Trong nội dung của nhiều bức thư bác Quách Tấn gửi, như người anh cả, khuyên ba tôi và anh em làm văn nghệ nên có cái tâm đối với việc khôi phục lại những danh nhân đất Bình Định mà bấy lâu bị lãng quên.. “Bình Định có rất nhiều nhân vật có danh mà gần một thế kỷ nay bị bỏ quên, lẽ ra chúng ta phải làm sống dậy. Rất tiếc không có người có đủ tài, học, tâm chí để cùng nhau khai thác kho tàn Văn hóa của Bình Định. Tôi nhận thấy phần đông anh em làm văn nghệ vì danh vì lợi hơn là vì bổn phận thiêng liêng, chú và anh em làm văn nghệ sỹ Bình Định đừng phụ lòng cổ nhân.” Đây cũng là điều tâm đắc nhất trong cuộc đời cầm bút của nhà thơ Yến Lan. Tôi thường nghe ông nhắc về một người tên là “Bảy Thiều”. Theo ông thì vào những thập niên 40->50 của thế kỷ XX, người Bình Định thường tranh luận về ngón đàn tranh tài tình đã làm mê hoặc bao người của danh tài tên Nguyễn Xuân Vinh (tức Bảy Thiều). Vậy mà suốt mấy chục năm qua không thấy ai nhắc tới! Chạnh lòng nghĩ về trách nhiệm của một người cầm bút “nếu mình biết chút ít mà không làm gì để lưu lại cho lớp trẻ thì ai sẽ làm? Như vậy, Bình Định nói riêng và đất nước nói chung sẽ mãi mãi lãng quên người nhạc sĩ tài hoa mà lẽ ra ông đáng được tôn vinh rồi. Trong nhà tôi còn lưu nhiều thư của bác Tấn, nhiều bức cho thấy ba tôi rất quan tâm về nhân vật này. Ông đã hỏi bác Tấn nhiều khía cạnh, đời tư, sự nghiệp v.v.. nhưng câu trả lời cũng chỉ là nghe ca ngợi chứ bác không rành gốc gác của người nhạc sĩ ấy. Tôi cũng nghe đâu như chính nhà văn Thu Hoài-Tổng biên tập báo Văn nghệ Nghĩa Bình cũng đã có ý định viết về “Một tài năng cổ nhạc Trung phần bị quên lãng” như đã từng viết giới thiệu với người dân Nghĩa Bình về cụ Đào Tấn (Sư Tổ môn hát bội xứ Nghĩa Bình) nhưng không biết sao vẫn chưa thực hiện được, dù cho trong thực tế người nhạc sĩ tài hoa này rất xứng đáng được tôn vinh, thiếu tư liệu chăng? Cuối cùng thì cả hai đành dừng cái ý định vực dậy một nhân tài của đất võ!. Năm 2006, trời xui đất khiến thế nào tôi đọc được bài viết về ông - nhạc sĩ đàn tranh Bảy Thiều. Và sau đó là cuộc gặp gỡ giữa tôi và người con trai út của ông trên điện thoại. Nếu nói trên trần thế có tâm linh thì tôi nghĩ chắc có lẽ ba tôi đã dẫn lối cho tôi để tiếp tục công việc rất tâm đắc mà ông đang bỏ dở.. Sau khi biết anh Nguyễn Liên - La Nhiên, tôi đến tận nhà để tìm hiểu thêm về người cha của anh – người mà ba tôi đã tốn khá nhiều công sức nhưng chưa thực hiện được ý đồ vực dậy nhân tài của quê hương. Tôi vô cùng mừng, không ngờ ở nhà anh lại lưu trữ nhiều tư liệu về ba tôi. Nhân thể, anh kể cho tôi nghe về sự quen biết giữa hai người quá cố: Lúc bấy giờ (khoảng năm 1934) vào dịp Tổng đốc tỉnh Bình Định tổ chức tiệc chiêu đãi gia đình Chánh sứ mãn hạn công vụ trở về Pháp. Tỉnh trưởng bảo thuộc hạ của mình là ông “Phòng thành” cho lính tống đạt đến số nhà 92 (No: 92, Rue du Cửa Đông à Bình Định) một bản trát lệnh, nội dung đại ý “Tỉnh cần có tên…địa chỉ..