là uống rượu. Nó là mối thông đồng vừa có tính hủy hoại lại vừa mang sắc màu giải thoát. ở vùng hồ, cái đẹp bị giới hạn như sự hiểu biết của người, tức là sự quẩn quanh, bao nhiêu năm tháng chôn vùi bao nhiêu thế hệ quẩn quanh nên cái đẹp của họ mang tính tự thân hơn là sự so sánh. Họ như kẻ tự bịt mắt mình, cái nhìn thấy chỉ là lòng bàn tay, bàn tay năm ngón ngón cụt ngón què, và trong tập hợp ngón họ yêu đại một ngón nào đó ví dụ như ngón út chẳng hạn. Và vì yêu thích, họ đắp cho nó thêm thịt thêm xương cho đến lúc nó to bằng ngón cái. Và từ đó, họ có hai ngón cái trong một bàn tay như kẻ dị dạng. Và để xoa dịu cảm giác quái gở trên, họ uống rượu để nuôi ảo tưởng về cái đẹp. Nàng Thơm là một sản phẩm được tạo thành từ cuộc hôn phối đó. Nàng chẳng đẹp gì, nhiều người già sau này nhìn nhận lại công nhận như vậy, nhưng tại sao họ cứ bị mê hoặc và đánh mất quyền phán xét thì chính bản thân họ lúc đó không tài nào hiểu nổi. Họ cứ bắt buộc mình phải tự nuôi ảo tưởng thêm. Rượu là kẻ cho họ niềm tin khi nó xác định nàng đẹp lắm, như thế mới có lý chứ, mới cả một thế hệ cuồng nhiệt si mê chứ! Họ không chệch choạc trong cái nhìn. Câu chuyện tự đánh lừa cứ thế tăng lên cho đến một hôm có một kẻ nào đó thốt lên, nàng Thơm thật xấu, xấu lắm; lúc đó người ta mới hưởng ứng theo, ừ, cũng tàm tạm thôi, chẳng gì ghê gớm; và mọi người cười vui vẻ mà xí xóa cho nhau. Huyền thoại về nàng Thơm kết thúc như vậy. Nhưng đi đến đoạt kết đó phải chục năm sau, lúc vẻ đẹp tự thân mọc đầy ở vùng lòng hồ, có hàng vạn cái đẹp khác nhan nhãn trước mắt khiến không cần thiết phải ao ước nữa về một nàng Thơm. Và nếu như có kẻ nào đó kể về nàng thì mọi người bật cười hô hố và tự hỏi, tại sao có một thế hệ mơ màng, ấu trĩ đến thế. Nó có vẻ khờ dại và tội nghiệp nữa. Người ta bật cười rồi quên. Cái đêm bi kịch trong đời nàng Thơm trở thành ký ức phai mờ trong họ. Có chăng chỉ là mùi Hoàng Lan thoang thoảng hai bên bờ hồ. Một bờ hồ đầy trăng. Sau này tổng kết lại, người ta cảm thấy mọi bi kịch xảy ra ở vùng hồ đều có ánh trăng xen vào và một tiếng thét lớn. Khi cả làng đổ ra hồ, cái người ta nhớ nhất là làn sương mỏng mờ đục bao phủ một khoảng không gian trắng, trắng lắm; những tiếng người cười nói lùi xa như vọng từ bên kia màn sương. Và nàng Thơm nằm đó; da thịt bày biện ra đất như muốn chảy tràn, như sóng vun; Rồi toàn bộ cái khối lượng to lớn đó được che chắn bằng những sợi tóc dài. Tóc nàng dài lắm, dài khủng khiếp, dài đến độ dị thường. Nó cũng chính là thứ ma thuật mà sau này trở đi trở lại trong ký ức những người ở đầm về một cơ thể được trộn đều trong tóc. Và từ những sợi tóc đó phả ra mùi Hoàng Lan. Thật khủng khiếp! Cái người ta mường tượng khi đi cứu người bị hãm hiếp không phải là cảnh sóng soài