ạp Lan vương phi giật thót tim, chỉ nghe Đa Thích lại nói tiếp: “Chúng ta đã lấy nhau được mười tám năm, mười tám năm qua nàng cứ mãi rầu rĩ ủ dột, ít khi thấy nàng cười. Nàng không nói ta cũng hiểu!” Nạp Lan vương phi nhướng mày hỏi: “Hiểu gì?” Đa Thích thở dài nói: “Nàng là đệ nhất mỹ nữ của người Kỳ chúng ta, tài mạo song toàn, ta chỉ là một kẻ võ phu, dù nàng không nói ta cũng biết nàng không thương ta!” Nạp Lan vương phi ứa nước mắt nói: “Vương gia sao lại nói thế? Vương gia là trụ cột của triều đình, là anh hùng trong người Kỳ chúng ta, thiếp lấy Vương gia đã là trèo cao”. Đa Thích nói: “Phu nhân, mười tám năm làm phu thê, sao phu nhân không chịu nói thực một lời? Ta biết không xứng với phu nhân, nhưng ta coi phu nhân còn quan trọng hơn cả tánh mạng của ta, ta muốn tìm mọi cách làm phu nhân vui lòng nhưng còn khó hơn cả hái trăng trên trời xuống”. Nạp Lan vương phi không kìm được nữa, nước mắt tuôn lả chả, rầu rĩ nói: “Vương gia, đừng nói nữa. Vương gia chẳng thể nào hiểu được, chúng ta gặp nhau tiếc rằng đã quá muộn...” Đa Thích ngạc nhiên hỏi: “Sao?” Nạp Lan vương phi chợt giật mình, thầm nhủ không thể tiết lộ bí mật, bà ta lấy ống tay áo lau nước mắt, buồn bã nói: “Vả lại chúng ta chẳng có con cái gì cả”. Đa Thích đột nhiên đỏ ửng mặt, cười khổ sở nói: “Đó là tại ta không tốt, ta vẫn luôn giấu nàng. Năm xưa ta dắt binh đánh Đại Tiểu Kim Xuyên, bị một mũi tên làm bị thương thận tạng, ngự y nói ta sẽ không thể có con cái. Nhưng ta không nản lòng. Mấy năm nay ta luôn tìm kiếm các loại thuốc qúy trong thiên hạ, có người nói vẫn chưa tuyệt vọng, nên ta không nói với nàng. Đó cũng là bí mật của ta, ta e rằng nói ra nàng sẽ càng không thương ta”. Nạp Lan vương phi thấy bất ngờ, không ngờ việc không có con cái té ra có ẩn tình. Bà vốn nhớ đến con gái của mình, lúc này đột nhiên buồn bã. Bà ái ngại cúi đầu, Đa Thích lại ấp úng nói tiếp: “Nếu nàng thích con cái, chúng ta xin một đứa về nuôi vậy. Nàng thích con trai của tứ bối lạc hay là đại cách cách của thất bối lạc?”. Nạp Lan vương phi lòng dạ rối bời, yêu hận trỗi lên cuồn cuộn, bà nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa mình với Dương Vân Thông, việc cả hai kết thề ở thảo nguyên, sinh ly tử biệt ở Hàng Châu (xin mời xem bộ truyện “Tái ngoại kỳ hiệp truyện”). Những câu chuyện này như khắc sâu vào tâm khảm của bà khiến bà chẳng thể nào quên được! Đa Thích thấy bà im lặng cúi đầu, lại hỏi dấn tới: “Nàng nói đi, nàng thích con của ai?”. Nạp Lan vương phi ngẩng đầu, thấy trong ánh mắt chồng đầy vẻ tự trách và bi thương, nhớ lại mười tám năm qua quả thật cũng thật lòng thương yêu mình, bà chợt cảm thấy y cũng rất tội nghiệp. Nạp Lan vương phi lau nước mắt, nhoẻn miệng cười hỏi: “Vương gia muốn nói...” Đa Thích nói: “Xin một đứa về nuôi! Nàng thấy con của ai dễ thương?”. Nạp Lan vương phi thấy cõi lòng tan nát, chợt nói: “Chẳng đứa nào dễ thương cả, thiếp muốn...” Đa Thích hỏi: “Nàng muốn gì?” Nạp Lan vương phi dịu dàng vuốt mặt y, nói: “Thiếp muốn cầu xin người một chuyện, người có chấp nhận không?” Đa Thích nói: “Chuyện gì cũng được cả!” Nạp Lan vương phi nói: “Xin người hãy hứa với thiếp đừng làm tổn hại ‘nữ tặc’ ấy!” Đa Thích kinh hãi, mở to mắt ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?” Nạp Lan vương phi nói: “Người có hứa không?” Đa Thích kiên quyết nói: “Được, ta hứa với nàng! Ta bảo Sở Chiêu Nam ngừng truy bắt, vả lại trừ phi ả dùng kiếm đến đâm vào người ta, nếu không ta sẽ không ra tay với ả!” Nạp Lan vương phi hỏi: “Ả dùng kiếm?” Đa Thích nói: “Kiếm pháp của ả nha đầu rất giỏi! Chỉ có điều khí lực không đủ, nếu không ta chắc chắn chẳng phải là địch thủ của ả. Sở Chiêu Nam nói: Kiếm pháp của ả hình như gọi là Thiên Sơn kiếm pháp, cùng một nguồn gốc với y”. Nạp Lan vương phi dựa vào ghế, mắt nhìn xa xăm, tựa như phía trước mặt là ngọn Thiên Sơn. Bà nhớ con gái của mình, năm lên hai tuổi đã bị Dương Vân Thông cướp đi, nếu nữ tặc ấy là con của bà ta, năm nay có lẽ là hai mươi hai tuổi. Mười tám năm qua con gái của bà ta ở đâu? Ai đã nuôi dưỡng nàng? Bà rất muốn biết thêm một chút những chuyện về con gái của mình, điều gì cũng được, chỉ một chút cũng được! Nhưng vừa nghe nói nữ tặc ấy sử dụng Thiên Sơn kiếm pháp thì trong lòng chợt thấy lạnh lẽo. “Dương Vân Thông ơi! Chàng đúng là chết không nhắm mắt, chàng đã muốn con gái của mình học kiếm pháp để báo thù cho chàng?”. Bà nghĩ mãi, nghĩ mãi rồi chợt lạnh mình, nhớ đến một đêm tối kỳ lạ trên thảo nguyên. Dương Vân Thông từng nói: “Dân tộc của chúng ta đối đầu nhau, nhưng muội không phải là kẻ thù của huynh, huynh hứa mãi mãi không làm tổn hại muội, nhưng giả sử muội ngả vào lòng người khác, có nghĩa là muội cũng đã đẩy một mối họa cho y. Kết quả chính là... chết!”Đây là một kiểu tình yêu cố chấp đến nỗi không thể nào lý giải nổi. Dương Vân Thông chết đi khiến cho bà đau lòng đến mười tám năm, mười tám năm tuổi trẻ trải qua trong những ngày tháng âm u, điều đó có thể chuộc được lỗi bội ước của mình? Bà nghĩ, có nhiều lúc bà rất hận Đa Thích, nhưng cũng có lúc yêu Đa Thích. Dẫu sao hai người cũng đã là vợ chồng mười tám năm! Bà thường nghĩ: “Dương Vân Thông không phải Đa Thích hại chết, Đa Thích chẳng hề biết chuyện này, tuy họ là hai kẻ địch chẳng đội trời chung! Trước kia bà từng nghĩ như thế để an ủi mình. Nhưng giờ đây, con gái của mình đã đến, nó đã học kiếm pháp, nó sẽ dùng kiếm pháp ấy để đối phó với chồng của mình!” bà đột nhiên ôm mặt, bà không muốn Đa Thích làm tổn thương con gái của mình, nhưng cũng không muốn con gái của mình hại Đa Thích! Đa Thích ngạc nhiên lắm, y thấy phu nhân của mình ngồi ngẩn người ra, y không dám gọi bà. Lúc này y chợt nghe một tiếng gọi nhỏ, y vội vàng chạy tới khẽ hỏi: “Nàng sao thế?” Nạp Lan vương phi quay đầu lại chợt nói: “Thiếp cũng không để cho nó đả thương người!”. Lúc này Đa Thích còn kinh hãi hơn lúc nãy, y thối lùi hai bước, rung giọng hỏi: “Ả sẽ nghe lời nàng?” Nạp Lan vương phi toát mồ hôi toàn thân, bà ta định thần rồi cố gượng cười: “Sao lại hoảng hốt như thế! Thiếp nghe người nói, ả nha đầu ấy rất giống thiếp, trong lòng thiếp có một ý nghĩ kỳ lạ, nếu ả là con của chúng ta thì thật tốt biết bao nhiêu. Người rất yêu thiếp, thiếp nghĩ người chắc chắn sẽ không hại người giống thiếp nên thiếp mới dám lớn gan cầu xin người. Thiếp lại nghĩ, thiếp thương mến ả như thế, nếu ả biết được sẽ nghe lời thiếp”. Đa Thích chép miệng: “Minh Tuệ, nàng cứ như một đứa trẻ, suy nghĩ sao mà vô tư hồn nhiên đến thế!”. Sau cuộc trò chuyện ấy, Nạp Lan vương phi tốt hơn với Đa Thích nhiều, bà ta tựa như có một dự cảm, tử thần đã đến gần họ. Vẻ tĩnh lặng ở hiện tại là khoảng thời gian dự báo cho giông tố bão bùng. Vì thế cuối cùng ngày ấy cũng đến... Hôm nay Đa Thích chính thức nhận được thánh chỉ, y phải thống suất ba quân đi thảo phạt Ngô Tam Quế và tiêu diệt Lý Lai Hanh. Vốn là Hoàng đế đã nói với y chuyện này từ trước, có điều y không nói với Vương phi. Y cũng có một dự cảm, y cảm thấy sinh mệnh của mình hình như đã đi đến đoạn đường cuối cùng, y chưa bao giờ có cảm giác như thế này. Y không hề sợ Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế cũng như ngọn đèn trước gió, chỉ cần y đến thổi một hơi thì ngọn đèn ấy sẽ tắt ngấm. Y càng không sợ đánh trận, đối với y đánh trận là chuyện rất bình thường. Nhưng y có một nỗi lo lắng không tên, nỗi lo lắng này xuất phát bởi những hành động thất thường của Vương phi, hình như y nhìn thấy trong ánh mắt của Vương phi một điềm dữ. Có lúc y thức dậy nửa đêm, thấy đôi mắt của Vương phi như phát ra ánh sáng trong đêm tối, y hoảng sợ đến nỗi toàn thân toát mồ hôi lạnh. Hôm nay sau khi nhận được thánh chỉ y trở về nói cho Vương phi biết. Vương phi khẽ thở dài, nói: “Vương gia, thiếp sợ phải xa người!” Đa Thích nói: “Ta sẽ mau chóng trở về”. Vương phi im lặng không nói, một hồi sau chợt bảo: “Người đi cũng tốt, kẻo chạm mặt nha đầu ấy trong kinh thành!” Đa Thích nhíu mày: “Sao nàng cứ mãi nhắc đến ả nha đầu ấy?”. Vương phi không đáp lời, một hồi sau mới khẽ hỏi: “Khi nào thì người lên đường?” Đa Thích nói: “Ngày mau duyệt binh, ngày mốt xuất phát!” Vương phi nói: “Ngày mai thiếp sẽ đến chùa Ngọa Phật thắp hương cho người”. Suốt đêm ấy Đa Thích chẳng thể nào chợp mắt. Ở một nơi khác, Dịch Lan Châu cũng có một dự cảm kỳ lạ, mấy ngày hôm nay nàng chú tâm luyện Thiên Sơn kiếm pháp, không nghĩ đến bất cứ việc gì nhưng nàng chẳng thể nào bình tĩnh nổi, trong lòng cứ rối bời bời! Nàng cảm thấy vui ve;n thân run bần bật. Mạo Hoàn Liên cười hì hì nói: “Nếu ngươi dám làm tổn thương ta, ta lập tức sẽ vạch trần chuyện này ngay trong cung!” Khang Hy giật mình thầm nhủ: “Nếu ả tiết lộ ra ngoài mình không sợ. Nếu kêu toán lên trong cung, Thái hậu biết thì không xong”. Thế là y nở nụ cười, nói: “Ả nha đầu nhà ngươi thật là kỳ khôi, ta đã hứa đưa ngươi ra khỏi cung, ngươi còn nghi ngờ gì nữa?” Mạo Hoàn Liên nhìn Khang Hy với ánh mắt lạnh lẽo như băng tuyết, thúc giục: “Viết mau, viết mau! Thả nữ tặc ấy ra!”. Khang Hy cầm bút lông, đang nghĩ kế thoát thân thì chợt nghe bên ngoài có tiếng bước chân, Sở Chiêu Nam lớn giọng kêu: “Hoàng thượng có trong đấy không?” Khang Hy nói: “Ở đây!” Mạo Hoàn Liên kề kiếm vào cổ của y, khẽ nói: “Không cho y vào!”. Sở Chiêu Nam dừng chân lại trước cửa, Khang Hy nói: “Ngươi đợi một lát, trẫm sẽ ra ngay!” Sở Chiêu Nam bẩm tấu: “Ngạc vương phi vào cung, giờ đang đợi bên ngoài!” Khang Hy vò tấm giấy chưa viết xong thành một cục, thuận tay ném xuống đất, Mạo Hoàn Liên khẽ quát hỏi: “Làm gì thế?” Mạo Hoàn Liên toan tiếp tục ép y, chợt nghe bên ngoài có thái giám bẩm: “Thái hậu giá đáo!” Khang Hy cười khổ sở nói: “Thái hậu đến, ta không thể cản người!” Mạo Hoàn Liên nhíu mày, cất thanh bảo kiếm, nói: “Ra ngoài!” Khang Hy đẩy cửa phòng, Sở Chiêu Nam thấy sau lưng Hoàng đế có một cung nga rất quen mặt! Y không dám nhìn kỹ, Mạo Hoàn Liên đã tiện tay đóng cửa phòng lại, khẽ nói bên tai Khang Hy: “Nhớ lão hòa thượng đấy!” Khang Hy xua tay nói: “Các người vào đây làm gì? Ra ngoài cả cho ta!” Sở Chiêu Nam vâng một tiếng rồi bẩm tiếp: “Thái hậu bảo bọn thần đến đây tìm”. Khang Hy ừ một tiếng rồi bước ra ngoài, Mạo Hoàn Liên đi sát theo sau. Lúc này Sở Chiêu Nam đã thấy Mạo Hoàn Liên, trong lòng cả kinh. Cả đám người ra khỏi Lan phong tinh xá, Thái hậu bước tới hỏi: “Hoàng nhi làm gì ở đây?” Khang Hy nói: “Hoàng nhi muốn tìm vài cuốn sách”. Thái hậu nhìn bức tranh trên tay Mạo Hoàn Liên, hỏi: “Có phải bức tranh này ở trong đó không?” Khang Hy khẽ gật đầu, Thái hậu đang định muốn nàng mở ra xem. Ngạc vương phi bước tới, tên thái giám trải gấm vàng xuống đất, Ngạc vương phi quỳ xuống miếng gấm dập đầu. Thái hậu nói: “Vương phi đang muốn bệ kiến”. Khang Hy hỏi: “Có chuyện gì gấp?” Thái hậu nói: “Vương phi bảo bệnh đã lui, hôm nay muốn vào thiên lao thẩm vấn nữ tặc!” Khang Hy nói: “Vậy thì tốt!” Ngạc vương phi dập đầu tạ ơn. Thái hậu rất thương mến bà, kéo bà đứng dậy, Mạo Hoàn Liên nhân thời cơ ấy, khẽ nói bên tai Hoàng đế: “Ta muốn theo Ngạc vương phi ra ngoài!”. Té ra Mạo Hoàn Liên nghĩ, tuy mình nắm được điểm yếu của Hoàng đế, nhưng muốn an toàn ra cung thì cũng không khó. Trong cung Hoàng đế sợ mình nói ra chuyện giết cha, không dám gia hại, nếu y sai người đưa mình ra cung thì y chắc chắn sẽ ngẩm hạ độc thủ. Bởii vậy lo rằng nếu cứ chần chừ nữa thì sẽ có người nhận ra chính Nạp Lan công tử đã đưa mình vào cung, mình cũng đã từng ở trong cung của Tam công chúa, lúc đó há chẳng phải đã liên lụy họ hay sao. Nàng tuy không dám tin tưởng Ngạc vương phi, nhưng cũng cảm thấy bên cạnh Ngạc vương phi thì an toàn hơn nhiều. Khang Hy khẽ ừ một tiếng, Thái hậu đã kéo Ngạc vương phi đứng dậy. Khang Hy nói: “Ngạc thân vương không may chết thảm, trẫm rất đau lòng, muốn chia sẻ nỗi buồn cùng Vương phi. Trẫm có một ả cung nga thông hiểu cầm kỳ, lanh lợi hoạt bát, nay ban cho Vương phi để giải buồn”. Mạo Hoàn Liên nhẹ nhàng quỳ xuống. Ngạc vương phi tạ ơn xong thì đỡ Mạo Hoàn Liên, thầm nhủ: “Sao hôm nay đột nhiên Hoàng thượng tặng cung nga cho mình?” số là Hoàng đế tặng cung nga cho Vương phi thân vương cũng là chuyện bình thường, có điều chưa bao giờ tặng ngay trước mặt mà ra lệnh cho thái giám trong cung đưa cung nga tới phủ đệ mà thôi. Vương phi cảm thấy không bình thường nhưng cũng không lấy làm lạ. Thái hậu nhớ đến chuyện của Đổng Tiểu Uyển, định hỏi Hoàng đế có thấy gì trong phòng hay không, không để ý đến Mạo Hoàn Liên và Ngạc vương phi, thế rồi mới thúc giục Hoàng đế quay trở về cung Cảnh Dương. Khang Hy bước tới phía trước chỉ nói: “Sao tam muội muội cũng đến đây”. Mạo Hoàn Liên vừa đi theo Ngạc vương phi được mấy bước, chợt thấy Tam công chúa cũng đến, vội vàng nháy mắt. Tam công chúa hỏi: “Sao Vương phi vào cung sớm đến thế?” rồi nàng liếc mắt nhìn Mạo Hoàn Liên. Ngạc vương phi khẽ gật đầu, chỉ Mạo Hoàn Liên nói: “Tam công chúa có nhận ra ả không? Hoàng thượng bảo ả thông hiểm cầm kỳ, sau này ta đã có người chỉ điểm”. Tam công chúa nói: “Ồ, là Hoàng thượng đã thưởng ả cho Vương phi?” Ngạc vương phi nói: “Không dám!” Tam công ch&uacutsướng, nhưng cũng cảm thấy đau đớn. Nàng rất thương yêu cha của mình, nhưng nàng không thể nào nhớ nổi mặt cha. Nhưng sự tích của cha nàng vẫn còn lưu truyền ở thảo nguyên. Cha của nàng giúp người Cáp Tác Khắc chống quân Thanh, khi dân du mục nhắc đến “đại hiệp Dương Vân Thông” thì giống như nói đến người thân của mình, nàng cũng cảm thấy kiêu hãnh vì có một người cha anh hùng, bởi vì tấm huyết thư mà cha của nàng, đó chính là tấm huyết thư mà Lăng Vị Phong trao cho nàng khi nàng được mười sáu tuổi, tấm huyết thư ấy cứ giống như tảng đá nặng ngàn cân đè trong lòng nàng! Nếu không thể nghe theo lời dặn của cha, nàng mãi mãi sẽ không cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng! Giờ đây nàng đã quyết định đi chết, liều mạng hoàn thành lời dặn của cha. Quyết định này khiến nàng thấy nhẹ nhõm hơn. Bởi vậy nàng cảm thấy một niềm vui kỳ lạ! Nhưng nàng lại có một nỗi đau đớn khó nói rõ. Nàng có thương mẹ ruột của mình không? Cả bản thân nàng cũng không biết. Nàng lớn lên trong hiu quạnh, chỉ có Lăng Vị Phong là người thân, nàng rất khát khao tinh yêu của người mẹ, nhưng tình yêu ấy lại chen lẫn nỗi căm hận. Nàng rất muốn gặp mẹ, muốn hỏi rằng trước năm nàng hai tuổi thì sự việc diễn ra như thế nào. Nàng dự cảm lần này sẽ mãi mãi chẳng được gặp mẹ, có lẽ mẹ nàng cũng không biết mình là con của bà ta. Một năm nay, trong lòng nàng dâng lên một hình bóng, đó là hình bóng của Trương Hoa Chiêu, cả bản thân nàng cũng không rõ là từ lúc nào nàng đã có tình cảm với chàng ta như thế. Hôm nay Dịch Lan Châu lại rơi vào tâm trạng rối bời. Bọn Trương Thanh Nguyên không những đã biết tin Đa Thích duyệt binh, vả lại còn biết tin Nạp Lan vương phi sẽ đến thắp hương tại chùa Ngọa Phật, Thạch Chấn Phi rất rành rẽ Bắc Kinh, âm thầm cài cấm cho họ rất nhiều tai mắt. Ngày hôm trước Ngạc vương phi thông báo cho trụ trì chùa Ngọa Phật, ngày hôm sau họ đã biết. Bởi vì Vương phi sắp đến thắp nhang, trụ trì đương nhiên sẽ thông báo cho các nhà sư chuẩn bị, mà trong các nhà sư lại có người của Thạch Chấn Phi. Đây chính là cơ hội hành thích Đa Thích cuối cùng nhưng cũng khó ra tay trong cơ hội này! Hành thích khi duyệt binh là chuyện không thể! Bởi vậy mọi người đều bàn bạc xôn xao, Dịch Lan Châu vẫn lặng lẽ lạ thường, Trương Hoa Chiêu nhìn nàng sững sờ, lòng đột nhiên cảm thấy có tình cảm quyến luyến đối với nàng. Chàng biết hành thích Đa Thích rất quan trọng đối với sự nghiệp của họ, nhưng chàng không nỡ nhìn thấy một thiếu nữ lớn lên trong quạnh quẽ và đau khổ đi vào cái chết trong thời xuân sắc! Chàng vẹt mọi người, bước ra nói: “Nếu đã không thể ra tay thì thôi vậy!” Dịch Lan Châu lạnh lùng nói: “Ai bảo không thể ra tay? Chúng ta sẽ đến chùa Ngọa Phật ở Tây Sơn!”