đến tư dinh vào lúc.. tối để hầu đờn cho “dạ tiệc”. “Bản trát lệnh” đến nhà Xuân Thiều đúng vào lúc có sự hiện diện của thi sĩ Xuân Khai. Xuân Thiều đưa cho Xuân Khai xem “trát”. Nãy giờ ngồi, Xuân Khai chứng kiến sự vô lễ của lính lệ đối với một danh cầm tiếng tăm như Xuân Thiều, ông không chấp nhận được, bèn nhìn thẳng vào mặt anh ta, hỏi “Chú có biết đây là ai không? Ừ! Biết thì tốt, nhưng biết rồi sao chú mày vô lễ thế? Chú lính xuống giọng và phân trần “Ông Phòng thành” lệnh tôi phải nói như vậy để người nhận “trát ” không dám bê trễ …! Sau đó nhạc sĩ Xuân Thiều tỏ ý muốn mời Xuân Khai ngày mai cùng đi với mình vào dinh … Sáng hôm sau Xuân Khai đến để cùng vào “Tư dinh Tỉnh trưởng”. Vừa ra khỏi nhà cũng là lúc có chiếc xe kéo sang trọng dừng ngay trước cửa. Một người đàn bà Pháp bệ vệ bước xuống, hỏi thăm nhà ông Bảy; họ nhận ra là những người đã từng tranh luận với nhau tại các Diễn đàn Văn nghệ ở Huế trước đây. Nhờ vậy mà ngài Tỉnh trưởng mới nhận biết được tài nghệ của ông Bảy. Từ đó ngài Tỉnh trưởng tỏ ra khiêm nhường và kính trọng ông Bảy hơn trong giao tiếp. Chuyện nhờ sự can thiệp của Xuân Khai mà Bảy Thiều mới tránh được phiền toái do ông em vợ gây ra kể lại rằng: Một thời gian ngắn, ông em vợ đã lợi dụng tiếng tăm của anh rể để nhận tiền boa. Em vợ tên Nguyễn sĩ Quí, nhỏ hơn Xuân Thiều 18 tuổi (sinh năm 1913), nhiều người nhầm ông ta là Xuân Thiều. Trong đó có hoàng tử Shihanou – cùng học với La Nhiên. Ông cậu của La Nhiên thấy thích thú trước sự nhầm lẫn đó, và kiên quyết không chịu cải chính, chả là vì có sự nhầm lẫn này mà thỉnh thoảng được hoàng tử Shihanou biếu vài đồng bạc Đông Dương. Thấy việc lạm dụng thật quá đáng như vậy không hay, nhân lần được ông Bảy mời đi thăm con - La Nhiên, đang học ở Nha Trang. Dịp ấy Xuân Khai được trực kiến với Shihanou. Lúc đến Đại Lãnh, một bãi biển đẹp của Phú Yên, phút giao lưu với vị vua tương lai của Căm-pốt, bằng lời lẽ tế nhị, Xuân Khai ca ngợi tài năng của Xuân Thiều. Thế là chân tướng người em mà bấy lâu Shihanou nhầm tưởng đã rõ. Khi biết mình đã nhầm, Shihanou không quan hệ với cậu của La Nhiên nữa và ông cậu cũng “thẹn” với cháu... Anh La Nhiên còn cho tôi biết về tình cảm của ba tôi đối với cha anh. Sau cách mạng Tháng 8, có thời gian người ta gọi Qui Nhơn là thành phố Tăng Bạt Hổ, còn huyện An Nhơn có tên là Thống Can (chỉ trong một thời gian ngắn). Hồi ấy người dân ở đây đã bầu Xuân Khai làm Chủ tịch Văn nghệ sớm nhất, nhưng Xuân Khai không nhận mà giới thiệu lại cha anh-ông Xuân Thiều, rằng “chỉ Xuân Thiều mới có đủ lực và tài năng đảm đương công việc này…” Sau lần đi thăm con trai cụ Bảy Thiều, nắm được một vài chi tiết quí, tôi có viết: “Nhớ tiếng đàn cậu Bảy Thiều”. đã đăng trên Tạp chí VNBĐ số 76/12/2006. Cách đây hơn hai mươi năm vào ngày 20-5-1988, cụ Tôn Thất Doãn–nhà sưu tầm tiểu sử các danh cầm nhạc Huế (Việt Kiều từ Bỉ, nay đã qua đời) gửi cho Ban Biên Tập Báo Long An một bức thư, trong đó có đoạn “Điểm thắc mắc lớn nhất của tôi là tại sao đối với một “ngôi sao”rực rỡ như Bảy Thiều” mà chưa hề được một bài viết nào tương xứng trong giới sưu tầm nhạc cổ Trung phần Việt Nam (?) Tôi hy vọng…nếu có thể được thì kính nhờ quí Báo chuyển dùm những lời hứa quan trong sau đây đến các Bạn Văn Nghệ Nghĩa Bình: Chúng tôi xin cung cấp cho các bạn văn nghệ ấy một cuộn bande-Magnétophon