Ông xuất hiện trên thi đàn cùng với ba người bạn khác trong nhóm “Tứ hữu Bàn Thành” Nhóm ấy còn có tên gọi là “Tứ Linh”. Và cùng với Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Phạm Hổ, trên đất võ Bình Định, ông đã góp không ít công cho nền văn học của Dân tộc Việt Nam và quê hương mình. Nhưng, trong thực tế, nhắc đến tên Yến Lan, lớp trẻ hầu như chẳng mấy người biết là ai, trai hay gái. Người yêu thơ tin rằng tại thành cổ Đồ Bàn - Bình Định thực sự có bến sông tên là “Bến My Lăng”, dưới ánh trăng bàn bạc đầy lá vàng lạnh của nó đã khiến ông lão lái đò buồn đến nỗi để cả gió lén vào râu ông để mơn. Những tên bài “Bến My Lăng” “Bình Định năm1935” “Lại về tỉnh nhỏ” “Nhớ làng” là những bài thơ làm giàu thêm ngôn ngữ cho nền văn học Việt Nam của ông được in trong Sách Giáo Khoa, nay biên sọan lại đã bỏ ra! Còn lớp trẻ, phần lớn chỉ thích ngồi chát hàng giờ trên vi tính hoăc xem ti vi với những quãng cáo “Làm thế nào để sành điệu” hơn đọc sách, báo thì làm sao mà biết Yên Lan là ai! thậm chí có chị tỏ vẻ hiểu biết nói với tôi “Má em làm thơ hay nhỉ?”.Trong lời tựa tập “Thơ Yến Lan” do NXB Văn Học in cách đây hơn 20 năm, nhà thơ Chế Lan Viên viết “Có nhiều lý do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng, nếu không ai nhắc đến, chỉ ra, gọi tên tán dương thì nó bị vùi lấp đi. Đầu là trong im lặng mà sau là sự lãng quên”.Từ góc nhìn hạn hẹp của người con, xin thông qua những mẫu chuyện đời thường để bạn yêu thơ hiểu hơn về ông-nhà thơ Yến Lan - người mà theo sự đánh giá của các nhà nghiên cứu - là nhà thơ tài hoa đầy tâm huyết nhưng lận đận cả đời và cả thơ. Yến Lan chính xác là ba tôi. Theo sổ sách ghi thế nào tì để thế ấy, tên ba tôi là Lâm Thanh Lang, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1916 trong một gia đình nghèo. Cả tuổi thơ ông phải sống trong chùa Ông của thị trấn An Nhơn-Bình Định. Thực ra lúc đầu tên ông là Lâm Xuân Lan. Khi đi học vì trục trặc giấy tờ, nhà trường ghi là Lâm Thanh Lang, ông nội tôi không chữa cứ để vậy. Những ngày tiên, chập chững bước vào làng thơ, bằng những vần lục bát tuyên tryền cho dân hiểu về Cách mạng, ông lấy bút danh Thọ Lâm. Trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy ông có bút danh Xuân Khai. Còn bút danh Yến Lan là sự ghép tên của hai giai nhân.:Thầy giáo Lang và 12 học trò cùng quây quần bên nhau trong một gian nhà mái ngói âm, dương, đối diện với cây me cổ thụ. Trong lớp có 2 cô gái trông rất nền nã,kháu khỉnh. Một cô tên Yến, một cô tên Lan, hai cô thân nhau như chị em ruột. Thây Lang biết làm thơ và có tài kể chuyện, lại rất dí dỏm nên ai cũng thích. Thây thường đọc thơ của người và của mình cho lớp nghe. Thây giáo ăn nói có duyên, người mãnh mai, trí thức và đẹp trai nên cả hai cô đều thầm thương, trộm nhớ. Ngày nghĩ họ vẫn rũ nhau vào chùa, lấy cớ học thêm nhưng thực ra là để được gặp thầy. Một hôm, thây Lang nghe lõm được câu chuyện của hai người: “Tao với mày chơi thân như thế này, sau này có lấy chồng chỉ lấy một người thật đẹp trai làm chồng chung để tụi mình khỏi phải xa nhau”. Thầy Lang cười ý nhị… Ít lâu sau đó, cô Yến theo gia đình chuyển vào Nha Trang. Còn mình cô Lan ngày mong đêm nhớ thầy Lang… Trong thị trấn bé nhỏ ấy, gia đình cô Lan thuộc lọai khá giả. Nhiều nhà giàu ở huyện muốn hỏi cưới cô cho con trai, nhưng cô Lan không chịu. Cô chỉ đem lòng yêu chàng thi sĩ nghèo họ Lâm đó thôi. Cha cô không tán đồng việc cô yêu chàng vì “không môn đăng hộ đối”. Không lấy được chàng thi sĩ, cô Lan nhất quyết đi tu. Cô vào tu tại chùa Sư Nữ ở Phan Thiết. Cả nhà lo quá mà không biết tìm đâu. May sao có bà chị con ông cậu đi lễ Phật, bắt gặp về tin cho gia đình biết. Chàng thi sĩ họ Lâm nghe tin, khăn gói đi tìm, vì thế mới có bài Phan Thiết:Ôi Phan Thiết, Sông Cầu, Lăng Cô, Đà NẵngĐến một lần chỉ để nhớ mãi không khuâyĐêm lạnh, tóc mai dầm hướng gióNặng tình xanh, trăn trở giữa chăn đơnTôi thức uống bầu sao từng hớp nhỏGạn vô lòng chất biếc mỗi tình thươngSau 4 năm, cha cô Lan thấy hai người vẫn quyết tình nên đành chấp nhận cho họ lấy nhau. Trong giai đoạn gian nan nhất, cô Yến thường viết thư động viên, vun đắp chân tình cho hai người và không hề nhắc lại lời hứa năm xưa. Lần đi tản cư, cả gia đình cô Yến bị lật thuyền, chết. Nhớ lại câu chuyện tâm tình xưa của hai người, và để kỷ niệm tình bạn của họ, ba tôi đổi bút danh là Yến Lan. Khi cái tên Yến Lan đã trở nên quen thuộc và gần gủi với khách thơ thời bấy giờ, Tòa Soạn Báo Phụ Nữ do ông Minh Vĩ làm chủ bút rất sôi động, phải liên tục giải thích những lá thư hâm mộ kèm theo sự tò mò: “Yến Lan là ai?, nam hay nữ?, đẹp hay xấu?...” Tôi Là con cả của nhà thơ, tôi học ở trường Học Sinh Miền Nam tại Hải Phòng, tuy ít được gần gia đình nhưng không hiểu sao thường được ông tin cậy, tâm sự những bức xúc của đời, của thơ. Nhiều lúc tôi đọc, tìm hiểu qua sách báo mới cảm nhậ về người cha của mình “Ông cụ quả thật là người có tài mà sao đời lại bạc với cụ thế? phải chăng vì mang bút danh là Yến Lan.? Suốt những năm tháng còn sống, ông chẳng được gặp may! Có lẽ không có nhà thơ nào bị mất những đứa con tinh thần nhiều như ông; mất trong chiến tranh lọan lạc, mất trong bạn bè (điều này ông chỉ nói cho tôi biết và dặn không được nói với ai vì sự tế nhị) Trong thập niên những năm 60-70 của thế kỷ trước, khi hai chị em chúng tôi - Bích Thủy và Tú Thủy, lớn lên trong sự tồn tại của bút danh Yến Lan, nhiều lần chứng kiến những sự ngạc nhiên, sự tò mò của khách thơ đến là tức cười và cũng thật dễ thương. Người thì bảo: “Yến Lan là nam” còn người kia “ Yến Lan là nữ 100%.” Để chúng minh mình đúng, có anh chàng tuổi ngòai 20 chạy từ dưới lên tận gác 2, nhà 37 Hàng Quạt - Hà Nội. Thấy chúng tôi đang ngồi ở cửa ăn mía; anh nhìn tôi thăm dò, hỏi nhỏ: “Em ơi, phải đây là nhà của nữ sĩ Yến Lan?” Tú Thủy đang nhai mía, cạnh tôi, nghe chữ “nữ sĩ” nó cười rũ ra, suýt bị sặc. Một tay bụm miệng, tay kia chỉ về phía ba tôi- người đang hì hục chửa cái chân ghế bị hỏng “Đấy! đấy là nữ sĩ của anh đấy.” Và tôi nghe rất rõ câu anh thốt lên với ba tôi: “Thôi chết rồi anh Yến Lan ơi! Em đã thua cuộc lớn lắm.” Anh nhìn ba tôi cười lém lĩnh rồi chạy xuống cầu thang-nơi các bạn anh, những người chiến thắng đang chờ kẻ thua trận để xử lý. Hồi ấy, phần lớn những người yêu thơ Yến Lan còn rất trẻ, chỉ hơn chị em tôi 2 -> 3 tuổi nhưng cứ gọi ba tôi bằng anh. Họ nghĩ rằng với cái tên Yến Lan, nhà thơ không có con hoặc con còn bé tí tẹo, vì thế nhiều người ngỡ ngàng khi bất chợt gặp chúng tôi tại nhà, họ tỏ thái độ ngạc nhiên đến độ đôi lúc làm ba tôi tự ái: “Trời ơi! anh Yến Lan mà đã có hai cô gái như thế này ư!”.Và khi đã biết Yến Lan có 2 cô con gái lớn thì người yêu thơ Yến Lan càng tò mò muốn biết mặt mũi chúng ra sao. Chẳng thế mà anh chàng có tên nghe rất thi sĩ -Trường Thi, không ngại đường xa đã ngược lại con đường anh đang đi về (anh đã đi từ Suối Hai về đến Phùng” đạp xe theo bạn trai tôi lên tận Nông Trường Ba Vì-Hà Tây dài 52km - nơi tôi làm việc, chỉ để tận mắt xem con gái nhà thơ Yến Lan là người như thế nào?.Lại nữa, có người còn muốn làm bạn với chúng tôi cũng chỉ vì–Đó là con gái nhà thơ Yến Lan. Hiện, tôi còn giữ lá thư của một thanh niên chưa hề quen biết, đề ngày 28/3/1966 trong đó có đọan: “Xưa nay tôi ít quen