ằng kia, đâu đó bên hướng phải, có hòn đảo lớn, Whitney nói. Đảo khá bí ẩn...- Đảo gì vậy? Rainsford hỏi.- Trên bản đồ cũ, đảo mang tên: Bẫy Tàu, - Whitney trả lời. Một cái tên đầy ý nghĩa, đúng không? Thủy thủ sợ đảo này một cách lạ lùng. Tôi không biết lý do. Chắc là mê tín dị đoan gì đó...- Tôi không thấy đảo, Rainsford nhận xét và cố nhìn qua màn đêm nhiệt đới.Không khí ẩm bao trùm cái bóng dày ấm lên tàu khiến màn đêm như chạm vào được.- Mắt anh tinh lắm mà, Whitney cười nói. Tôi từng chứng kiến anh thấy được một con nai sừng tấm đang di chuyển sau bụi rậm cách đớ hơn ba trăm mét. Nhưng tầm nhìn ta không thể vượt được sáu cây số vào một đêm không trăng ở biển Caraibes.- Sáu mét còn không nổi nữa, - Rainsford thừa nhận. Gớm! Y như nhung lụa bị ướt.- Ở Rio sẽ sáng hơn, Whitney hứa. Vài ngày nữa là ta đến. Hy vọng súng săn beo đã đến nhà Purdey rồi. Chắc là ta sẽ có vài cuộc săn thú vị khi đi ngược dòng sông Amazone. Săn bắn là môn thể thao tuyệt vời.- Đó là môn thể thao tuyệt nhất thế giới, Rainsford đồng tình.- Đối với người săn thôi, Whitney chỉnh. Chứ không hay đối với con beo.- Whitney, anh đừng như thế, Rainsford nói. Anh săn thú to, chứ đâu phải làm triết lý. Ai thèm quan tâm đến cảm xúc con beo làm gì?- Có thể chính nó, Whitney nhận xét.- Ôi! Nó đâu đủ thông minh.- Tôi nghĩ beo hiểu được ít nhất một điều: nỗi sợ hãi. Sợ đau và sợ chết.- Vớ vẩn! Rainsford cười nói. Trời nóng làm lòng anh yếu mềm đi, Whitney à. Anh hãy thực tế lên đi chứ. Thế giới này chia làm hai loại: kẻ săn và kẻ bị săn. May mắn thay, anh và tôi thuộc nhóm kẻ săn. Anh nghĩ ta đã vượt qua đảo chưa?- Tôi cũng không biết nữa, trời tối quá. Hy vọng là qua rồi.- Tại sao? Rainsford hỏi.- Nơi đó có tiếng... có tiếng xấu.- Thổ dân ăn thịt người hả? Rainsford gợi ý.- Không hẳn vậy. Cả dân ăn thịt người cũng không chịu ở một nơi đã bị các thần linh lãng quên như thế này. Nhưng không hiểu tại sao, đám thủy thủ lại biết đảo này. Anh có để ý thấy hôm nay họ hết sức căng thẳng không?- Có, bây giờ nghe anh nói, thì đúng là tôi thấy đám thủy thủ hơi lạ. Chính thuyền trưởng Nielsen...- Đúng, ông già Thụy Điển chai dạn kia, dám đi xin quỷ châm lửa giùm điếu thuốc, mà cũng sợ. Cặp mắt xanh lạnh lẽo của ông có một ánh nhìn mà tôi chưa bao giờ thấy trước kia. Tôi chỉ moi được ông mỗi câu: “Thưa ông, chỗ này có tiếng xấu trong giới đi biển.” Rồi ông còn nghiêm trang nói với tôi: “Ông không cảm thấy gì sao? Như thể không khí xung quanh ta thật sự hôi thối.” Vậy mà anh đừng cười tôi nếu tôi thú thật với anh điều này: đột nhiên tôi cảm nhận một cái gì đó khiến tôi lạnh người. Trời đứng gió. Biển phẳng lặng như tấm gương. Khi đó ta đang đến gần đảo. Khi đó, điều mà tôi cảm nhận, cái lạnh giá ấy, trong đầu tôi là một nỗi kinh hoàng đột ngột.- Trí tưởng tượng thuần túy! Rainsford nói. Nỗi sợ hãi của một thủy thủ cũng đủ lây cho mọi người trên tàu.- Có thể. Nhưng đôi khi, tôi tin rằng dân thủy thủ có một giác quan đặc biệt báo động cho họ về mối nguy hiểm. Có lúc tôi nghĩ rằng sự nguy hiểm là một cái gì đó hữu hình, có tần số, giống như ánh sáng và âm thanh vậy đó. Có thể nó là một nơi bị nguyền rủa có khả năng toả những rung động tinh quái. Nói gì thì nói, tôi lấy làm mừng rằng ta đang xa dần khỏi khu vực xấu xa này. Chắc là tôi về phòng thôi, Rainsford à.- Tôi không buồn ngủ, Rainsford nói. Tôi sẽ ra boong sau hút thêm một ống điều nữa.