vì bị cấu xé, không phải máu trộn lẫn nước mắt, cũng không phải đất cát tứ tung của chiến trường mà lại là một mùi Hoàng Lan vô cùng dễ chịu. Dễ chịu đến nỗi khiến họ ngây ngất chập chờn lay động như vừa chạm đến một cái chốn êm; và những con rắn trong người họ bò ra, phun nọc vào vết thương kẻ khác. Nó còn xấu xa hơn cái điều đê tiện kia, và trong họ, cảm giác vừa đồng lõa với tội ác dâng lên khiến họ rùng mình. Như một kẻ ăn thịt người, họ vừa chống trả lại vừa nhấm nháp cái mùi từ thân thể người đàn bà kia toát ra. Họ kinh tởm mình, hoảng sợ mình. Từ đó, Hoàng Lan là nỗi ám ảnh lớn của họ. Có người bảo, nhiều năm về sau, đêm trăng nào họ cũng xông ra hồ vì mùi Hoàng Lan xộc vào nhà thơm lắm, thơm không chịu nổi. Người ta chạy ra hồ như kẻ mộng du. Rồi nhảy ùm xuống hồ, đánh đấm túi bụi. Nước dưới hồ thơm lắm, thơm gắt, thơm muốn nôn mửa. - Con Thơm, con Thơm, mày có giỏi thì hiện ra đi... Mọi người gào thét. Một ngọn gió thoảng qua, mùi thơm biến mất. Trên bờ soi bóng lão câm đang gục xuống mặt hồ. Để cứu vãn phần trinh trắng cho nàng Thơm người ta sắp đặt một cuộc hôn phối. Đó cũng là cách giải quyết thông dụng cho những oan trái tình duyên. Đó cũng là hợp lẽ cho lối suy nghĩ cho nó xong cho rồi, cho nó êm cho rồi, bắt đền chẳng được gì, và những người đàn bà bị hãm hiếp giấc mơ đa phần của họ cũng là một cuộc hôn nhân, và chấm hết. Và không có gì tốt đẹp an toàn hơn là lấy ngay cái kẻ đã cưỡng hiếp mình, bởi vì dù sao hắn không có cảm giác ghê như cắn quả táo đang ăn dở của kẻ khác. Hắn chỉ cắn quả táo hắn đang ăn. Thương là nàng Thơm, chỉ vì vô ý bị hắn ngoạm một miếng để rồi rơi vào thế phải đưa hắn ngoạm cả miếng. Kể từ hôm đó, nàng trở thành cái xác lá lắt lay và nỗi buồn bấu víu lấy nàng. Rồi nàng không cất mình qua khỏi cơn phiền muộn, những cơn bệnh triền miên kéo dài khiến nàng không nhấc mình lên được nữa, nàng nằm liệt giường. Hôm đó là một buổi sáng ngày mưa. Lão câm gọi nàng trong vô thức, "dậy đi em", và nàng đã đáp lại bằng cái nhìn trống rỗng. Nó báo hiệu từ đó giữa họ sẽ là những cuộc trao đổi bằng mắt xảy ra hai chiều. Một điểm chung. Điểm chung thứ hai là căn nhà cũng sẽ im lặng như họ. Những tiếng thì thào của gió trên mái lá sẽ bị đánh rơi bên ngoài, khi vào đến nhà chúng sẽ bị vấp phải một vùng im lặng tuyệt đối và hóa thành lặng thinh. Chiều chiều, người ta thấy lão câm ẵm nàng Thơm ra hồ. Đáy nước trong soi họ như một đôi uyên ương không rời nhau. Rồi rất khẽ, lão xoa nước lên người nàng cho đến lúc nàng tan ra dưới những con sóng nhỏ. Kết thúc một buổi chiều đẹp đẽ, lão ẵm nàng vào nhà. Không ai hình dung nổi nên gọi đó là hạnh phúc hay bất hạnh, vì với lão khuôn mặt không nói lên điều gì. Người ta bảo khuôn mặt là tấm gương soi rọi những gì bên