. Mạo Hoàn Liên nói: “Sau khi Đa Thích duyệt binh, cần phải giải quyết nhiều chuyện lớn nhỏ, nói không chứng sẽ vào kinh bệ kiến, làm sao cô nương biết y sẽ đến chùa Ngọa Phật?” Dịch Lan Châu nói: “Tôi nghĩ y sẽ đến. Vả lại dù y không đến, chúng ta cũng chỉ còn một cơ hội để thử. Các người không đi, ta đi một mình!” Thông Minh hòa thượng kêu lên: “Ả nha đầu này gan lớn thật, bọn ta cũng không nhát gan, nếu đi thì chúng ta cùng đi!” Dịch Lan Châu mỉm cười, Trương Hoa Chiêu im lặng không nói, Thường Anh và Trình Thông vỗ tay khen hay, thế là mọi việc đã quyết định như thế. Lại nói hôm nay Đa Thích duyệt binh ngoài Đại hiệu trường, chỉ thấy mười vạn hùng sư đao thương sáng choang, tên tham tướng bên cạnh nói: “Đại soái, binh lực chúng ta hùng mạnh thế này, Ngô Tam Quế và Lý Lai Hanh chắc chẳng chịu nổi một đòn!” Đa Thích hừ một tiếng, rút ngựa xem duyệt binh, tâm trạng tựa như rất lạnh lùng. Các tướng lĩnh cao cấp từng người đến chào, y cũng chỉ gật đầu. Các tướng thấy vẻ mặt của thống soái quá khác lạ, chẳng còn vẻ uy dũng thường ngày, chẳng xứng tí nào với không khí duyệt binh, trong lòng thầm lo, hình như đây có thể là điềm không may. Đa Thích duyệt binh sơ sài, không đến chín ngọ thì đã kết thúc. Tham tướng kêu lên: “Đại soái có cần triệu tập các tướng nói chuyện không?” Đa Thích xua tay nói: “Không cần!” tên tham tướng rất lấy làm lạ, cúi người hỏi: “Vậy khi nào thì điểm tướng?” theo lệ xuất chinh, cần phải thực hiện đại điển điểm tướng, nào ngờ Đa Thích cũng xua tay: “Vội gì? Ra khỏi kinh điểm tướng cũng được!” tên tham tướng hỏi: “Đại soái có vào cung bệ kiến chào Hoàng thượng không?” Đa Thích nhíu mày nói: “Ngày mai cũng phải chầu sớm, không cần phải bệ kiến”. Tham tướng muốn hỏi thêm thì Đa Thích đã quát: “Sao ngươi cứ lôi thôi thế, bổn soái có việc!” tên tham tướng nín thinh, càng ngạc nhiên hơn. Vốn là tham tướng có trách nhiệm sắp xếp mọi việc cho thống soái, y không ngờ mình nhắc như thế thì bị trách, Đa Thích cho ba quân lui ra rồi nói với tham tướng: “Ngươi và các thân binh theo ta đến chùa Ngọa Phật dâng hương!” tên tham tướng ngạc nhiên hỏi: “Dâng hương ngay lúc này?”. Đa Thích gắt lên: “Không được sao?” tên tham tướng không dám lên tiếng, chỉ khúm núm thối lui. Một chốc sau ba trăm tinh binh cùng hơn mười vệ sĩ đi theo Đa Thích đến Tây Sơn. Lúc này trong đầu Đa Thích trống rỗng, tựa như chẳng hề có gì. Y chỉ nghĩ đến một chuyện đó là phải gặp Vương phi của mình. Lúc này trong đầu y, Vương phi của y còn quan trọng hơn cả thiên tử! Mấy ngày hôm nay y tựa như đã giành được nàng, nhưng dường như cũng sắp mất nàng. Nàng đi dâng hương giúp y thắng lợi, ca khúc khải hoàn, đó là chuyện chưa bao giờ xảy ra! Y chỉ có một nguyện vọng là mau chóng đến trước mặt nàng nói ra lời đáp tạ. Tây Sơn mùa thu rất đẹp đẽ, núi non chập chùng, lá phong ửng đỏ, nước suối từ trên cao đổ xuống như dải cầu vồng, mây lượn bồng bềnh trên đỉnh núi như Đa Thích chẳng còn lòng dạ nào thưởng thức cảnh đẹp ấy. Y xuống ngựa lên núi, từ xa đã thấy khói nhang nghi ngút, bọn thân binh đi hai bên mở đường. Lên được lưng chưng núi chùa Ngọa Phật đã hiện ra trong tầm mắt, y chợt thấy một bà già tóc bạc phơ cúi đầu đứng khóc, bọn thân binh quát đuổi mà bà ta cũng chẳng hề nghe. Tên tham tướng vung roi quát: “Đuổi bà ta ra!” bà già khóc rằng: “Ông ơi! ông ơi!” Đa Thích hơi nhíu mày nói: “Không cần đuổi bà ta!” rồi tiến lên hỏi: “Tại sao bà khóc như thế?” bà già đáp: “Chồng tôi bỏ đi mười tám năm không về, mới về được hôm trước thì đã bệnh nặng. Tôi đến thắp hương cầu xin Bồ Tát phù hộ cho ông ấy!”. Đa Thích giật mình, lẩm bẩm: “Ông ta cũng mười tám năm...” bà già cầm cây gậy mà run lẩy bẩy trả lời: “Đúng thế, mười tám... mười tám năm tội nghiệt!” bà già than rằng: “Ông ấy vốn không thương tôi, chỉ vì tuân lệnh cha mẹ mới cưới tôi, sau khi thành hôn ông ấy bỏ đi biền biệt đến mười tám năm, giờ thì đã hồi tâm chuyển ý nhưng lại bệnh nặng. Đại nhân ơi! Đó chẳng phải là tội nghiệt hay sao?” Đa Thích càng nghe càng ái ngại, chợt cảm thấy giọng nói này tuy già cả nhưng hình như đã nghe ở đâu đấy, y vẫy tay nói: “Bà đến đây!” bà già trông rất yếu ớt, bàn tay cầm gậy run càng dữ hơn, bà ta loạng choạng bước tới gần. Bọn thân binh đều nhìn bà ta với ánh mắt kỳ lạ. Vương gia để cho một bà già đến trước mặt mình nói chuyện thì thật là kỳ quái. Đa Thích lại xua tay nói: “Các ngươi trách qua một bên để cho bà ta đến”. Không những bọn thân binh ngạc nhiên, ngay cả những quần hào ẩn nấp dưới tán cây hoặc cải trang thành khách hành hương cũng thầm khen: “Ả nha đầu này thật giỏi, diễn trông rất giống!”. Bà già từng bước đi đến trước mặt Đa Thích, miệng thở phều phào. Đa Thích nói: “Bà ngẩng đầu lên!” bà già vung tay, cây gậy đột nhiên gãy thành hai đoạn, trong gậy là một thanh kiếm sáng chói! Bà ta nhanh như chớp đâm vào Đa Thích, Đa Thích bất ngờ không kịp né tránh nên tay phải đã trúng một kiếm nhưng y cũng kịp rút trường kiếm ra chém vèo tới, bà già hạ đầu tránh cú chém ấy, ánh kiếm phong lướt qua, mái tóc giả rơi xuống đất. Đó chẳng phải bà già nào cả mà là một thiếu nữ trẻ tuổi! Ngay lúc này quần hào mai phục trên núi cũng rùng rùng xông ra. Bọn thân binh và thị vệ vây bên ngoài cố gắng chống trả, vài tên vệ sĩ toan chạy đến giúp Đa Thích. Đa Thích kêu lên: “Các ngươi hãy mau cản địch ở bên ngoài, không cần đến!” bọn vệ sĩ đều biết Đa Thích võ dũng phi phàm, bản lĩnh chẳng kém gì bọn chúng, nghĩ bụng bắt một ả nha đầu chẳng phải chuyện khó, vả lại bọn người kia rất hung hăng, bởi vậy cũng nghe lời Đa Thích, quay đến cự với quần hào. Đa Thích bị thương ở tay trái, y phẫn nộ lạ thường, cây trường kiếm cứ đánh ra vèo vèo! Thiếu nữ cải trang bà già chính là Dịch Lan Châu, nàng đánh một đòn đã đắc thủ, phóng vọt người lên đánh trái đâm phải, trong chốc lát đã phá hơn hai mươi chiêu, mồ hôi tuôn ra ròng ròng. Nàng vội vàng giở ống tay áo lau lên mặt, lớp phấn trên mặt trôi sạch lộ ra mặt thật. Đa Thích như nhìn thấy Vương phi ở trước mặt, y kêu lên, trong khi y kêu lên cổng chùa Ngọa Phật mở rộng, bên trong có một cỗ kiệu nhỏ. Giọng nói của Vương phi chợt nổi lên trong đầu Đa Thích: “Người hãy hứa với thiếp, đừng làm tổn thương nó, có được không?” Đa Thích chợt thấy trước mắt tối sầm, Dịch Lan Châu đâm soạt soạt mấy kiếm thẳng tới, Đa Thích đã bị thương mấy chỗ, y trợn mắt, khi đang định c là ai?” Lăng Vị Phong tưởng rằng bà ta nghe danh tiếng của mình thì ngừng tay, nào ngờ thiếu phụ gật đầu cười: “Thiên Sơn Thần Mãng quả nhiên danh đồn không ngoa, thử thêm vài chiêu nữa”. Rồi bà ta vung cây roi ra, tay phải cầm cây đoản kiếm triển khai những chiêu số tấn công. Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Người đàn bà này chẳng phép tắc tí nào!” rồi chàng lắc người, mũi kiếm lóe lên, cũng triển khai những thế tấn công như giông bão. Võ công của người đàn bà rất ghê gớm, cả hai tay đồng thời sử dụng hai món binh khí khác nhau mà phối hợp rất kín kẽ. Trước đây Lăng Vị Phong chỉ từng gặp một người tay trái sử dụng đao tay phải sử dụng kiếm, đó chính là Khưu Đông Lạc. Nhưng giờ đây người đàn bà này chẳng đơn giản như Khưu Đông Lạc. Thiên Sơn kiếm pháp của Lăng Vị Phong thần diệu vô cùng, nhưng cũng chỉ đánh ngang hàng với bà ta, chàng bất đồ thầm kinh ngạc! Thế là cây bảo kiếm vẫy lên, kiếm hoa tỏa ra nhưng sao xa, trong nhất thời trong cả căn phòng đều thấy kiếm quang loang loáng, khắp nơi đều là bóng dáng của Lăng Vị Phong. Người đàn bà áo xanh khen một tiếng “hay!” rồi tay trái cầm roi tay phải cầm kiếm thấy chiêu phá chiêu, người cũng lướt bốn hướng, Lăng Vị Phong từ ngày xuất đạo chưa từng thấy một người nào có công lực thâm hậu như thế, chàng chợt nghĩ: “Chả lẽ bà ta vẫn còn sống?” thế rồi cây kiếm trong tay đánh gấp, đang lúc kịch đấu chàng chợt chém xéo chưởng trái ra, chưởng phong quét tới, mảnh khăn trùm đầu của người đàn bà bật lên, Mạo Hoàn Liên lại thất kinh, người đàn bà này nét mặt xinh đẹp nhưng tóc bạc trắng xóa, trong khăn cột đầu còn có một mảnh khăn đỏ. Lăng Vị Phong đột nhiên nhảy ra khỏi vòng chiến, ôm kiếm trước ngực vái dài đến tận đất, nói: “Thất kính! Thất kính! Té ra là Phi Hồng Cân nữ hiệp!” người đàn bà áo xanh cười lớn, đột nhiên rút phắt cây đoản kiếm về ném xuống bàn, cười rằng: “Ngươi không hổ là sư đệ của Dương đại hiệp! Thấy ngươi cũng như thế y!” Bà ta nói xong, nét cười chợt tắt, vẻ mặt buồn bã. Hơn hai mươi năm trước Phi Hồng Cân vang danh Thiên Sơn Nam Bắc, là một nữ anh hùng già trẻ lớn bé đều biết ở miển thảo nguyên, cùng tề danh với Dương Vân Thông, được người ta gọi là Tái ngoại kỳ hiệp (xin mời xem bộ “Tái ngoại kỳ hiệp” truyện) hai người có tình cảm rất sâu đậm. Sau đó có bộ tộc ở Hồi Cương bị triều đình nhà Thanh đánh bại, vì theo đuổi Nạp Lan Minh Tuệ, Dương Vân Thông từ miền tái ngoại đến Giang Nam, chết thảm ở bờ sông Tiền Đường. Phi Hồng Cân cũng đột nhiên mất tích ở thảo nguyên, không ai biết bà ta ở đâu. Hai mươi năm qua trên khắp thảo nguyên đều đồn đãi sự tích anh hùng của bà, hai năm sau kể từ khi bà mất tích, Lăng Vị Phong đã đến Hồi Cương, lúc đó chàng đã nghe người ta nhắc đến tên bà. Phi Hồng Cân vỗ hai chưởng, xông về phía Nạp Lan vương phi cười lạnh: “Ngươi giỏi lắm!” Nạp Lan vương phi hai mắt đờ đẫn, thẫn thờ nói: “Dương Vân Thông đã chết mười tám năm, bà còn muốn thế nào? Bà hãy giết tôi, tôi cũng chẳng muốn sống nữa!” Phi Hồng Cân tức giận nói: “Ngươi tưởng ta đến tranh đàn ông với ngươi? Hừ! Ta chỉ muốn giết ngươi!” Lăng Vị Phong cản lại: “Vương phi chẳng có thù oán gì với chúng ta!” Phi Hồng Cân chẳng màng đến Lăng Vị Phong, quát hỏi Vương phi: “Con gái của Dương Vân Thông đâu? Hãy trả cho ta!” Vương phi nhướng mày, cười lạnh nói: “Có liên quan gì đến bà? Tại sao tôi phải trao cho bà!” Phi Hồng Cân tức giận nói: “Ta biết ngươi là mẹ, nhưng người mẹ như ngươi chẳng màng gì đến con gái của mình. Hừ, ngươi tưởng ta không biết? Nó giết chồng của ngươi, ngươi đã bắt nó nhốt vào thiên lao rồi từ từ hành hạ!” Nạp Lan vương phi buông giọng khóc lớn lao đầu vào vách tường. Lăng Vị Phong nhẹ nhàng kéo bà ta ra, nói với Phi Hồng Cân: “Nữ hiệp, sao lại nói như thế? Không phải Vương phi không muốn cứu nàng mà thực sự không có cách nào!” Phi Hồng Cân nói: “Có thật không?” Lăng Vị Phong nói: “Chính tôi đã nuôi ả nha đầu thành người, tại sao tôi còn gạt bà?” Phi Hồng Cân đút thanh đoản kiếm vào bao, thủng thỉnh bước tới rồi nói: “Vậy tôi đã trách nhầm bà, Minh Tuệ!” bà ta đi được mấy bước thì đột nhiên ngừng lại, kêu lên: “Bên ngoài có người!” Lăng Vị Phong phóng vọt người ra ngoài cửa sổ. Té ra Khang Hy bị Mạo Hoàn Liên ép buộc phải thả nàng ra khỏi cung, y vừa kinh vừa giận, sau khi từ biệt Thái hậu thì triệu tập cao thủ đại nội, chọn ra tám thị vệ nhất đẳng, bảo bọn họ đến Ngạc vương phủ giết chết Mạo Hoàn Liên cắt đầu đem về. Tám đại nội thị vệ này đã đến dưới lầu, thấy bốn cái xác của bốn tên vệ sĩ thì cả kinh, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ nghe trên lầu vang lên một tiếng quát, một người che mặt đã lướt xuống như sao xẹt. Người chưa tới đất thì ám khí đã phát ra, hai luồng kim quang bay tới như điện xẹt, hai tên thị vệ đến gần bị Thiên Sơn thần mãng đâm xuyên qua ngực. Bọn thị vệ quát lớn xông lên bao vây. Trên lầu chợt thấy ánh xanh lóe lên, Phi Hồng Cân cũng nhảy vọt xuống, cây đoản kiếm lia ra, cắt đứt cổ tay của một tên thị vệ, quát lớn: “Lăng đại hiệp, ta với ngươi thử thi ai giết nhiều hơn!”. Lăng Vị Phong kêu lên: “Được!” rồi thanh kiếm đánh ra một chiêu Hồi Phong Phất Liễu, gạt hết binh khí đánh tới từ bốn bên, chưởng trái trở lại phất ra, vỗ vào người một tên địch đang lao sát tới, không ngờ có một nguồn lực lớn dồn ngược trở lại, người này không hề bị chàng đánh ngã, Lăng Vị Phong kêu ồ một tiếng, lộn người đâm kiếm tới, người ấy kêu: “Chia ra ba người chặn mụ giặc già kia lại, ta và Trịnh Thiết Bài đối phó tên này”. Lăng Vị Phong đâm tới một kiếm hiểm hóc lạ thường, người này chẳng hề thối lui, cây thiết bút đã đánh ra một chiêu Hoành Giá Kim Lương, trong thủ có cả công, trả lại một chiêu. Người này là cao thủ thuộc hàng số hai trong thị vệ nội đình tên gọi Thành Thiên Đình, ngoại hiệu Thiết Bút Phán Quan, rất giỏi đánh huyệt. Sở Chiêu Nam là đệ nhất cao thủ trong Cấm vệ quân, hai người này đã từng đánh nhau một ngày một đêm, tỉ thí mười loại công phu, cuối cùng bất phân thắng bại. Lúc đầu y tưởng chỉ là một ả nữ tặc nhỏ nhoi, rất dễ dàng bắt sống, lòng cười thầm Hoàng đế đã chuyện bé xé ra to. Nào ngờ chưa gặp bóng dáng của nữ tặc đâu thì có hai thị vệ đã bị Thiên Sơn thần mãng đánh chết! Thành Thiên Đình thấy ám khí của Lăng Vị Phong mới biết rằng gặp phải Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong mà trên giang hồ đồn đãi! Thành Thiên Đình giật mình, liều mạng cản trở, chợt thấy Phi Hồng Cân nhảy vọt xuống, chỉ một chiêu đã cắt đứt cổ tay của một cao thủ đại nội thì càng hoảng hơn. Thế nhưng y là đệ nhất cao thủ trong đại nội, tuy thất kinh nhưng không loạn. Danh tiếng của Lăng Vị Phong khơi dậy lòng tranh thắng của y, y xuất ra toàn những chiêu hiểm hóc, chẳng chịu thối lui. Lăng Vị Phong đánh liên tục ra ba kiếm, vẫn không đẩy lùi được Thành Thiên Đình thì cả giận, chưởng trái giơ lên, vỗ vào cây bút của Thành Thiên Đình, cây bút lệch sang một bên, tiếp theo đánh một chiêu Long Đỉnh Trích Châu, ánh kiếm quang xẹt lên đâm thẳng vào cổ họng của Thành Thiên Đình. Chiêu này hiểm hóc cực kỳ, Thành Thiên Đình lướt chân né tránh, y vung cây bút đánh ngang một chiêu Hoành Tảo Thiên Quân gạt cây kiếm ra. Lăng Vị Phong trở cổ tay lại, ánh kiếm quang xẹt tới đánh ra một chiêu Long Quy Đại Hải, đâm vào ba vị trí trên người Thành Thiên Đình. Hai chiêu này nhanh nhẹn tuyệt luân, là những chiêu số tinh diệu nhất trong Thiên Sơn kiếm pháp, dù Thành Thiên Đình ghê gớm cũng đành phải thối lui liên tục mấy bước. Tên vệ sĩ họ Trịnh sử dụng hai tấm thiết bài, cũng là một trong năm cao thủ thuộc đình, Thành Thiên Đình giữ lại y để liên thủ với mình, vốn là muốn mượn tấm thiết bài của y để khắc chế thanh kiếm của Lăng Vị Phong. Không ngờ thân pháp và bộ Pháp của Lăng Vị Phong quá kỳ ảo, tấm thiết bài không thể khắc chế được nàng, Lăng Vị Phong vẫn đuổi theo sát Thành Thiên Đình. Thành Thiên Đình múa tít đôi bút chặn được hơn mười chiêu thì dần dần rơi vào thế nguy hiểm, y vội vàng kêu lên: “Trịnh Thiết Bài, ngươi qua đây, chính diện!” Y chỉ cần hai người hợp thủ, không cần tấn công. Thành Thiên Đình đứng sánh vai với Trịnh Thiết Bài, triển khai những chiêu số điểm huyệt của cây thiết bút, ác đấu thêm lần nữa với Lăng Vị Phong, lúc này tình thế quả nhiên tốt hơn rất nhiều! Chiêu kiếm của Lăng Vị Phong tuy nhanh nhạy tuyệt luân nhưng Thành Thiên Đình được Trịnh Thiết Bài giúp đỡ, tấm thiết bài của y che ở trước mặt còn Thành Thiên Đình thì điểm bút ra, đúng là trong công có thủ. Thân pháp của Thành Thiên Đình rất nhẹ nhàng, chiêu số lại thành thục, lại thêm Trịnh Thiết Bài có đôi thiết bài múa tít kêu lên vù vù, Lăng Vị Phong đánh hết kiếm này đến kiếm khác mà vẫn không tìm ra được sơ hở, bên tai nghe tiếng quát từ xa, tiếng bước chân rầm rập, chắc là võ sĩ trong vương phủ phát hiện có ác chiến nên kéo đến hộ vệ cho Vương phi, Lăng Vị Phong càng nôn nóng hơn, chàng đâm đến hai kiếm nhanh như điện chớp, đẩy lùi Thành Thiên Đình mấy bước, dồn công lực toàn thân lên chưởng trái, lúc đó hai tấm thiết bài cũng đã đánh tới. Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, vỗ ra một chưởng, hai tấm thiết bài đã bị chấn động bay lên không trung, Lăng Vị Phong lướt người tới, trở tay vung một chưởng đánh vào đầu của Trịnh Thiết Bài. Chỉ nghe Phi Hồng Cân cười lớn: “Lăng Vị Phong, ngươi mới đánh chết được một tên ư?”. Năm xưa Phi Hồng Cân uy chấn miền t&ã khép lại. Nạp Lan vương phi kinh hoảng, mở cửa thiền phòng kêu lớn: “Người đâu!” bọn thân binh thị vệ chạy ùa vào, trong khoảnh khắc tiếng khóc tiếng kêu lẩn vào nhau. Nạp Lan vương phi chậm rãi nói: “Vương gia đã qua đời, hãy thả... nữ tặc ấy đi thôi!” bọn tham tướng vội vàng nói: “Vương phi, người hãy nghỉ ngơi chốc lát!” rồi một ả nha hoàn chạy đến đỡ, Vương phi kêu thảm một tiếng ngã xuống đất. Bọn tùy tướng của Đa Thích tưởng rằng Nạp Lan vương phi thần trí mơ hồ, bởi vậy mới ra lệnh như thế. Mọi người cảm thấy tình trạng của bà ta rất nghiêm trọng, bởi vậy không ai đi thả “nữ tặc”. Một hồi sau, thống binh đại tướng các nơi nghe tin đều kéo đến. Dịch Lan Châu cũng bị nhốt vào thiên lao. Sau khi Đa Thích bị nữ tặc ám sát, khắp triều đều chấn động, nhưng điều kỳ lạ là nửa tháng trôi qua mà nữ tặc vẫn chưa bị thẩm vấn. Theo lý nhà vua sẽ giao vụ án này cho vương công đại thần xét hỏi, nhưng vẫn chưa ai nhận được ngự chỉ của nhà vua. Vài thân vương lớn gan hỏi Hoàng đế, Hoàng đế chỉ nhíu mày, hừ một tiếng rồi nói: “Trẫm biết!” các thân vương đều đưa mắt nhìn nhau ngạc nhiên. Họ không biết rằng Hoàng đế Khang Hy cũng rất hậm hực, Nạp Lan vương phi đích thân gặp Thái hậu, xin Thái hậu nài nỉ với Hoàng thượng, muốn rằng Hoàng thượng thẩm vấn nữ tặc sau khi bà bệnh dậy. Khang Hy nghe Nạp Lan vương phi bảo thế, tưởng rằng bà thương xót cho chồng, xúc động quá độ nên mới thành bệnh, tưởng rằng bà muốn đợi bệnh xong sẽ đích thân thẩm vấn nữ tặc để báo thù. Bởi vậy mới chấp nhận, nào ngờ nửa tháng trôi qua mà Nạp Lan vương phi vẫn chưa vào cung, ngự y đến thăm bệnh cũng chỉ nói là u uất quá thành bệnh, không nguy hiểm đến tính mạng. Hoàng đế Khang Hy cũng bực bội, chỉ có điều Ngạc thân vương công lao cực kỳ to lớn, Vương phi của y lại là cô mẫu của Nạp Lan Dung Nhược, Hoàng đế tuy không vui, trong nhất thời cũng không phát tác. Trong nửa tháng nay Nạp Lan vương phi sống trong nỗi đau khổ, bà ta tự nhốt mình trong phòng, ngoại trừ những ngự y vâng lệnh mà đến, chẳng ai gặp được bà ta. Bà ta đã nghĩ đến cái chết nhưng vẫn còn có một tâm nguyện, bà muốn gặp lại con gái của mình. Nhưng làm sao có thể gặp nàng? Trừ phi bà có thể thả nàng đi, nếu không nếu hôm nay gặp nàng thì hôm sau nàng đã chết. Hoàng đế tưởng rằng bà đích thân thẩm vấn, chứ đợi bà gặp xong nữ tặc thì sẽ giết ngay. Nhưng làm sao bà ta có thể thả con gái của mình? Bà ta không có quyền, trên có Hoàng đế, dưới có các tướng lĩnh, không ai muốn Đa Thích chết oan mạng, bà ta chỉ đành kéo dài được ngày nào thì hay ngày ấy. Không những triều đình đều bàn tán xôn xao mà quần hùng cũng thấy ngạc nhiên. Từ sau khi chạy thoát, Thông Minh hòa thượng nổi giận nói: “Vương phi của Đa Thích đúng là mụ yêu phụ, ả nha đầu giết được Đa Thích, xung quanh chẳng có thị vệ cao thủ, chỉ cần xông ra mười tám bước thì có thể hội họp với ta. Thế mà ngay lúc đó Vương phi bước ra, theo lẽ ả nha đầu trong tay có bảo kiếm, Vương phi chỉ với đôi tay trống, tại sao không đâm một kiếm giải quyết mụ ta cho xong? Sao lại tự nhiên xuôi tay chịu trói?” Thạch Chấn Phi nói: “Oan nghiệt!” Mạo Hoàn Liên đã đoán được mấy phần nhưng không dám nói ra. Quần hào cũng tìm cách cứu nàng, nhưng sự việc quá nghiêm trọng, triều đình lại tra xét rất gắt. Cũng nhờ trong các bổ khoái ở kinh thành có nhiều người quen biết với Thạch Chấn Phi nên mới không có chuyện gì xảy ra. nhưng quần hùng cũng không thể ra mặt cứu người, ai nấy đều lo lắng. Thạch Chấn Phi nói: “Dù tình hình dịu bớt e rằng cũng khó cứu. Tôi nghe nói một nửa số cao thủ đại nội được điều đi canh thiên lao! E rằng cứu không được mà cả chúng ta cũng bị tổn thất!” Trương Thanh Nguyên nói: “Lần này Dịch Lan Châu liều mạng hành thích, tuy bị nhốt trong thiên lao nhưng Đa Thích cũng đã bị trừ khử. Nếu tin này đồn đến Xuyên Trung, Lý tướng quân sẽ rất vui mừng!” Mạo Hoàn Liên chợt hỏi: “Trương đại ca, có báo tin này về Xuyên Trung chưa?” Trương Thanh Nguyên nói: “Cũng nhờ Thạch lão tiêu đầu giúp đỡ, hôm nay ông ta đã sai người phóng khoái mã ra khỏi kinh, truyền tin này ra ngoài”. Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi có một ý, chỉ cần một người võ công cao cường dũng cảm chu đáo làm là được, Trọng Minh võ công tuy cao, nhưng không lanh lẹ. Tốt nhất là Lăng Vị Phong hoặc Phó Thanh Chủ có thể đến đây”. Trương Thanh Nguyên nói: “Từ Tứ Xuyên đến Bắc Kinh ít nhất cũng phải đi hơn một tháng, kịp thế nào được!” Thông Minh hòa thượng nói: “Cô nương cứ nói thử ra sao?” Mạo Hoàn Liên nói: “Không làm được, nói ra cũng vô ích”. Thông Minh hòa thượng thở dài: “Không ngờ chúng ta chẳng làm gì được cho ả tiểu nha đầu ấy”. Trương Hoa Chiêu mặt trắng bệt, chẳng nói một lời nào. Thạch Chấn Phi đưa mắt nhìn Thông Minh hòa thượng, tỏ ý bảo ông ta đừng nói nhiều. Lại nói sau khi Đa Thích bị ám sát, Nạp Lan Dung Nhược cũng đến hỏi thăm cô cô của mình, Vương phi tuy từ chối người khác nhưng vẫn gặp Nạp Lan Dung Nhược, có điều vẻ mặt rầu rĩ, chẳng chịu nói chuyện. Nạp Lan Dung Nhược biết nữ tặc trước kia là người nghe chàng gãy đàn ở chùa Thanh Lương, rất ngạc nhiên nói: “Đến giờ con vẫn còn nhớ ánh mắt của nàng ta lạnh lẽo vô cùng, không biết tại sao nàng lại giết cô trượng, hai người có oán thù gì?” Nạp Lan vương phi im lặng không nói, một lúc lâu sau mới chép miệng: “Nó cũng thật đáng thương!” Nạp Lan Dung Nhược chợt nhớ bề ngoài của nữ tặc trông rất giống cô cô, chàng ta rùng mình, thế là lập tức cáo lui. Một đêm nọ, Nạp Lan Dung Nhược ngồi một mình trong Thiên Phụng lâu, lòng dạ cứ rối bời. Chàng ta là qúy tộc Mãn Châu, thế nhưng có một trái tim thiện lương. Chàng tuy coi thường những kẻ bất tài trong tộc nhưng lại kính trọng Đa Thích. Đa Thích có phong độ của một bậc đại tướng, là một hán tử cứng cỏi trong người Kỳ, khác hẳn với những vương công đại thần khác, chàng cảm thấy hơi thương tiếc cho cái chết của Đa Thích, nhưng chàng cũng thông cảm cho nữ tặc. Chàng nghĩ: “Một thiếu nữ trẻ tuổi mà phải đi liều mạng hành thích một người, chắc chắn lòng nàng chứa đầy tâm sự. Nhưng tại sao cô cô không căm ghét nàng?” chàng suy đi nghĩ lại mà chẳng tìm được nguyên nhân, chỉ lẩm bẩm: “Chả lẽ xuất thân từ hoàng gia là một tội nghiệt!”