- Vậy thì chào nhé. Sáng mai gặp lại tại bàn ăn sáng.- Chào. Chúc anh ngủ ngon, Whitney à.Trong khi Rainsford ngồi đó, không có một tiếng động nào làm xáo động đêm khuya, ngoại trừ tiếng động khẽ của máy tàu và tiếng vỗ bập bềnh nhẹ của sóng biển.Rainsford nằm trên chiếc ghế dài kéo vài ngụm thuốc từ ống điếu bằng rễ thạch thảo. Sự đờ đẫn thú vị của đêm khuya đè nặng lên Rainsford.“Trời tối đen đến nỗi tôi có thể ngủ mà không nhắm mắt, Rainsford nghĩ. Màn đêm sẽ là mí mắt của tôi.”Tiếng động đột ngột khiến Rainsford giật mình. Anh nghe thấy thứ tiếng đó ở xa đằng kia, phía bên tay phải. Đôi tai sành sỏi của anh không thể lầm được. Anh nghe lại cũng âm thanh đó, thêm một lần, rồi một lần nữa. Ở một nơi nào đó đằng xa, trong bóng tối, có người đã bắn ba phát súng.Rainsford tò mò đứng phắt dậy, chạy ra bờ thành tàu. Anh ra sức nhìn về hướng nghe mấy phát súng, nhưng cứ như cố nhìn xuyên qua một tấm chăn. Anh nhảy lên bờ thành tàu, đứng cân bằng trên đó để có thêm độ cao. Ống điếu của anh va vào sợi dây, văng ra khỏi miệng anh. Anh nhào ra phía trước để toan chụp ống điếu lại. Anh kêu lên một tiếng ngắn và khàn khi nhận ra mình đã ra quá nhiều và bị mất thăng bằng. Tiếng kêu bị ngắt hẳn bởi làn nước biển Caraibes, ấm nóng như máu, khép lại trên đầu anh.Rainsford vùng vẫy để trở lên mặt nước và cố la thật to, nhưng những ngọn sóng tạo ra do chiếc tàu chạy nhanh quật vào mặt anh, rồi khi anh há miệng ra, nước mặn trào vào làm anh ngộp. Rainsford ra sức bơi về hướng đèn tàu đang chạy xa dần, nhưng dừng lại khi đã đi được khoảng năm mươi mét. Anh đã lấy lại được bình tĩnh: đây không phải là lần đầu tiên anh rơi vào một tình huống khó khăn. Có cơ may trên tàu nghe tiếng la của anh, nhưng cơ may này rất nhỏ và đang giảm dần khi tàu chạy tiếp con đường của nó. Rainsford cực nhọc cởi hết quần áo và hét thật to. Ánh đèn tàu chỉ còn là những vệt mờ nhạt. Rồi màn đêm xoá hẳn đèn tàu.Rainsford nhớ lại tiếng súng, xuất phát từ phía bên phải. Thế là anh cương quyết bơi về hướng đó, bơi những sải dài và đều đặn để giữ gìn sức lực. Suốt một thời gian như bất tận, Rainsford chống chọi lại với biển cả. Anh bắt đầu tuyệt vọng đếm từng sải bơi; có thể anh sẽ bơi thêm được mười sải nữa, rồi...Rainsford nghe một tiếng động như chui ra từ bóng đêm; một tiếng hét cao thé, tiếng thét của một con thú đang khiếp sợ ở mức tột đỉnh.Rainsford không nhận dạng được con thú thốt ra âm thanh đó; anh không cố gắng nhận ra. Như có thêm nguồn sinh lực, anh bơi về hướng tiếng la đó. Một lần nữa, tiếng hét vang lên, rồi bị cắt ngang bởi một tiếng khác, đứt đoạn và sẵng.- Khẩu súng lục, Rainsford nói khẽ rồi bơi tiếp.Sau mười phút nỗ lực bơi, tai Rainsford lại nghe được một tiếng động khác, dễ chịu vô cùng: tiếng rì rào khẽ và tiếng sóng gầm gừ vỗ vào đá trên bờ. Rainsford rơi vào đá hầu như trước khi kịp nhìn thấy chúng; nếu đêm tối hơn, thì anh đã bị dập nát rồi. Rainsford dùng hết sức lực còn lại để thoát khỏi dòng nước. Những tảng đá gồ ghề nhọn như hiện lên trong bóng đêm mờ ảo; Rainsford mệt nhọc leo lên trên đỉnh. Anh đứt hơi lên đến một chỗ bằng phẳng, hai bàn tay rát đau. Rừng rậm dày đặc trải dài theo bờ vách đá. Những bụi cây chằng chịt kia chứa đựng nguy hiểm gì dây? Hiện Rainsford không thèm để ý đến. Anh chỉ biết mình đã thoát được kẻ thù biển cả và đang kiệt sức. Rainsford thả mình nằm bên rìa rừng rậm rồi chìm vào một giấc ngủ say nhất chưa từng biết.Khi mở mắt ra, xét theo vị trí mặt trời, Rainsford nhận thấy đang là đầu giờ chiều. Giấc ngủ đã giúp anh được hồi sức; anh đang cảm thấy đói bụng dữ dội. Anh nhìn xung quanh, với một niềm vui sướng nào đó.