trong của con người, những u uẩn đều phô bày trên tấm gương đó, đôi khi thật sai lầm. Có những khuôn mặt như tấm gương và hoàn toàn là tấm gương, và khi mọi người nhìn nó thì cũng có nghĩa là họ soi rọi chính họ, niềm vui nỗi buồn sự lãnh đạm của chính họ. Nên thật dễ dàng giải thích tại sao cuộc tình của lão câm và nàng Thơm được mỗi người nhìn dưới sắc thái khác nhau. Đẹp cũng từ họ mà bẩn thỉu cũng từ họ. Bản thân họ đã trở thành một huyền thoại kỳ lạ nhất. Xin nhắc lại: một huyền thoại. Thời gian trôi đi trên mặt hồ. Lão câm đã già. Tuổi già là một gánh nặng mà khi còn trẻ người ta không bao giờ nhìn thấy. Người ta cõng nó đi nhẹ lắm thiếu điều biếm nhẽ nữa kia cho đến một hôm nó xuất hiện trước mặt thì cũng là lúc đồng nghĩa với sự cô đơn. Một ông già không thể bồng một thiếu nữ như chàng trai, lão câm đuối dần. Một hôm, lão đánh rơi nàng Thơm trên ngưỡng cửa, đã kết thúc ảo tưởng về sức mạnh trong con người lão. Kèm theo đó là sự lung lay tinh thần trong cõi sâu xa. Cuộc tình đối với lão đã trở nên quá sức thì vừa may một đứa cháu trai xuất hiện. Những người trong làng quyết định cất nhắc nó vào việc ẵm nàng Thơm giúp lão từ nhà ra hồ. Còn việc làm "nàng tan ra dưới con sóng nhỏ" là việc của lão. Xong việc, lão sẽ rung một cái chuông và đứa cháu trai lại xuất hiện ẵm nàng vào nhà. Từ đó, tiếng chuông có giá trị như sự mời gọi khiến những người đàn ông quanh vùng khi nghe nó luôn rơi vào ảo tưởng của sự phơi bày. Hẳn dưới đầm, lão câm đang từ từ cởi chiếc cúc áo của nàng Thơm. Lão sẽ tát những vốc nước lớn lên người nàng như người ta vẫn thường làm khi lau chùi một pho tượng. Có lẽ nàng trắng lắm dưới xà phòng mà lão câm đang chà xát lên người nàng với một vẻ thận trọng, yêu thương nhất. Lão sẽ mở nàng ra như một trang sách, và vẻ đẹp của nàng là hàng hàng châu ngọc lấp lóa. Tiếng chuông thứ hai sẽ đóng lại ảo tưởng lão đang khép nàng lại, bọc nàng trong tấm lụa lớn và mọi việc thật sự chấm dứt khi thằng bé đưa nàng vào nhà. Cứ thế, ngày ngày giờ giờ người ta được nuôi trong vẻ đẹp của nàng Thơm, cũng như sự mong manh của nó giữa hai lần chuông đổ. Nó sẽ hiện hữu ở lần đổ chuông đầu và biến mất ở lần rung chuông thứ hai. ảo tưởng cái đẹp sương khói mong manh bao trùm và người ta hiểu nó như sự thoáng hiện và biến mất, rất gần với sự cô đơn. Ngày tháng lại trôi đi những tưởng trong sự êm đẹp vốn có của nó, như mặt hồ hóa ra không phải. Bên dưới mặt hồ kia là con sóng lớn âm ỉ, và đến một hôm vỡ bùng ra không cưỡng lại được. Dầu chỉ là sự vô thức thôi, nhưng chính cái mông lung đó lại mà mầm mống của con sóng thần có sức công phá khủng khiếp. Chúng đạp đổ những vách ngăn và trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong đầu thằng cháu trai lão câm. Đã bảo mơ hồ kia mà... Nhưng cái mơ hồ cứ đến chậm rãi, lớp lang và rõ dần. Thằng bé bắt đầu lắng nghe, dầu không tin lắm vẫn cứ cảm thấy như có một mầm sống vô hình đang trỗi dậy trong người đàn bà mà hàng ngày nó vẫn ẵm từ trong nhà ra ngoài hồ. Dù thân thể nàng vẫn lặng câm, vẫn buông xuôi... Phải chăng đó là sự im lặng của cơn bão, trong nó là sự tàn phá ghê gớm sắp thực hiện và mỗi ngày là sự len lõi rộng khắp. Cái gì nằm trong thân thể của người đàn bà bạc nhược kia? Có thật là một thân xác câm lặng? Hay kẻ đang thức tỉnh chính là đứa cháu trai? Giữa thằng bé và người đàn bà, ai là người thức tỉnh, hay cả hai? Những đêm hoang mang không tìm được giấc ngủ, thằng bé lang thang ra bờ hồ. Đêm trăng, cát trắng như xát vào mắt nó khoảng trống mênh mông, như thiên nhiên đang chạm trổ tuyệt tác vô hình rồi bày ra trước mắt, choáng ngợp. Nó miên man nhìn và, càng nhìn càng thấy rõ dần hình ảnh nàng Thơm. Từ đó nó không rời mắt khỏi nàng được nữa. Trong cái xác đó là cuộc sống cuồng nhiệt hơn vạn lần cuộc sống khác đang diễn ra bên ngoài, một sự chôn kín. Nó cảm nhận như vậy. Một đêm trăng khác, nó mò vào nhà lão câm. Qua phên đất, vùng im lặng đổ ập vào mắt nó và nó hiểu sự im lặng ấy sẽ không tồn tại bao lâu nữa. Dưới ánh đèn, lão câm đang ngồi bên cạnh nàng Thơm, và cả hai như xác ướp, im lặng. Một hồi sau, lão câm cầm chiếc đèn lên soi khắp người nàng như tìm kiếm cái gì, lại như đang chiêm ngưỡng đóa hoa. Rồi lão để chiếc đèn ra xa nàng, tiếp tục chiêm ngưỡng nàng như một đóa hoa. Đó là hai giai đoạn của một đóa hoa lúc gần và xa ánh sáng. Và tất cả nằm trong không gian im lặng, trong ngôn ngữ im lặng, của hai con người im lặng là cuộc trao đổi âm thầm, liên tục và bất tận. - Tôi hiểu! Tôi hiểu những gì đang diễn ra - Lão nói - Tôi biết! Tôi biết những gì tôi đang làm! nàng trả lời. Đó là tất cả những gì người ta có thể hình dung được từ một cuộc trao đổi câm. Thằng bé bỏ về. Dưới ánh trăng nằm trong khoảng trống xung quanh, cảnh vật như co lại trong một mảng tối chung nhất khiến nó thấy mình nhỏ bé trước thiên nhiên làm sao! Và hình như thiên nhiên cứ rộng thêm, ánh sáng cứ mênh mông thêm, và gió kéo lê mình trên những khoảng trống rồi bạ đâu cũng ghé vào, cũng nằm lăn ra than u e... Mùi Hoàng Lan dưới hồ chợt bay lên thơm nức. Thằng bé đi nhẹ ra hồ, nhẹ lắm như sợ vỡ một cái gì đó dưới chân. Rồi cũng vì sợ vỡ một cái gì đó nó không dám chạm tay vào mặt nước. Co người trên chỏm đất sạch, nó nhìn bóng mình. Rồi nó nhặt chiếc que nhỏ vẽ theo đường viền chiếc bóng, sau đó thu nhỏ mình lại cho lọt vào trong. Nó bật cười khanh khách khi thấy mình nhỏ hơn chiếc bóng ban nãy. Rồi nó khuỳnh người ra với ý nghĩ, con người cũng có thể lớn hơn chiếc bóng của mình. Nhưng khi so sánh giữa nó và