có thu tiếng đàn tranh của Bảy Thiều tức Nguyễn Xuân Vinh. Chắc các bạn sẽ hài lòng vì chúng tôi sẽ xin phép Giới chức có thẩm quyền thuộc Nhà Bảo Tàng Phát Thanh và Truyền Hình Pháp để thu lại tiếng đàn mà các bạn đang cần làm “chứng liệu” hiện còn lưu giữ tại đây. Đó là một trong rất nhiều tư liệu hiện đang được bảo tàng qua kho tư liệu của đài Bá Âm – France-Asia. Đĩa nhạc thu tiếng đàn Bảy Thiều qua 2 bản- Tứ đại cảnh và Tứ đại oán hồn năm 1939 là loại đĩa nhựa 33,5 tours Ba tôi thường hay nói “Sống ở đời hiểu hiện tại nhưng cũng phải biết rõ về quá khứ” Câu nói ấy ông dạy con cháu phải biết trân trọng những gì mà lịch sử để lại Thiết nghĩ, để tỏ lòng kính trọng dù muộn màng với bậc Tiền bối, chúng ta cũng nên kể đôi dòng về tiểu sử của ông: Xuân Thiều là người con thứ Bảy của ông Nguyễn Kỷ, sinh năm 1895 tại làng Mỹ Phú, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Cha ông làm quan hậu bổ (ngang chức quận trưởng ) ở các tỉnh gần Cố Đô Huế. Ông nổi tiếng thanh liêm, hâm mộ nghệ thuật, ca nhạc. Mẹ là Phan thị Xuân; tuy nhan sắc không mặn mà nhưng rất giỏi các loại đàn. Bà là chị ruột của quan Tuần vũ Đào Phan Duân, ở làng Biểu Chánh, huyện Tuy Phước (ông nổi tiếng bị về hưu sớm vì dám chống Tây) Bà là cháu ngoại của Phan Thị Y –người hầu thân tín nhất của hàng quí phi Từ Dũ. Bà Y là người phụ nữ độc nhất được cung đình chọn đào tạo chơi giỏi các loại đàn để phục vụ lâu dài cho cung đình. Qua đây ta nhận thấy tài năng của cậu Bảy có được từ hồi tóc còn để chỏm là chịu sự ảnh hưởng ở bà ngoại, ở người mẹ của ông mà ta hay gọi là “con nhà nòi” Và đây nữa, hai người anh của ông đều là những danh cầm nổi tiếng. Anh thứ Năm Nguyễn Phan Tần, sống bên ngoại ở Vĩnh Long. Ông chuyên viết sách và soạn sách giáo khoa. Ngoài ra ông còn nổi tiếng là nhạc sĩ đàn tay trái. Ông có công đưa các câu ca dao trữ tình vào các điệu lý của miền Tây Nam Bộ. Người anh thứ sáu Nguyễn Phan Trà lúc mới 5 tuổi đã bộc lộ tài năng hiếm có, chơi được nhiều loại kèn Tây (trompettr, clarinette). Năm 1931 ông này được nhận vào nhạc viện Nancy-Paris và tám năm sau Hoàng cung Thái Lan mời làm trợ lý chuyên môn cho nhạc trưởng –Ban nhạc Hoàng gia Xiêm. Nếu vào thế kỷ 19 người Bình Định hay nhắc tới giai thoại văn học của cha con cậu Tú Khuê ở làng Vân Sơn xã Nhân Hậu với những văn sĩ lừng danh như Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì thì vào đầu thế kỷ 20 họ lại bàn về bốn anh em họ Phạm là Phạm Văn Ký, Phạm Hổ v.v…rồi cuối cùng là giai thoại về tiếng đàn của cha con nhà Nguyễn Xuân Vinh (1895-1952) Nguyễn Xuân Vinh giỏi cả đàn Tranh lẫn đàn Nguyệt. Cuộc thi biểu diễn đàn dân tộc với qui mô lớn nhất nước vào năm 1930 tại kinh đô Huế. Ông đã đoạt giải quán quân về đàn tranh với số đểm tuyệt đối 20/20, so với giải nhì là ông Đội Trác chỉ chiếm 14,5 điểm mà thôi. Thời bấy giờ các báo đã viết về tài xuất chúng của ông- thí sinh độc nhất không phải người Huế. Ngay tờ báo Paris Soir cũng phải thốt lên “Lần đầu tiên người Bình Định đàn Huế hay nhất Huế” Không biết tự bao giờ những âm thanh kỳ ảo cung trầm, cung thương của tiếng đàn ông Bảy Thiều đã thánh thoát nao chảy