- Ở chỗ có tiếng súng lục, thì có người. Ở chỗ có người, thì có thức ăn, Rainsford nghĩ bụng. Nhưng loại người như thế nào, Rainsford tự hỏi, ở một nơi rùng rợn như thế này?Dãy rừng chằng chịt liên tục viền dọc theo bờ biển.Rainsford không thấy đâu đường mòn nào trong mớ cây và cỏ đó. Đi dọc theo bờ biển dễ hơn; Rainsford lội bì bõm trong nước. Anh dừng lại không xa chỗ anh đã lên bờ.Một sinh thể bị thương, có lẽ là một con thú to xét theo dấu vết, đã xông vào bụi cây. Cây cỏ bị đè nát và lớp rêu bị rách. Tại một điểm, có một vệt đỏ sậm trên cỏ. Một vật sáng sáng thu hút sự chú ý của Rainsford. Đó là một vỏ đạn trống không.- Đạn hai mươi hai ly, Rainsford nhận xét. Lạ thật. Bởi vì chắc con thú to lắm. Chắc người săn phải gan dạ lắm mới dám tấn công nó bằng súng cỡ nhỏ như thế. Rõ ràng con thú đã tự vệ. Có lẽ ba phát súng mà mình nghe đã được bắn trong khi người săn đuổi theo con thú cho đến đây rồi kết liễu nó.Rainsford xem xét thật kỹ nền đất và phát hiện cái mình muốn tìm: dấu vết ủng săn. Dấu chân quay về hướng vách đá và đi theo hướng mà Rainsford đã đi. Rainsford nóng lòng háo hức bước đi nhanh, đôi khi bị trượt trên một cành cây mục hay một cục đá rung rinh, nhưng anh vẫn tiến tới. Màn đêm bắt đầu rơi xuống đảo.Bóng tối buồn tẻ bao trùm lên biển và rừng khi Rainsford nhìn thấy ánh đèn. Rainsford tìm ra ánh sáng ở một khúc quẹo bờ biển. Thoạt đầu anh nghĩ mình đang đứng trước một ngôi làng, bởi vì có rất nhiều ánh sáng. Nhưng khi tiến tới, Rainsford sửng sốt thấy rằng tất cả mọi điểm sáng đó xuất phát từ một tòa nhà to tướng và cao lớn, có những tháp nhà đâm sâu lên cao vào bóng đêm. Mắt Rainsford nhìn ra đường nét mơ hồ của một tòa lâu đài vĩ đại sừng sững trên một vách đá cao. Ba mặt lâu đài đều có đá đâm sâu đến tận chỗ sóng biển vỗ vào.- Ảo ảnh, Rainsford tự nhủ.Nhưng khi mở cổng có song sắt to lớn, anh nhận ra đó không phải ảo ảnh. Các bậc thềm bằng đá là thật; cánh cửa đồ sộ có cái búa gõ hình quỷ cười khẩy cũng là thật, tuy nhiên bao trùm trên mọi thứ vẫn có một cái gì đó không thực.Rainsford nhấc búa gõ cửa lên, nó hơi gắt và kêu cọt kẹt như thể chưa bao giờ được dùng cho đến nay. Rainsford thả nó rơi xuống và giật mình khi nghe gầm vang lên. Một lần nữa, Rainsford nhấc búa gõ lên, rồi thả rơi xuống. Khi đó cánh cửa mở ra, mở ra đột ngột như có lò xo, và Rainsford đứng yên hấp háy mắt trước ánh sáng vàng mạnh tràn ra. Điều đầu tiên Rainsford nhìn thấy là một người đàn ông, một người to lớn, rắn chắc, có bộ râu đen dài đến tận thắt lưng. Người đàn ông cầm trong tay một khẩu súng lục nòng dài chỉ thẳng vào tim Rainsford.Trong mớ lông rậm phủ mặt ông, có hai con mắt nhỏ đang nhìn Rainsford.- Xin anh đừng sợ, Rainsford nói với một nụ cười thật dễ thương. Tôi không phải là kẻ trộm; tôi bị rơi từ một chiếc tàu. Tên tôi là Sanger Rainsford, đến từ New York City.Ánh nhìn người đàn ông vẫn hung hăng.Khẩu súng vẫn chĩa đến cứng đờ như thể tên khổng lồ này là một pho tượng. Không có gì để lộ rằng ông hiểu lời nói của Rainsford, hay thậm chí rằng ông nghe thấy lời anh nói. Ông mặc bộ đồng phục màu đen có lông xám.