mặt hồ, mặt hồ với bầu trời thì vẫn còn nhỏ bé làm sao. Bất ngờ một chiếc bóng lạ in lên bóng nó làm nó giật thót cả người quay ngoắt lại. Dưới ánh trăng, một con chó mắt sáng quắt như có điện nhìn nó chằm chằm. - Mày làm cái gì thế? Nó hỏi. Con vật lùi lại, bỏ đi. - Mày phải nhớ, cái bóng của mày nhỏ xíu! Nó quát to. Nhưng khi âm thanh chưa kịp dứt thì bỗng dưng có một cái gì đó mơ hồ lắm, như luồng điện xuyên qua người làm nó bàng hoàng. Rõ ràng nó vừa nhìn thấy một cái bóng khác bên cửa sổ nhà lão câm, rất mờ rồi biến mất. Bóng nàng Thơm. Các ngón tay nó bắt đầu lạnh. Những ngày qua tự dưng sống dậy, và nó chợt hiểu ra, cảm giác không bao giờ đánh lừa con người. Chúng là những ngón tay trong một lòng bàn tay, những gì mơ hồ của cuộc sống xung quanh từ từ sẽ được nắm chặt lại và sự cụ thể hóa những điều mơ hồ sẽ được hình thành. Những lần ẵm người đàn bà ra hồ, ý nghĩ về một thân thể đang chết trên tay nó mất dần, thế vào đó là hình ảnh của một mầm sống - nó tin thế - đang trỗi dậy thành cây và ra lá hoa. Còn nhớ, có lần nọ, khi ẵm nàng Thơm thì bất ngờ có bàn tay chạm nhẹ lên vai nó, và khi nó quay lại thì hoàn toàn không có ai. Chỉ là cảm giác nhưng không hiểu sao, cảm giác đó rất thật. Và bây giờ, bóng nàng Thơm thoáng qua cửa sổ càng xác tín trong nó hơn bao giờ hết nỗi hoài nghi bấy lâu. - Đừng giấu tôi, cô Thơm! Tôi biết trong cô vẫn còn sự sống! Chiều hôm sau khi ẵm nàng từ ngoài hồ vào, nó đã nói như vậy. Nói để biết rằng từ đó sự hoài nghi không còn. Nói để biết rằng mình vừa tự giải thoát khỏi những mơ hồ. Nhưng lạ thay, điều kỳ diệu đã xảy ra trong mắt nàng; nói đúng hơn, đó là nỗi hoảng sợ trong mắt vừa lóe sáng một khoảng không trống rỗng như người ta thả một viên sỏi vào chỗ vô cùng để rồi không bao giờ nhìn thấy nữa. Từ nguồn sáng chỉ soi vào chỗ không đó bỗng trào ra một giọt nước mắt nóng hổi, đau buốt. Và nó đã kinh hoàng nhận ra cái điều đớn đau kia mà không hề biết rằng người đàn bà đã trao cho nó nỗi hoảng sợ và sự tủi nhục cuối cùng trong cuộc đời nàng. Sáng hôm sau, người ta phát hiện nàng Thơm chết trong hồ. Đó là buổi sáng trong trẻo lạ thường, chim hót véo von trên cành, ánh nắng dịu dàng in từng vệt sáng lên lùm cây xanh, và trên những dấu chân của nàng Thơm còn để lại trên cát trắng. Nàng đã đi ra hồ lúc nửa đêm và đi rất nhiều vòng xung quanh trước khi lao mình xuống đó. Những bước chân không đều nhau chứng tỏ những xáo trộn lớn đến với nàng trước khi có ý định tự kết liễu đời mình. Những xáo trộn đó là gì? Nàng đã nghĩ gì? Tất cả chỉ là phỏng đoán. Người ta cho rằng nàng là một người đàn bà thâm độc. Để trả thù kẻ cưỡng hiếp mình không gì sâu cay hơn, độc ác hơn là tự biến mình thành một món nợ cho kẻ tội lỗi kia phải gánh trả suốt phần đời còn