biết- bè bạn của tôi là tất cả mọi người. Tôi cũng chưa từng có ý kết bạn với ai như với Bích Thủy, lẽ đó làm tôi ngạc nhiên….Qua một số lời mô tả về bạn…tôi không hình dung được chút nào. Tôi chỉ biết rằng dòng máu của nhà thơ Yến Lan đang chảy trong người bạn - một nhà thơ mà tôi ưa trong các nhà thơ… Và anh nói toẹt ý kiến của mình không chút đắn đo: Tôi muốn chúng ta là bạn.” Nay, mặc dù tôi đã về hưu nhưng khi biết tôi là “ái nữ của Yến Lan” thì khách thơ hầu hết đã có tuổi, bằng sự ngưỡng mộ thật lòng, đọc lên những câu thơ hoặc cả bài thơ chứa bao tình cảm, trí tuệ của ba tôi như:- Vậy cô là con gái của “ông lái đò để gió lén mơn râu đấy ư!” rồi họ đọc thuộc lòng hoặc cả bài hoặc một đoạn thơ của ông cho tôi nghe“Khế chua nấu lá mòng tơiEm ướt được ăn đến trọn đờiTang mẹ mãn rồi bà mối dụcChị đi bát đũa cũng mồ côi”đọc xong họ xúc động, trầm mặc “Yến Lan chọn từ thật đắt, chẳng có ai mồ côi hơn khi mà bát đũa cũng mồ côi, vậy là nhà thơ mồ côi đến ba lần:Mẹ, chị, bát đủa ” Hoặc có người cất giọng ngân nga:Vụng sắm cành đào không kịp tếtRa giêng mới hé một vài bôngXuân người lã tã bay đâu hếtNgoãnh lại xuân ta mới chớm hồng Ai đã biết về Yến Lan chắc không quên mảnh đời cơ khổ mà thanh bạch của nhà thơ. Sống không bon chen, không nản lòng trước nghịch cảnh của đời, nhân nghĩa, lương thiện. Ông lẳng lặng làm việc, lẳng lặng tìm mọi cách vượt khó khăn, không than thở, như bông hoa dại vẫn nở khi đất đã khô cằn”Ứa nhựa hàn vết đauTĩnh yên cành gió quậtQuả đu đủ góc aoLặng dâng đời quả ngọt Lúc còn trẻ, ông quen tự lập. Khi trưởng thành, cuộc đời ông đã khắc khỏai, trăn trở với bao thăng trầm của xã hội trong chiến tranh, chia cắt. Bản thân ông phải vận động sao cho phù hợp với lẽ sống mới. Hơn ai hết với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ đã quen tự lập, ông mạnh mẽ đón lấy ngọn gió thời đại. Cảm hứng mới đem lại diện mạo mới cho thơ Yến Lan, làm cho thơ ngày càng hay khiến nhạc sĩ, nhà thơ tài hoa Văn Cao đã không ngần ngại khi nhận xét: “Từ một người bình dị Yến Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta. Tôi thấy ở anh một sự chuyển biến, một sự mở ra có sức lực..” Đối với tôi, là con, tôi càng cảm nhận được ở thơ ông, dù hoàn cảnh nào cũng đều hướng về cuộc sống bình thường, giản dị và thiện chí. Con người với con người là một thực thể xã hội, với muôn vàng quan hệ chồng chéo:Nhà không vườn, không gác, không sânTôi nợ đời rau trái tôi ănNợ hàng xóm trưa hè bóng mátNợ em cài bên cửa một vầng trăng. Trong cuộc sống, ông sống theo qui luật của nước “nước chảy vào chỗ trũng”, trước sau như một thủy chung và sẻ chia Với bạn bè là tình cảm yêu thương, chan hòa nâng đở. Thời trai trẻ, ông đã cùng bác Quách Tấn, chú Nguyễn Đình lo hòa giải giữa gia đình và tình cảm của hai vợ chồng chú Chế Lan Viên và cô Giáo, Chăm sóc an ủi chú Bích Khê, Hàn Mặc Tử trong cơn bạo bệnh, Những ký gạo giúp bác Quang Dũng trong thời kỳ tem phiếu, khó khăn vất vã. Và chắc chắn không ai quên nếu đã từng chứng kiến bên linh cữu cụ Phan Khôi đến nơi an nghĩ cuối cùng chỉ có mình Yến Lan theo sau, trong một ngày đông ở Hà Nội vào cái thời mà giới nghệ sĩ đang thanh trừng nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” với “nghĩa tử là nghĩa tận.” Với gia đình, ba tôi sắt son và thủy chung:Em có cháu gọi bàGọi em anh vẫn gọiNăm mươi tuổi ai giàChúng mình sao trẻ vậy…” Thực ra, ba tôi không cảm nhận được niềm tự hào của chúng tôi về ông đấy thôi. Bởi vì hai đức tính này nghe thì rất bình thường, nhưng đã mấy ai làm được, nhất là vào những thời điểm mà chân giá trị đích thực của con người chưa được đặt đúng vị trí.