- Tôi là Sanger Rainsford, từ New York, Rainsford nhắc lại. Tôi bị rơi xuống biển từ một chiếc tàu. Tôi đói bụng.Thay vì trả lời, người đàn ông dùng ngón tay kéo cái bậc búa súng lên. Rainsford thấy ông đưa bàn tay không cầm súng lên trán để chào theo kiểu quân đội. Ông chập hai gót chân lại với nhau kêu đánh cách, rồi đứng nghiêm. Một người đàn ông khác đang bước xuống cầu thang rộng lớn bằng đá hoa cương. Ông nói bằng một giọng kiểu cách, có lai giọng nước ngoài nhẹ làm nổi bật cách nói chậm rãi và chính xác cố tình của ông:- Thật là vinh hạnh và thích thú khi được đón tiếp tại nhà ông Sanger Rainsford, nhà săn bắn lừng danh.Theo bản năng, Rainsford bắt tay ông.- Tôi đã đọc quyển sách của ông về chuyện săn beo tuyết ở Tây Tạng, người đàn ông giải thích. Tôi là đại tá Zaroff.Điều đập vào mắt Rainsford trước tiên là cái đẹp rất đặc biệt của người đàn ông này, sau đó là nét độc đáo, gần như lạ lùng của gương mặt ông ta. Đó là một người đàn ông cao lớn, chắc đã nhiều tuổi, vì mái tóc ông bạc trắng. Nhưng chân mày rậm, cũng như bộ ria nhọn của ông lại đen thui như màn đêm mà Rainsford vừa mới thoát ra được. Mắt ông cũng đen, hai gò má cao, mũi thẳng, gương mặt gầy, nước da không trắng lắm, diện mạo của một người quen chỉ huy: gương mặt của một nhà quý tộc. Đại tá quay sang con người khổng lồ mặc đồng phục ra hiệu. Tên khổng lồ cất súng, chào kiểu quân đội rồi rút lui.- Ivan là một người có sức mạnh phi thường, đại tá nhận xét, nhưng rất xui là anh ấy bị câm và điếc. E rằng anh hơi khờ, nhưng rất hung dữ như người thuộc chủng tộc đó.- Anh ấy là người Nga à?- Lính Cô dắc, đại tá cười để lộ môi đỏ và răng nhọn. Tôi cũng vậy. Nhưng, - ông nói, ta không nên đứng ở đây nói chuyện. Ta sẽ có dịp nói chuyện sau. Hiện anh cần quần áo, thức ăn và nghỉ ngơi. Anh sẽ có tất cả. Chỗ này nghỉ ngơi rất tốt.Ivan đã xuất hiện lại, và đại tá nói chuyện với Ivan bằng cách nhấp nháy môi mà không thốt ra âm thanh nào.- Ông Rainsford à, xin mời ông cứ đi theo Ivan, đại tá nói. Tôi sắp ăn cơm tối, thì ông đến. Tôi sẽ chờ ông. Tôi nghĩ ông sẽ mặc vừa quần áo của tôi.Rainsford bước theo tên khổng lồ im lặng vào một gian phòng rộng mênh mông có xà lộ rõ trên trần và có một cái giường có thể chứa sáu người. Ivan soạn một bộ complê mặc buổi tối. Khi mặc vào, Rainsford thấy bộ đồ xuất xứ từ một nhà may ở Luân Đôn, mà nhà may này chỉ dùng kéo và kim may để phục vụ những người tối thiểu phải có chức công tước.Phòng ăn, nơi Ivan dẫn Rainsford vào, đáng chú ý ở nhiều mặt. Nó lộng lẫy theo kiểu trung cổ và làm ta nghĩ đến phòng lớn của một vị nam tước thời phong kiến, với tường lát gỗ sồi, trần nhà rất cao, cái bàn rộng có thể cho bốn chục người ngồi. Xung quanh phòng ăn, nhìn thấy đầu nhồi rơm của đủ loại thú: sư tử, cọp, voi, tuần lộc, gấu, loại lớn nhất, hoàn hảo nhất mà Rainsford từng thấy. Đại tá ngồi ở cái bàn lớn, một mình.- Uống một ly cốc tai, ông Rainsford nhé, đại tá gợi ý.Ly cốc tai tuyệt hảo, và Rainsford để ý rằng toàn bộ đồ dùng: náp bàn, khăn ăn, muỗng nĩa bạc, đồ sứ đều hết sức tinh xảo.Rainsford và đại tá ăn món súp yêu thích của người Nga, món súp đậm đà, đỏ, có kem hơi chát. Đại tá Zaroff nói như để xin lỗi:- Chúng tôi đã cố gắng hết sức để lưu giữ được những tiện nghi của nền văn minh. Tôi xin ông bỏ qua những điều không phải. Chúng tôi ở quá xa đường xá mà! Ông có cho rằng rượu sâm banh bị dở đi do vận chuyển xa không?