trong tôi, dù chỉ qua âm hưởng của bài thơ “Ngồi ở Dịch đình nghe đàn tranh” (lầu Dịch Đình - Bình Định-chỗ ấy nay là Nhà Văn Hóa huyện An Nhơn) của thi sĩ Xuân Khai. Ngồi ở Dịch đình nghe đàn tranh (Kính tặng Nguyễn Xuân Vinh-Bảy Thiều Nghệ sĩ tài hoa) Đàn trôi êm êm qua đêm không sương Nghe đàn trôi muôn lòng sôi yêu đương Ôi mong lung ai rung giây tâm hồn Đời cùng trôi cùng chơi vơi theo đàn Trăng nương tường cong vin khóm lê Hương ngưng lư đồng phong dáng nghê Cánh vạc lạc đàn sa mái cuốn Con đò lênh đênh quên bờ về Xuyên qua vườn gòn lòn mây thuXuyên qua lầu đông thông vi vuĐàn trôi, đàn trôi ngưng lưng trờiTương tư tuông dòng chừng bao nguôi Bình Định 1935 (Yến Lan) Để khách quan hơn, tôi tìm hiểu, tham khảo những người có tuổi đời cao để nghe họ bình về tiếng đàn cụ Bảy, trong đó có chú Nguyễn Khánh (Khánh Cao). Người dân quê rất công bằng, tất thảy đều tỏ ra khâm phục tiếng đàn của người nhạc sĩ tài hoa này. Họ thốt lên, rằng tiếng đàn của ông là tiếng đàn “thoát tục”, tiếng đàn “ma quái”. Giữa đêm khuya thanh vắng, tại hiên nhà mình “số 92 Rue du Cửa Đông Bình Định), ông Bảy ngồi đàn. Khi tiếng đàn cậu Bảy vừa vang lên những âm thanh dìu dặt trong không gian, thì không ai bảo ai, rất đông người, kể ca gia đình bề thế, cả người Ấn độ, lặng lẽ đến ngồi bên nhau, chật cả ba bậc cấp Dịch Đình để được thưởng thức tiếng đàn của ông. Kể về nhân vật này, ông Tôn Thất Doãn thuật lại câu chuyện do bác Quách Tạo, nguyên là chánh án TAND LK5 cũng là nhà nghiên cứu văn nghệ thời bấy giờ–đã kể về ông Bảy Thiều như sau: Xuân Thiều đàn tranh giỏi và nổi tiếng từ thời còn để chỏm nhờ có bố là danh cầm Xuân Kỷ-quê mẹ Tân An quê nội Vĩnh Long. Thuộc một vùng địa phương trù phú, chịu ảnh hưởng sâu sắc nếp sống phong lưu, tài tử. Bố của Xuân Thiều thường được các quan lớn vời về tư dinh hòa nhạc. Lúc bấy giờ có một vị Tổng đốc mới về nhậm chức, chơi đàn cũng kha khá nhưng bản tính tự cao, tự đại. Vị Tổng đốc ấy cao hứng mời hai cha con Bảy Thiều vào đọ tài, xem có đúng như lời khen của giới hâm mộ không Trong cuộc thi tài ông Tổng đốc chọn cây đàn tranh và mời mọi người hòa tấu một bản mở màn. Ngay từ lúc vừa khởi tấu vài câu dạo đầu “prélude” dành cho đàn tranh, Bảy Thiều vụt đứng dậy trước sự ngơ ngác của mọi người, lễ phép xin cáo biệt. Có một quan lớn trợn mắt quát, hỏi tại sao vô lễ thế, cậu bé chưa kịp trả lời, cha cậu nhanh nhẹn chạy đến bế xốc con và xin lỗi mọi người ra về. Về sau người ta mới biết lý do cậu bé vô lễ chỉ vì cậu không chịu được thái độ “kiêu kỳ” của tân Tổng đốc khi cậu nghe qua, thấy tiếng đàn của ông ta quá tồi. Người ta nói rằng “Tiếng đàn của ông Bảy Thiều nếu những người rành về âm nhạc, đã một lần nghe thì không thể quên được.” Thật vậy, tình cờ tôi đọc được tờ Nội san khảo cứu Văn hóa Phương Đông số 5-2003 (9) đã chứng minh điều mà mọi người đồn đại: “Tôi là người may mắn còn sót lại cho đến hôm nay để kể lại đôi nét cảm nhận đặc biệt của mình đã hơn một lần được thưởng thức tiếng đàn tranh do nghệ sĩ Bảy Thiều biểu diễn… ” Vào năm 1935, Triều đình Huế đã chọn một số nghệ sĩ đàn ưu tú nhất để tháp tùng Ban nhac Cung đình đi thi nhạc Huế