. Khi Nạp Lan Dung Nhược đang ngồi suy nghĩ vẩn vơ, trầm ngâm lẩm bẩm với mình chợt cửa sổ bật ra, có hai người phóng vào, một người là Trương Hoa Chiêu, người kia là một thiếu nữ trẻ tuổi, vẻ mặt rất quen, chàng đang định hỏi thì thiếu nữ thi lễ nói: “Công tử có còn nhận ra người làm vườn này không?” Nạp Lan Dung Nhược cười ha hả, Trương Hoa Chiêu nói: “Nàng tên gọi Mạo Hoàn Liên, là con gái của Mạo Tị Cương tiên sinh”. Nạp Lan Dung Nhược nói: “Mạo tiên sinh là bậc tiền bối tôi rất kính trọng, chả trách nào Mạo cô nương giỏi từ hay chữ, tinh thông âm luật. Nhưng không biết ngày hôm ấy cả trang đến hàn xá để làm gì?”. Mạo Hoàn Liên mỉm cười, nói: “Sau này tôi sẽ nói chuyện ấy. Hôm nay chúng tôi đến đây có việc cầu khẩn, việc này chỉ có công tử mới có thể giúp được”. Nạp Lan Dung Nhược nói: “Xin cứ nói!” Mạo Hoàn Liên nói: “Chúng tôi muốn gặp Tam công chúa!” Nạp Lan Dung Nhược nói: “Lúc này không phải như trước, từ sau khi tướng phủ náo loạn, Công chúa đã bị cấm ra khỏi cung”. Mạo Hoàn Liên nói: “Vậy công tử hãy dắt chúng tôi vào cung!” Nạp Lan Dung Nhược biến sắc, Mạo Hoàn Liên nói: “Phải chăng yêu cầu của chúng tôi quá đáng?” Nạp Lan Dung Nhược chợt hỏi: “Các người muốn gặp Tam công chúa là vì chuyện gì?” Mạo Hoàn Liên nói: “Chúng tôi muốn cứu một người”. Nạp Lan Dung Nhược nói: “Có phải thiếu nữ đã ám sát Ngạc thân vương đấy không?”. Trương Hoa Chiêu đánh liều nói: “Chắng sai tí nào, chúng tôi phải cứu nàng!” Nạp Lan Dung Nhược giận dữ nói: “Ngạc thân vương là cô trượng của tôi, chả lẽ các người không biết?” Mạo Hoàn Liên nói: “Cô trượng của công tử đã giết rất nhiều người thiện lương, chả lẽ công tử không biết?” Nạp Lan Dung Nhược nói: “Ông là đại tướng của triều đình, vâng lệnh chinh phạt, đại quân đi đến đâu thì nơi ấy hoang tàn, đó chẳng phải là lỗi của ông ta”. Mạo Hoàn Liên cười lạnh nói: “Vậy chả lẽ là lỗi của trăm họ?” Nạp Lan Dung Nhược nói: “Cũng không phải”. Mạo Hoàn Liên nói: “Tại sao y có thể giết người mà người không thể giết y?” Nạp Lan Dung Nhược chép miệng: “Oan oan tương báo, lấy máu trả máu được ích gì?” Mạo Hoàn Liên nói: “Thật ra chúng tôi chẳng hề có thù với người Mãn Châu, nhưng những kẻ như Đa Thích thì chúng tôi không buông tha”. Nạp Lan Dung Nhược lẳng lặng không nói. Mạo Hoàn Liên lại nói: “Nếu các người giết chết nàng thiếu nữ vô tội ấy thì nợ máu sẽ trả thêm bằng máu!” Nạp Lan Dung Nhược vẫn im lặng, Mạo Hoàn Liên cười lớn, nói sang sảng: “Chúng tôi chỉ tưởng công tử là người ngay thẳng biết phân biệt đúng sai, không ngờ chúng tôi đã nhầm. Chúng tôi là đồng đảng của nữ tặc, nếu công tử không giữ, chúng tôi xin cáo từ!” Nạp Lan Dung Nhược phất ống tay áo đứng dậy, tiễn Mạo Hoàn Liên nói: “Ngày mai cô nương hãy theo ta vào cung!” Mạo Hoàn Liên mừng rỡ nói: “Vậy xin cho mượn bút nghiên”. Trương Hoa Chiêu bước tới ngồi xuống múa bút, viết một bức thư rồi trao cho Mạo Hoàn Liên. Sau đó lại vái dài Nạp Lan Dung Nhược rồi phóng mình ra ngoài! Mạo Hoàn Liên hỏi: “Phi Hồng Cân là người thế nào? Xem ra bà ta rất quan tâm đến Dịch Lan Châu” Lăng Vị Phong chép miệng: “Đó là tình nghiệt! Ta cũng không biết. Khi ở Hồi Cương, nghe mục dân trên thảo nguyên nói ta mới đoán được đại khái. Phi Hồng Cân vốn tên gọi Cáp Mã Nhã, hai mươi năm trước lừng danh miền Nam Cương, là con gái duy nhất của Đường Nỗ lão anh hùng thuộc bộ tộc La Bố. Nghe nói khi Sở Chiêu Nam mới xuống Thiên Sơn, đã từng theo Đường Nỗ lão anh hùng, giúp ông ta chống lại quân Thanh, nhưng không lâu sau thì đã phản bội Đường Nỗ đầu hàng quân Thanh”. Mạo Hoàn Liên nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Lăng Vị Phong nói: “Lúc đó đại sư huynh Dương Vân Thông đã nổi danh ở Bắc Cương, ông ta giúp người Cáp Tác Khắc đánh trận, sau đó đã trở thành linh hồn trong quân của Cáp Tác Khắc. Thế rồi người Cáp Tác Khắc thua trận, Dương sư huynh vượt đại sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can đến Nam Cương liên hợp với Phi Hồng Cân, nhất thời thanh thế lớn mạnh”. Mạo Hoàn Liên say xưa lắng nghe, chen vào hỏi: “Hai người có cùng chí hướng kháng Thanh, là rồng phượng trong cõi người, sao không kết thành một đôi?” Lăng Vị Phong thở dài: “Hoàn Liên, không phải cũng có thể giống như muội và Trọng Minh, một chữ tình rất vi diệu, một khi bỏ lỡ cơ duyên thì sẽ để lại tiếc nuối suốt đời. Tại sao họ không thể kết thành đôi, ta không biết. Chỉ nghe nói rằng, trước khi Phi Hồng Cân gặp Dương đại hiệp đã từng yêu một ca thủ trên miền thảo nguyên tên gọi Giáp Bát Lư. Tiếng ca của Giáp Bát Lư rất hay, có thể lay động lòng của bất cứ thiếu nữ nào, nhưng điều không may là một ca thủ như thế mà có một tâm hồn đê tiện, y cấu kết với Mãn Thanh, hại chết Đường Nỗ lão anh hùng. Sau đó Phi Hồng Cân đích thân bắt y về, móc tim gan của y cúng tế cho cha mình, hai mươi năm qua mục dân ở miền thảo nguyên đã có nhiều bài hát về việc này!” Mạo Hoàn Liên thở dài, hỏi: “Vậy có phải Dương đại hiệp chê bà ta đã yêu Giáp Bát Lư không?” Lăng Vị Phong nói: “Ta không biết, có thể sư huynh đã có người khác, tức là trước khi gặp Phi Hồng Cân đã yêu Ngạc vương phi”. Mạo Hoàn Liên lắc đầu thở dài, nàng chợt thấy Lăng Vị Phong ứa nước mắt, giật mình thầm nhủ: “Chả lẽ Lăng Vị Phong cũng có chuyện đau lòng?” nhưng nàng lại không dám hỏi. Lăng Vị Phong lấy Chu quả kim phù, lại hỏi nơi Mạo Hoàn Liên trú chân. Chàng biết được bọn Trương Hoa Chiêu và Quế Trọng Minh cũng ở chỗ Thạch Chấn Phi thì rất vui mừng, nói: “Nếu đêm nay thành công, sẽ lập tức dắt Lan Châu đến tìm các người”. Lăng Vị Phong nhớ Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu cũng nhớ đến Lăng Vị Phong. Trong thiên lao tối om om, chỉ có ngọn đèn trường minh nhỏ bằng hạt đậu ở góc tường phát ra ánh sáng yếu ớt. Ở cái nơi chẳng có ánh mặt trời chiếu vào, cũng chẳng thấy trăng sao, Dịch Lan Châu cũng không biết mình đã bị nhốt bao nhiêu ngày. Nàng cảm thấy tĩnh lặng lạ thường, “mình là con gái của cha!” nàng không hề cảm thấy tự ti khi không có cha, tấm huyết thư của cha đã trở thành một gánh nặng trong lòng nàng, giờ đây gánh nặng ấy đã hoàn toàn biến mất. Nàng muốn nhảy múa, nàng muốn ca hát, nàng muốn nói với tử thần rằng: “Hãy đến đi, ta không sợ ngươi!”