- Hoàn toàn không, Rainsford tuyên bố.Rainsford thấy đại tá là một chủ nhà nhã nhặn, chăm lo cho khách. Tuy nhiên có một cái gì đó khiến Rainsford thấy khó chịu. Mỗi khi ngước mắt lên khỏi dĩa, Rainsford thấy đại tá đang quan sát mình, ước chừng giá trị của mình.- Có thể ông ngạc nhiên rằng tôi biết tên ông, đại tá Zaroff nói. Đó là vì tôi đã đọc mọi quyển sách đã xuất bản về đề tài săn bắn, bằng tiếng Anh, Pháp, Nga. Tôi chỉ có một niềm đam mê trong đời: săn bắn!- Đại tá có những con thú tuyệt đẹp, Rainsford vừa ăn món thịt bò nấu rất khéo vừa nói. Con trâu ở Cap kia là con lớn nhất tôi từng được thấy.- Ô! con này, thưa ông, là con quái vật...- Tôi luôn cho rằng, Rainsford nói, trong số thú săn to, con trâu ở Cap là loại nguy hiểm nhất.Đại tá không trả lời ngay. Đại tá mỉm cười với nụ cười kỳ lạ trên cặp môi đỏ.- Không phải, thưa ông, ông lầm rồi; trâu ở Cap không phải là loại thú săn nguy hiểm nhất đâu.Đại tá uống rượu vang từng hớp nhỏ.- Tại đây, trong khu bảo tồn của tôi, tôi săn một loại thú nguy hiểm hơn nhiều.Rainsford tỏ ra ngạc nhiên.- Trên đảo này có thú săn to à?Đại tá gật đầu.- Thứ to nhất.- Thế à?- Ồ, dĩ nhiên, nó không sống tự nhiên. Tôi phải đưa nó lên đảo.- Thưa đại tá, vậy đại tá đã du nhập loại thú săn nào vậy? Rainsford hỏi. Cọp à?Đại tá mỉm cười.- Không, đại tá nói. Từ nhiều năm tôi đã chán săn cọp rồi. Tôi đã khai thác hết khả năng của loài này. Cọp không còn làm tôi rùng mình nữa. Tôi không phải chịu mối nguy hiểm nào cả. Ông Rainsford à, tôi sống vì nguy hiểm.- Nhưng loại thú săn nào...? Rainsford định nói.- Tôi sẽ nói cho ông biết, đại tá nói. Ông sẽ thấy thích thú, tôi biết, nhưng tôi khiêm nhường thừa nhận rằng có lẽ tôi đã thành công một thứ rất hiếm lạ. Tôi đã phát minh một cảm giác mới mẻ. Tôi rót cho ông một ly rượu khác, ông Rainsford nhé?- Cám ơn đại tá.Đại tá rót đầy hai ly rồi nói:- Chúa đã tạo ra một số người là nhà thơ. Chúa cho một số khác làm vua, số kia làm kẻ hành khất. Còn tôi, Chúa đã cho tôi sinh ra làm kẻ đi săn. Cha tôi từng nói, bàn tay tôi được chế tạo để bóp cò. Cha tôi rất giàu có, sở hữu nửa triệu hécta ở Crimée và là người say mê săn bắn. Tôi chưa đầy năm tuổi, thì cha tặng cho tôi một cây súng nhỏ, chế tạo tại Moskva riêng cho tôi, để tôi bắn chim sẻ. Tôi dùng súng để bắn vài con gà tây được giải của cha; nhưng cha không hề phạt tôi; cha tôi khen tôi bắn chính xác. Tôi giết được con gấu Caucase đầu tiên khi mười tuổi. Cả cuộc đời tôi chỉ là một cuộc săn dài. Tôi gia nhập quân đội; đó là điều mà các con trai gia đình quý tộc phải làm. Suốt một thời gian, tôi chỉ huy một sư đoàn kỵ binh Cô dắc, nhưng việc mà tôi thật sự quan tâm đến vẫn là săn bắn. Tôi đã săn đủ loại thú tại tất cả các nước. Tôi không thể nào nói cho ông tôi đã giết bao nhiêu con thú.Đại tá hít vào một ngụm thuốc lá.- Sau khi Sa hoàng sụp đổ, tôi rời bỏ đất nước này. Sĩ quan Sa hoàng không nên ở lại làm gì. Nhiều dòng họ quý tộc đã mất hết gia tài của cải. Còn tôi, cũng may mắn là tôi đầu tư những khoản tiền lớn vào trái phiếu Mỹ, nhờ vậy tôi không phải mở phòng trà ở Monte-Carlo hay làm tài xế taxi ở Paris. Dĩ nhiên là tôi tiếp tục săn: gấu grizzli ở vùng Rocky Mountains nước Mỹ của ông, cá sấu sông Hằng, tê giác Đông Phi. Chính tại châu Phi mà tôi đã bị con trâu ở Cap hành hung, buộc tôi phải nằm liệt giường suốt sáu tháng. Ngay khi lành vết thương, tôi đi săn beo ở vùng Amazone, vì nghe nói chúng đặc biệt tinh khôn. Điều này không đúng lắm. - Đại tá thở dài. - Chúng không hề ngang tầm với trình độ một người săn bình tĩnh có cây súng cỡ to. Tôi bị thất vọng cay đắng. Tôi nằm cả một đêm dưới tấm lều với một cơn nhức đầu dữ dội, thì một suy nghĩ kinh khủng hiện trong đầu tôi. Tôi bắt đầu thấy chán săn bắn! Mà ông hãy nhớ rằng săn bắn là cả cuộc đời tôi. Tôi nghe nói rằng ở Mỹ các doanh nhân suy sụp khi buộc phải từ bỏ công việc từng là cả cuộc đời mình.