lại. Khi thằng bé phát hiện sự sống đầy ắp bên trong nàng, âm mưu bị bại lộ thì cũng là lúc nàng cảm thấy tội lỗi mà tự kết liễu đời mình. Nàng chỉ có một con đường chọn lựa cũng như trước đó nàng cũng chỉ có một con đường lựa chọn. Và người ta suy rộng ra, khái quát kiếp người rằng đôi khi người ta sinh ra chỉ có một lựa chọn duy nhất mà thôi, và bản chất sự sống là đi nốt con đường lựa chọn đó. Trước mắt thượng đế, chúng ta chỉ là lũ trẻ con do ngài nặn nên, một lũ ngớ ngẩn trong mê cung của ngài. Và cái chết của nàng Thơm chỉ là xảy chân trong mê cung, vậy thôi. Nhưng lại có ý kiến khác, người ta cho rằng nàng là một kẻ đáng thương. Để cầu mong tình yêu của kẻ khác không gì tốt hơn là tự tạo cho mình một tư thế đón nhận nhiều nhất. Và bi kịch đã đến với nàng từ cái suy nghĩ chết người đó. Nhưng dù theo lập luận nào thì cũng phải công nhận nàng khá thành công trong việc chinh phục kẻ khác. Nàng đã đem đến cho họ một cảm giác tiếc nuối vô hạn. Hơn thảy là lão câm. Sự tiếc nuối đã làm cho lão trở nên khô quắt. Bịn rịn bên hồ, lão nhìn chòng chọc dấu chân nàng để lại. Nhưng nỗi buồn của lão đến đâu thì không ai hình dung được. Và đôi lúc người ta còn nghĩ ngược lại biết đâu, lão vừa giũ sạch món nợ trần thì sao, và trong tâm hồn lão là cảm giác yên ổn thì sao. Chiều hôm đó người ta vội vã đem người đàn bà đi chôn. Đó cũng là cách đóng lại một hình ảnh trong mắt mọi người vì nàng đẹp quá. Giữa cái chết và cái đẹp gần như là một sự đồng lõa hòa trộn trong nàng. Dù cái chết đã xâm nhập toàn bộ con người nàng, đôi môi nàng vẫn cứ đầy ắp sự đam mê như tách rời ra khỏi thực thể và sống một đời sống độc lập khiến họ sợ hãi. Họ phải đậy lại cho nhanh. Không khéo đôi tay với những ngón dài lại vươn ra, rồi nàng, toàn bộ cái đẹp của nàng sống dậy sống một đời sống vĩnh cửu trong trí não của họ. Một khi cái đẹp đã ăn sâu vào não thì đời sống bình thường tẻ nhạt xung quanh sẽ kết thúc. Đó là cái họ sợ. Rồi cũng vì sợ, họ vội vã chôn nàng rồi chạy vù về nhà. Cuối cùng, trên mộ chỉ còn lão câm và thằng bé. - Con biết ông đã giấu cô Thơm! - Nó nhìn chòng chọc vào mặt lão - Ông đã giả vờ trước mặt cô ấy như không biết gì! Đúng không? Làm sao mà ông không biết, chẳng qua là ông thông đồng với cô ta cho nên mới có một cái chết như vậy đấy! Nếu ông đừng giả vờ, cô ấy đừng giả vờ thì không có chuyện như vậy! Ông đã dối mọi người! Ông là người biết rõ cô Thơm vẫn đi lại được! Lão già câm mắt long sòng sọc đứng nhìn thằng bé. Và đó cũng là cái nhìn riêng biệt của lão, không ai đoán được nó nói điều gì. Bất ngờ lão rú lên như một con chó điên. Và từ con mắt của con chó đó trào ra ràn rụa những giọt nước mắt của con người. Đó là những giọt nước mắt u uẩn nhất, như mặt hồ, không bao giờ phẳng lặng.