tại New York . Nguyễn Xuân Vinh là một trong số người được cử đi. Thât không may cho nhà danh cầm, đúng lúc ấy thì vợ ông qua đời. Nỗi buồn mất vợ, nỗi buồn không được tham gia dịp may hiếm có trong đời đã làm cho vết thương lòng ông rộng ra. Càng buồn ông càng đàn hay. Nỗi buồn đó như truyền vào từng cung thương cung trầm của ngón đàn mà chỉ có ông Bảy mới thể hiện được, người nghe tưởng như mình đang nghe những lời nức nở từ thế giới bên kia vọng về. Chính vì thế tiếng đàn của ông được nhiều người ngưỡng mộ và được đánh giá cao trong những thập niên 50-60 thế kỷ 20… Ngày tạ thế của danh cầm tài hoa này đã để lại cho giới âm nhạc và người hâm mộ một mất mát lớn. Ông nghè Đào Thuyên ở làng Biểu Chánh đã khóc tiễn bạn: Bất tại nhân gian Thập lục Huyền Xuaân Thiều danh nhạc tứ hoa niên Sổ văn trich trich như tinh lạc Kim nhật do hồ tự lãng tiên Qua người thân của cụ Bảy và những gì ông cụ nhà tôi đề cập tới danh cầm Nguyễn Xuân Vinh, tôi thật sự ngưỡng mộ tài, đức của ông. Không biết sau bài viết của tôi có còn ai nghĩ về ông nữa hay không! Có một điều, chắc phần nào an ủi ông ở bên kia thế giới, rằng trên đời này vẫn còn có các nghệ sĩ ở Hải ngoại trân trọng và gìn giữ những báu vật ít ỏi mà cơ may nào đó họ tìm thấy được: “Mới đây nhóm nghệ sĩ gốc Viêt ở Pháp cho biết họ đã tìm thấy trong kho lưu trữ Tư liệu nhạc cổ Đông Dương, bản nhạc của một nhạc sĩ quá cố - người đồng hương với thi sĩ Lâm Thanh Lang (Yến Lan) mà theo họ nói đã gặp nhiều khó khăn gần 30 năm trong việc xác định tên của tác giả -đó là bản Cung Nam Oán (còn gọi là Sài Gòn Oán khúc) ký hiệu SGOK. Bà Denise Nguyễn-thành viên quan trọng nhất trong nhóm sưu tầm tư nhân cho biết: Nhờ nét “âm hưởng” trong bài thơ mang tên “Nghe đàn tranh bên thềm Dịch Đình” của nhà thơ Yến Lan mới nhận ra bản nhạc mê ly này là của ông Bảy Thiều Chỉ tiếc rằng ngày xưa không có điều kiện để lưu lại ngón đàn tài hoa và mê ly mà ông Bảy đã gieo vào lòng người dân huyện An Nhơn và ở Cung đình Huế. Tài sản của ông để lại cho quê hương đất nước thật ít ỏi, không cân đo đong đếm được, nó thật sự vô hình. Nhưng những gì người ta biết được về ông là đức độ, là tình người. Hiện nay con người đang từng bước khôi phục lại những gì của ông cha để lại. Chúng ta thấy nhân dân Miền Bắc đang yêu cầu được thế giới chấp nhận “Ca trù là di tích văn hóa thế giới” Ca trù đâu có hình dáng nhưng nó là tài sản của ông cha đã khai phá ra nên ta cần giữ lại.. Vậy, với Bình định cũng nên tìm hiểu để phát hiện và tôn vinh, bảo tồn những vốn quí của quê hương Bình Định, kẻo sau này con cháu sẽ trách ta. Thể hiện cái nhìn công tâm về lịch sử và biểu lộ tấm lòng của người hôm nay đối với tiền nhân, khi cầm bút viết bài này, tôi hy vọng rằng, đây là một chút nhỏ để giúp người làm công tác nghiên cứu tiếp tục công việc “vực dậy một nhân vật đã bị lãng quên” mà ba tôi và nhà thơ Thu Hoài còn bỏ dở. - Hy vọng rằng các nhà nghiên cứu về danh nhân của Bình Định nếu có trăn trở và coi trọng giá trị truyền thống lịch sử văn hóa của Bình Định hãy thẩm tra, phát hiện để tôn vinh bảo tồn những vốn quí của quê mình; tuy có muộn còn hơn là để trôi đi mất.