- Đúng, chính xác như vậy, Rainsford nói.Đại tá mỉm cười.- Tôi không muốn bị suy sụp, đại tá nói cần phải làm một điều gì đó. Mà, ông Rainsford à, tôi có đầu óc phân tích. Có lẽ vì thế mà tôi thấy thích thú các vấn đề trong cuộc săn.- Có lẽ thế, đại tá Zaroff à.- Thế là tôi tự hỏi, đại tá Zaroff nói tiếp, tại sao săn bắn không còn làm tôi say mê nữa. Ông Rainsford à, ông nhỏ tuổi hơn tôi nhiều, và ông chưa đi săn nhiều như tôi, nhưng ông có thể đoán ra câu trả lời.- Câu trả lời là?- Đơn giản thế này: cuộc săn không thể gọi là thú giải trí nữa. Săn bắn đã trở nên quá dễ. Tôi chưa bao giờ hụt con mồi của tôi. Không có gì buồn chán bằng sự hoàn hảo.Đại tá châm thêm một điếu thuốc nữa.- Từ nay không có con thú nào có cơ may sống sót với tôi. Đây không phải là lời nói khoác. Mà là một xác thực toán học. Con thú chỉ có mấy cái chân và bản năng của nó. Bản năng không làm gì được lý trí. Khi ý nghĩ này đến với tôi, tôi xin thề với anh rằng đó là một giây phút bi kịch.Rainsford say sưa nghe những gì ông chủ nhà nói và cúi qua bàn.- Tôi đột nhiên hiểu ra mình phải làm gì, đại tá nói tiếp.- Và đó là gì?Đại tá mỉm cười, một nụ cười bình thản của một người đã đấu tranh với một chướng ngại vật và đã vượt qua.- Tôi đã chế ra một loài mồi săn khác.- Mồi săn khác à? Đại tá nói đùa chứ.- Không hề, đại tá Zaroff nói. Tôi không bao giờ đùa khi nói về săn bắn. Tôi cần một con thú mới. Tôi tìm ra một con. Thế là tôi mua hòn đảo này, xây ngôi nhà này và săn bắn tại đây. Hòn đảo hoàn toàn phù hợp với ý đồ của tôi. Có rừng rậm là chỗ chứa mê cung, đồi, đầm lầy...- Nhưng còn con thú, thưa đại tá Zaroff?- Ồ! Đại tá kêu. Nhờ con thú này mà tôi có những cuộc săn hấp dẫn nhất thế giới. Không có cuộc săn nào so sánh nổi. Mỗi ngày tôi đi săn và tôi không bao giờ thấy buồn chán, bởi vì tôi phải đối phó một loài thú săn mà tôi có thể vận dụng trí thông minh của mình với nó.Sự chưng hửng hiện rõ trên nét mặt của Rainsford.- Tôi muốn một con thú săn lý tưởng, đại tá giải thích. Thế là tôi tự hỏi: “Đặc điểm của của một mồi săn lý tưởng là gì?” Và dĩ nhiên câu trả lời là nó phải dũng cảm, mưu trí và trên hết là có khả năng suy luận.- Nhưng không có con thú nào có khả năng suy luận, Rainsford bắt bẻ.- Ông Rainsford à, có một con, đại tá nói.- Nhưng đại tá không định nói đến...- Rainsford không dám nói tiếp.- Tại sao không?- Tôi không thể tin ông nói nghiêm túc, đại tá Zaroff à. Đây là một trò đùa rùng rợn.- Tại sao tôi không thể nghiêm túc? Tôi đang nói về săn bắn mà.- Săn bắn à? Chúa ơi, đại tá Zaroff, ông đang nói về chuyện sát nhân thì đúng hơn.Đại tá Zaroff cười hết sức vô tư và ranh mãnh liếc nhìn Rainsford.- Tôi không thể tin rằng một chàng trai trẻ hiện đại và văn minh như ông lại có thể nuôi giữ những suy nghĩ lãng mạn như thế về nhân mạng. Chắc chắn kinh nghiệm về chiến tranh...Đại tá dừng lại.-... đã không khiến tôi có thái độ khoan dung đôi với chuyện sát nhân có cân nhắc, Rainsford khó chịu nói hết câu.Đại tá rung lên vì cười.