. Nàng thật sự chẳng sợ chết sao? Có thể là vậy, nhưng trong đêm tối dài đăng đẳng, có lúc nàng thấy run sợ, nàng không sợ chết, nàng chỉ tiếc cho cuộc sống tươi trẻ của nàng, dẫu sao nàng cũng chỉ là một thiếu nữ hai mươi tuổi! Nàng đã sắp vĩnh biệt người thân! Nàng không có người thân, nhưng nàng lại nhớ “người thân” của mình. Vương phi là mẹ của nàng, trong những năm tháng dài dằng dặc, tình cảm của nàng đối với bà ta là yêu và hận, trong lòng nàng thiếu nữ vừa yếu mềm vừa kiên cường này, nàng không coi mẹ của nàng là người thân, thế nhưng lúc này, khi sinh mạng của nàng sắp kết thúc, nàng đã nhớ đến mẹ! Nàng có một ham muốn, nàng sẽ khóc cho thỏa lòng trước mặt mẹ mình. Nàng sẽ nói với bà ta nàng yêu bà như thế nào và cũng hận và như thế nào! Người thân thứ hai mà nàng nhớ đến chính là Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong không phải là người thân của nàng, nhưng chàng thân với nàng hơn bất cứ ai, nàng nhớ khi nàng mới biết nói, Lăng Vị Phong đã đưa nàng từ Giang Nam đến Mạc Bắc, rồi lại lên Thiên Sơn. “Không biết mình đã đem đến cho người bao nhiêu phiền phức!” tình cảm ấy còn hơn cả tình cảm cha con, “có người cha nào chịu cực khổ với con mình như thế?” nàng nghĩ. Nàng hận không thể gặp lại Lăng Vị Phong, ôm chân chàng kêu lên một tiếng “cha!” nhưng Lăng đại hiệp vẫn còn trẻ tuổi, chỉ lớn hơn mình hơn mười tuổi, nếu gọi người là cha, người có vui không? Dịch Lan Châu nghĩ ngợi, nàng chợt bật cười trong bóng tối! Người thứ ba mà nàng nhớ đến chính là Trương Hoa Chiêu, nàng quen chàng không đầy hai năm, nhưng nàng đã có tình cảm sâu sắc với chàng. Tình cảm này khắc hẳn tình cảm đối với Lăng Vị Phong. Trước đây, nàng hoàn toàn không hiểu thứ tình cảm giữa nam và nữ, nhưng giờ đây nàng đã xem chàng là người thân. Nàng nhớ lại khi cứu chàng ra khỏi chùa Thanh Lương, chàng nhìn nàng với ánh mắt cảm kích và quan tâm, nàng nhớ lại trong nhà Thạch lão tiêu đầu, hai người chia tay, “sau khi mình chết đi, chàng có cắm hoa lan lên trước mồ của mình hay không?” “Ồ, mình mơ tưởng quá viễn vông, mình mà chết đi thì cả phần mộ cũng chẳng có!”. Dịch Lan Châu rơi nước mắt trong đêm tối, đột nhiên nàng tự trách mình: “Con gái của Dương đại hiệp không rơi nước mắt!” Nàng nhớ đến ba người thân của nàng, nhưng cộng tất cả những nỗi nhớ ấy thì chẳng bằng tình yêu của nàng đối với cha mình. “Mình chết vì hoàn thành tâm nguyện cho cha!” thế là nàng chẳng tiếc nuối vì mình đã sắp chết, nàng mở rộng đôi tay đón thần chết bay tới. Nàng chợt kêu: “Đến đây, ta không sợ ngươi!”. Ngay lúc này, cửa nhà lao bật ra, một bóng đen đi về phía nàng! Dịch Lan Châu nhói lòng, nàng nhắm mắt, lẩm bẩm: “Cha! Cha hãy đợi con, con gái sắp đến gặp cha đây!” từ sau khi nàng bị nhốt vào trong nhà lao, chưa bao giờ có ai đến, dù hai bữa cơm cũng do ngục tốt từ bên ngoài đút vào, bóng đen ấy chẳng phải tử thần thì cũng là đao phủ! Nàng mơ hồ, chợt thấy trong lòng trống rỗng, chẳng có một cảm giác gì cả! Trong lúc mê man, một bàn tay nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, khẽ nói: “Lan Châu, là ta!” Dịch Lan Châu kêu lên: “Có phải là cha đấy không?” người ấy thở dài, nói: “Lan Châu, hãy tỉnh lại!” người ấy hình như dùng tay phất lên người nàng, đột nhiên Dịch Lan Châu thấy nhẹ hẫng, cùm sắt trên cổ và dây xích dưới chân đều đã bị người ấy bẻ gãy. Dịch Lan Châu đứng bật dậy, nắm tay người ấy nói: “Có phải là cha đấy không?” một giọt nước mắt rơi trên mặt nàng, một giọng nói quen thuộc vang lên bên tai: “Lan Châu, hãy tỉnh lại!” Dịch Lan Châu trào nước mắt, nàng lao tới ôm chân người ấy, kêu lên: “Lăng đại hiệp, có phải là mơ đấy không?”. Người xông vào thiên lao chính là Lăng Vị Phong. Sau khi chàng lấy Chu quả kim phù, lại mặc đồ của đại nội thị vệ, đêm đến thì che mặt vào cung, kẻ giữ thiên lao là một bối lạc trong hoàng tộc, vừa thấy người ấy lấy ra một tấm kim phù, thất kinh vội vàng hỏi: “Ngươi có phải là thị vệ trong cung không?” Lăng Vị Phong gật đầu hừ một tiếng, bối lạc ấy hỏi: “Hoàng thượng căn dặn gì?” Lăng Vị Phong nói: “Hoàng thượng bảo tôi lập tức dắt ả nữ tặc vào cung, không cho người khác biết! Ngài hãy mau chóng đuổi bọn thị vệ đi nơi khác!” bối lạc ấy lại thất kinh! Ban ngày Hoàng đế đã truyền ngự chỉ, bảo rằng canh giữ cẩn thận ả nữ tặc này, đề phòng có kẻ cướp ngục, tại sao lại đột nhiên đòi dắt vào cung? Nhưng Chu quả kim phù rất quan trọng, ngoại trừ người đó là khâm sứ của Hoàng đế mới có được. Bối lạc đã nghi ngờ, chợt y nảy ra một ý, hỏi: “Ngươi có phải là ngự tiền đới đao thị vệ không? Ngươi làm việc cho tổng quản nảo?” té ra ngoại trừ được cho phép đặc biệt, chỉ có nhất đẳng thị vệ mới có thể mang theo binh khí trước mặt Hoàng đế. Mà thị vệ trong cung do hải tổng quản quản lý, tổng quản của nhất đẳng thị vệ tên gọi Cách Khâm Nổ, đó là một người Hán, tổng quản của thị vệ khác là một thái giám người Hán họ Hứa, Lăng Vị Phong vừa nghe thì biết y khảo vấn mình, lòng thầm kêu: “Hỏng bét!” bối lạc ấy nhìn chàng chằm chằm, Lăng Vị Phong cũng rất lanh lẹ, chàng đột nhiên cười lạnh, vung tay vỗ xuống bàn, lập tức đánh gãy một góc bàn, lạnh lùng nói: “Ngươi mà xứng hỏi ta?” bối ấy toát mồ hôi lạnh, thấy chàng có được công phu như thế thì tin rằng đó là một nhất đẳng thị vệ nên nào dám hỏi nữa. Một lúc sau, bọn thị vệ canh gác Dịch Lan Châu đã được điều đi nơi khác, Lăng Vị Phong lấy được chìa khóa, mở cửa nhà lao, tháo gông cùm cho Dịch Lan Châu. Dịch Lan Châu trào nước mắt, chậm rãi đứng dậy hỏi: “Lăng đại hiệp, có phải là nằm mơ đấy không?” Lăng Vị Phong nói: “Đừng lo, hãy theo ta ra ngoài, họ rất nhớ đến muội!” Dịch Lan Châu chợt nói: “Tôi không đi!” Lăng Vị Phong ngạc nhiên nói: “Tại sao?” Dịch Lan Châu nói: “Tôi chẳng còn sức lực gì nữa, nếu ra ngoài bọn sĩ tốt chắc chắn sẽ chặn lại, muội không thể liên lụy đến người, lúc đó chúng ta sẽ bị bọn chúng bắt nhốt vào thiên lao”. Lăng Vị Phong lấy ra Chu quả kim phù, khẽ nói: “Lan Châu, huynh có kim phù của Hoàng đế, bọn sĩ tốt chẳng ịt, nước mắt lăn ra rơi xuống tờ giấy. Tuy Mạo Hoàn Liên không biết trong thư viết gì nhưng thấy thế thì đoán được vài phần, nàng vuốt mái tóc của Công chúa, khẽ gọi: “Công chúa!”. Công chúa cầm bức thư ngồi buồn bã một lúc rất lâu, đột nhiên cắn răng nói: “Tôi không thể giúp được chuyện này!” Mạo Hoàn Liên đảo mắt nhìn Công chúa, hỏi: “Vậy ư?” lúc này Công chúa lòng rối bời, trong đầu nàng hiện ra một bức tranh, sau khi nàng cứu ả nữ tặc, Trương Hoa Chiêu dắt tay ả nữ tặc ấy cười hớn hở bước đi, chẳng thèm quay đầu lại nhìn mình, nàng không khỏi tức giận nói: “Ta không thể cứu!”. Mạo Hoàn Liên chợt thở dài: “Tôi thấy đáng tiếc cho Công chúa!” Công chúa ngẩng đầu lên hỏi: “Có gì đáng tiếc?” Mạo Hoàn Liên nói: “Công chúa vốn là có ơn với Chiêu lang, nếu lại giúp y hoàn thành tâm nguyện, nếu lại giúp y hoàn thành tâm nguyện, y sẽ cảm kích Công chúa suốt đời. Công chúa mặc kệ chuyện này, vậy thì mối giao tình với Chiêu lang ngày trước sẽ trôi theo dòng nước. Chẳng phải đáng tiếc hay sao?” Công chúa im lặng không nói, một hồi sau thì chợt hỏi: “Cô nương có ý trung nhân không?” Mạo Hoàn Liên nói: “Có!” Công chúa nói: “Nếu y yêu một người khác, cô nương sẽ làm thế nào?” Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi cũng sẽ yêu sẽ giúp y!” Công chúa cười lạnh nói: “Thật không?” Mạo Hoàn Liên ho một tiếng nói: “Tại sao không thật? Tôi yêu ai đương nhiên phải suy xét cho người đó, tôi chỉ cần nghĩ đến y có thể hạnh phúc, tôi cũng cảm thấy hạnh phúc. Tôi đã từng mạo hiểm tính mạng, dốc hết công sức cứu người tôi thương yêu ra khỏi nguy hiểm. Y có thể giết tôi bất cứ lúc nào nhưng tôi cũng không sợ!” Công chúa chợt hỏi: “Thật như thế ư?” Đêm ấy Mạo Hoàn Liên đã kể lại câu chuyện Quế Trọng Minh cho nàng nghe, Công chúa im lặng thở dài. Sáng sớm hôm sau thì Công chúa chợt bảo: “Cô nương ở đây chờ tôi, tôi sẽ quay trở về ngay!” Mạo Hoàn Liên chợt cảm thấy ánh mắt của nàng kiên định trong trẻo, tựa như đã lập một lời thề, quyết tâm làm một chuyện gì đó. Sau khi Tam công chúa ra đi, Mạo Hoàn Liên ngồi rảnh rỗi vén rèm lén nhìn cảnh sắc trong ngự hoa viên. Nàng đang ngẩn người ra thì chợt nghe tiếng lọc cọc, té ra có người bước lên lầu. Mạo Hoàn Liên nghiêng tai lắng nghe, chỉ thấy một giọng nói the thé vang lên: “Công chúa ra ngoài sớm như thế sao?” một giọng nữ khác đáp: “Đúng thế, chúng tôi cũng không biết Công chúa đi đâu. Có lẽ là đi gặp Thái hậu hoặc tìm nhị Công chúa”. Giọng nói lúc đầu vang lên: “Thái hậu thật thương yêu Công chúa của các ngươi”. Người ấy nói xong thì dừng trước cửa. Bên dưới hình như vẫn còn nhiều người bước lên nên tiếng bước chân nghe rất rõ ràng, có lẽ là họ đang khiêng đồ gì đó. Mạo Hoàn Liên ghé mắt nhìn qua khe cửa, chỉ thấy hai người, đó là một thái giám và một cung nga. Ả cung nga này chắc là người hầu hạ của Công chúa, còn thái giám là người của Thái hậu. Ả cung nga rút ra chìa khóa định mở cửa, Mạo Hoàn Liên giật mình, tên thái giám này trông rất quen mặt. Nàng nghĩ kỹ lại thì té ra y chính là tên đã bị Phó Thanh Chủ bắt sống ở chùa Thanh Lương. Mạo Hoàn Liên vội vàng nấp sau trướng, cánh cửa phòng từ từ mở ra, Mạo Hoàn Liên hai ngón tay kẹp vào viên thần sa nhẹ nhàng búng ra ngoài, tên thái giám kêu lên một tiếng nói: “Sao các ngươi lười biếng đến thế, bụi bám đầy mà không quét!” y bị mấy hạt thần sa bắn nhẹ vào mắt nên tưởng là bụi, vội vàng đưa tay lên dụi, ả cung nga chợt kêu lên một tiếng: “Sao lại có bụi?” đột nhiên cũng kêu lớn một tiếng, vội vàng lấy khăn ra lau, lẩm bẩm nói: “Thật kỳ lạ, ngày nào cũng quét dọn cả kia mà!” Mạo Hoàn Liên nắm thời cơ, vạch rèm cửa sổ nhảy vọt xuống. Tên thái giám và ả cung nga đều không biết, Mạo Hoàn Liên vừa hạ xuống đất thì chợt nghe ồ một tiếng, trong vườn hoa chợt xuất hiện hai thái giám, bước chân của bọn chúng rất lanh lẹ, võ công cũng không kém. Mạo Hoàn Liên thấy hành tung đã bại lộ, nàng vung một nắm thần sa lên, cả hai người ấy không kịp đề phòng, mỗi người trúng mấy mươi hạt thần sa. Cả hai đều kêu lên oai oái, quát rằng: “Có phi tặc, người đâu!” Mạo Hoàn Liên vòng qua hòn non bộ băng vào con đường nhỏ, vội vàng bỏ chạy. Ngự hoa viên còn lớn hơn trong vườn hoa tướng phủ! Cung nga không dám ra ngoài, thái giám thì ai ở trong điện nấy, khi chạy ra đến nơi thì chẳng thấy bóng dáng của Mạo Hoàn Liên đâu nữa. nhưng Mạo Hoàn Liên đã hoảng hốt, nàng nhảy vọt qua hòn giả sơn, chợt thấy trước mặt có một dãy nhà, trên những tấm biển đề bốn chữ “Lan phong tinh xá”. Dãy nhà này thật kỳ lạ, vách tường đã loang lỗ, cửa son đóng chặt, mạng nhện giăng đầy trên cột kèo. Trong ngự hoa viên đâu đâu cũng là cung điện rực rỡ, nhưng ở nơi này tuy gọi là “tinh xá” nhưng cứ trông giống như miếu hoang. Mạo Hoàn Liên lấy làm lạ, thầm nhủ: “Có lẽ không có người ở”. Nàng lướt người nhảy qua vách tường vào trong nội viện. Chợt một làn u hương xông ra, nàng càng đi vào làn u hương càng nồng. Nàng cứ men theo làn hương bước vào một căn phòng ngủ. Tuy trong phòng bụi bám đầy, nhưng mọi vật được sắp xếp rất trang nhã, bên cạnh giá sách là một cái giường, trước giường có một đôi giày nữ. Bên cửa sổ là một giá sách, trên bàn có vài quyển sách. Trên vách tường phía bên phải có treo một bức họa, Mạo Hoàn Liên lấy cây phất trần phủi bụi bám trên bức họa, chỉ thấy một thiếu nữ mỉm cười nhìn mình. Mạo Hoàn Liên giật mình, nàng nhìn sang tấm kính rồi nhìn lại bức họa, người trong bức họa này trông rất giống mình. Mạo Hoàn Liên bước tới nhìn, góc bên trái của bức họa có đề dòng chữ nhỏ: “Năm năm sau Giáp Thân, vẽ tranh cho ái cơ, Sào Dân”, Mạo Hoàn Liên trào nước mắt, khẽ gọi mộ tiếng “mẹ!” nàng co ngón tay lại đếm, Giáp Thân là năm cuối cùng của thời vua Sùng Trinh, Sào Dân là tên của cha nàng. Cha nàng lấy cái tên này là vì tỏ ý không muốn quân nhà Minh, năm thứ năm sau năm Giáp Thân, mẹ nàng bước vào nhà họ Mạo, lúc đó nàng vẫn chưa ra đời. Mẹ nàng dám đem bức tranh này vào cung, có thể thấy bà đã yêu cha nàng đến mức nào! Mạo Hoàn Liên toan lấy bức tranh, chợt nghe tiếng đẩy cửa, tiếng bước chân. Nàng cả kinh, vội vàng lẩn ra sau tủ, trong chốc lát có hai người đàn ông bước vào. Mạo Hoàn Liên từ bên trong nhìn ra rất rõ ràng, một trong hai người đó là Hoàng đế Khang Hy, người còn lại chân mày xếch lên, xương trán nhô cao, hốc mắt lõm sâu vào, lộ ra đôi mắt vàng ệt, vừa trông đã biết là cao thủ nội gia, chắc y là thị vệ bên cạnh Khang Hy. Mạo Hoàn Liên hít một hơi, định thần rồi rút ra thanh kiếm mà Nạp Lan Dung Nhược đã tặng. Tên thị vệ ấy phủi bụi trên ghế cho Khang Hy, Khang Hy ngồi xuống chiếc ghế trước bàn hóa trang, nhìn thấy bức tranh, chợt cười lạnh mấy tiếng, rồi y nhìn kỹ lại, nói: “Căn phòng này đã đóng kín cửa gần hai mươi năm, sao bức tranh này sạch sẽ chẳng có tí bụi nào?” tên thị vệ ấy đưa mắt nhìn toàn căn phòng, Mạo Hoàn Liên co rúm người lại, không dám thở mạnh. Chỉ nghe tên thị vệ ấy nói: “Hoàng thương, có lẽ căn phòng này có người đến”. Khang Hy cười nói: “Ai mà dám lớn gan như thế, từ sau khi mụ tiện tì ấy bị Thái hậu giết, tiên đế đã lập tức ra lệnh đóng căn phòng này lại không cho ai vào. Hai mươi năm qua vẫn giữ nghiêm lệnh cấm. Lần này ta đến đây cũng phải xin Thái hậu phê chuẩn!” rồi y hừ một tiếng, nói tiếp: “Tiên đế cũng thật là, sủng ái mụ ta như thế. Nghe Thái hậu nói, trong thời gian đóng cửa tất cả những vật ở đây đều giữ nguyên”. Mạo Hoàn Liên nghe thế thì càng đau lòng hơn. Tên thị vệ ấy đứng xuôi tay bên cạnh Khang Hy, cúi người hỏi: “Hoàng thượng có muốn lấy vật gì không?” Khang Hy nói: “Ta không thiếu bảo vật, lần này ta đến đây để xem phụ hoàng có để lại thứ gì hay không, ta cũng muốn xem thử còn sách vở gì qúy giá hay không”. Té ra Khang Hy tuy tàn nhẫn khắc bạc nhưng lại rất thích sách. Sau khi y giết cha thì có tâm bệnh, vốn là không dám đến phòng của Đổng ngạc phi, sau đó nghe các cung nga già bảo rằng trong phòng của Đổng ngạc phi chứa rất nhiều sách, giá sách lại làm bằng gỗ trầm hương lâu năm, mấy ngày hôm nay vì Đa Thích chết, trong bụng buồn bực, muốn tìm sách đọc cho giải sầu, thế là vào đây. Ngoài ra y sợ tiên đế có để lại di chiếu ở đây (việc nối ngôi của Hoàng đế nhà Thanh không theo thứ tự lớn nhỏ mà do Hoàng đế để lại di chiếu, chỉ định cho một người làm vua tiếp theo. Bình thường thì đặt trên cây kèo chính của điện chính đại quang minh, nhưng những Hoàng đế già cả hoặc bệnh không dậy nổi thì mới làm thế. Thuận Trị đột nhiên xuất gia, Thái hậu đã chỉ định Khang Hy nối ngôi bởi vậy y sợ rằng Thuận Trị đã viết một di chiếu, chưa đặt trong điện chính đại quang minh mà để ở một nơi nào đó, nhưng thực ra là không có). Bởi vậy y cũng muốn lục soát một lúc, tuy y đã ngồi vững, dù có di chiếu truyền ngôi cho người khác y cũng không sợ, nhưng y vẫn lo sẽ có điều bất lợi cho mình. Khang Hy mở ngăn kéo, lục lọi một hồi thì đứng dậy, cười rằng: “Ta phải xem cái giá sách này có gì hay?” Mạo Hoàn Liên nắm chặt thanh bảo kiếm, mồ hôi tuôn ra ròng ròng, thầm nhủ: “Nếu y bước
Hồi 4
Hồi 5
Hồi 6
Hồi 7
Hồi 8
Hồi 9
Hồi 10
Hồi 11
Hồi 12
Hồi 13
Hồi 14
Hồi 15
Hồi 16
Hồi 17
Hồi 18
Hồi 19
Hồi 20
Hồi 21
Hồi 22
Chính là: Nhìn vật nhớ vong mẫu, thâm cung giấu sát cơ. Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.