- Ông thật là kỳ cục buồn cười! đại tá nói. Đâu phải ngày nào cũng có thể gặp, cả ở nước Mỹ, một người từ một giới gọi là trí thức mà lại có những suy nghĩ ngây thơ như thế, tôi xin mạn phép có sự đánh giá này, mang nặng dấu ấn của tư tưởng thời Victoria. Cũng y như tìm thấy một cái bao thuốc hút trong chiếc xe limousine. À! chắc là tổ tiên ông là tín đồ Thanh giáo. Giống như bao nhiêu người Mỹ. Tôi bảo đảm ông sẽ quên hết tư tưởng của ông khi đi săn với tôi. Những cảm xúc thật và chưa từng có đang chờ đợi ông, ông Rainsford à.- Cám ơn, tôi là người săn bắn, chứ không phải kẻ sát nhân.- Chúa ơi, viên đại tá bình thản nói, lại cái từ xấu xa kia. Nhưng tôi xin hứa sẽ chứng minh được rằng ông ngại ngùng như vậy là không có cơ sở.- Vậy sao?- Sự sống dành cho kẻ mạnh, và khi cần thì được tước bỏ bởi kẻ mạnh. Kẻ yếu được sinh ra để giúp vui cho kẻ mạnh. Tôi mạnh. Tại sao tôi lại không sử dụng lợi thế này? Nếu tôi thích săn bắn, thì tại sao tôi không được làm thế? Tôi săn cặn bã của thế giới này, thủy thủ tàu hàng, bọn vô lại, bọn Đen, bọn Tàu, bọn da trắng, bọn lai. Một con ngựa thuần giống hay một con chó giống trị giá gấp hai chục lần bọn chúng.- Nhưng họ là người, Rainsford nhanh miệng nói.- Chính vì thế, đại tá nói. Chính vì thế mà tôi sử dụng chúng. Làm như vậy tôi thấy thích thú. Chúng có khả năng suy luận ít nhiều. Nên chúng nguy hiểm hơn.- Nhưng ông lấy họ từ đâu?Mí mắt trái của đại tá sụp xuống thành cái nháy mắt.- Hòn đảo này tên là: Bẫy Tàu, đại tá trả lời. Đôi khi, trong cơn thịnh nộ, một vị thần biển cả gởi chúng đến cho tôi. Đôi khi, khi ý trời không khoan dung, thì tôi giúp ý trời một chút. Mời ông ra cửa sổ với tôi.Rainsford tuân lệnh và nhìn ra biển.- Nhìn kỹ đi, kia, ngoài khơi, đại tá thốt lên, ngón tay chỉ vào bóng đêm.Mắt Rainsford chỉ thấy màn đêm. Đại tá ấn một nút; ngoài khơi, Rainsford thấy ánh sáng bắn ra.Đại tá có tiếng cười tự mãn.- Đèn sáng tạo ra một đường nước không có thật. Có những dãy đá ngầm to tướng núp dưới biển như thế đang há to mồm. Đá có thể làm vỡ một chiếc tàu dễ dàng như tôi đập vỡ hạt dẻ này.Đại tá thả rơi một hạt dẻ xuống sàn gỗ cứng, rồi dùng gót chân đạp nát.- Ồ! đúng, đại tá nói như để trả lời một câu hỏi. Tôi có điện. Ở đây chúng tôi cố gắng sống văn minh.- Văn minh à? Vậy mà ông bắn vào con người?Tia sáng giận dữ thoáng hiện trong mắt đại tá trong khoảnh khắc một giây, nhưng rồi ông nói bằng giọng thật tử tế:- Chúa ơi! Một chàng trai đạo đức thế! Tôi xin cam đoan với ông rằng tôi không hề làm những gì ông nói. Như thế là man rợ. Tôi đối xử với những vị khách này với lòng kính trọng. Chúng không hề thiếu thốn thức ăn và luyện tập. Chúng nhanh chóng có được tình trạng thể lực hoàn hảo. Chính ông sẽ thấy vào ngày mai.- Ý ông muốn nói sao?- Ta sẽ đi tham quan trung tâm luyện tập của tôi, đại tá mỉm cười nói ở dưới tầng hầm. Hiện tôi có khoảng một chục học viên. Chúng đến từ con tàu Tây Ban Nha San Lucar, đã kém may mắn va vào đá đằng kia. Một lô hàng chất lượng kém, tôi rất tiếc là phải nói thế. Những mẫu vật tồi tàn, quen ở trên boong tàu hơn ở trong rừng.Đại tá đưa tay lên, và Ivan, cũng là gia nhân, mang cà phê Thổ Nhĩ Kỳ đậm ra. Rainsford phải cố gắng để không nói chuyện.- Đây chỉ là một trò chơi, ông hiểu cho, đại tá nói nhã nhặn. Tôi đề nghị một cuộc săn với một tên trong bọn chúng. Tôi cho nó lương thực và một con dao săn rất tốt. Tôi chấp nó ba giờ. Đã thoả thuận là tôi sẽ theo nó, với một khẩu súng cỡ nhỏ, tầm ngắn. Nếu con mồi của tôi thoát khỏi tôi trong ba ngày, thì nó chiến thắng. Nếu bị tôi tìm thấy... - đại tá nở một nụ cười - thì nó thua.- Còn nếu anh ta không chịu làm mồi săn?- Ồ! đại tá kêu, dĩ nhiên là tôi cho nó quyền lựa chọn. Nó không bắt buộc phải chơi, nếu không muốn. Nếu nó không muốn tham gia cuộc săn, thì tôi giao nó cho Ivan. Xưa kia, Ivan từng được vinh dự làm đao phủ roi da đúng chức vị của Nga hoàng Vĩ Đại, và Ivan có suy nghĩ riêng về cách giải trí. Luôn luôn, ông Rainsford à, luôn luôn chúng nó chọn cuộc săn.- Còn nếu họ thắng?Nụ cười trên gương mặt đại tá nở rộng hơn.- Cho đến ngày hôm nay, tôi chưa bị thua, đại tá nói.Rồi đại tá nói thêm ngay:- Tôi không muốn ông nghĩ tôi nói khoác, ông Rainsford à. Đa số bọn chúng chỉ gây ra vấn đề thuộc loại cơ bản nhất. Lâu lâu, tôi gặp được một con mồi săn tầm cỡ một chút. Có một tên xém thắng cuộc. Cuối cùng tôi buộc phải vận dụng lũ chó.- Lũ chó à?- Mời ông đi ngả này. Tôi sẽ cho ông xem.Đại tá dẫn Rainsford đến một cửa sổ. Đèn từ cửa sổ chiếu một thứ ánh sáng nhảy nhót tạo những hình bóng kỳ quặc trên nền sân phía dưới. Rainsford thấy ba bốn cái bóng đen to di chuyển. Khi chúng quay lên hướng Rainsford, mắt chúng sáng lên màu xanh lục.- Theo tôi nghĩ, đây là một đội quân cũng khá, đại tá nhận xét. Chúng được thả lúc bảy giờ mỗi tối. Nếu có ai toan lẻn vào nhà tôi, hoặc trốn ra, thì sẽ gặp những chuyện rất tệ hại.Đại tá hát lầm rầm một đoạn bài hát ở Folies-Bergères.- Và bây giờ, đại tá nói, tôi sẽ cho ông xem bộ SƯU tập những cái đầu mới của tôi. Xin mời ông đến thư phòng cùng tôi.- Tôi mong ông sẽ thứ lỗi cho tôi tối nay, thưa đại tá Zaroff, Rainsford nói. Tôi hoàn toàn không cảm thấy khoẻ.- À, thế à? - Đại tá ân cần hỏi thăm. Tôi nghĩ đó là điều không có gì bất bình thường cả; ông đã bơi lội nhiều quá mà. Ông cần ngủ một đêm cho ngon giấc để lấy lại sức. Tôi bảo đảm ngày mai ông sẽ thấy khác hẳn. Khi đó, ta sẽ đi săn nhé? Tôi có một kế hoạch khá hay...Rainsford vội vàng bước ra khỏi phòng.- Tôi rất tiếc ông không thể đi cùng tôi tối nay, - đại tá la với theo. Tôi hy vọng sẽ có một cuộc săn hấp dẫn: một thằng da đen to lớn, khoẻ mạnh. Trông nó rất lanh lợi. Vậy chúc ông ngủ ngon, ông Rainsford nhé. Hy vọng tối nay ông sẽ ngủ ngon.Giường ngủ rất êm, bộ áo ngủ bằng lụa mềm mại. Rainsford cảm thấy mệt mỏi trong từng sớ thịt trong cơ thể. Tuy nhiên, giấc ngủ không mang lại sự bình yên cho trí óc anh. Rainsford nằm trên giường, mắt mở to. Có một lần, Rainsford có cảm giác nghe tiếng chân bước rón rén ngoài hành lang, ngay bên ngoài phòng ngủ. Anh định mở cửa thật mạnh ra; nhưng nó không mở. Rainsford ra cửa sổ nhìn ra ngoài. Phòng anh nằm trên một tháp cao. Bây giờ đèn trong lâu đài đã tắt hết. Tất cả đều tối tăm và lặng lẽ; nhưng có một mảnh trăng vàng; ánh sáng mờ ảo cho phép thấy được sân. Những hình thù đen, lặng lẽ, lẻn vào dải tối rồi trở ra, liên tục.Lũ chó nghe thấy Rainsford và ngẩng đầu lên; ánh mắt xanh lục của chúng có vẻ chầu chực. Rainsford trở về giường, nằm xuống. Rainsford cố gắng thiếp ngủ bằng đủ mọi cách. Rainsford đã lim dim được một chút, lúc mặt trời bắt đầu ló ra, thì đột nhiên anh nghe tiếng súng khẽ, ngoài rừng.Đến lúc ăn trưa đại tá Zaroff mới xuất hiện. Đại tá mặc bộ complê vải tuýtxi, y như một nhà quý tộc ở quê. Đại tá hỏi thăm sức khoẻ Rainsford.- Còn tôi, đại tá thở dài, tôi cảm thấy không khoẻ lắm. Tôi lo lắm, ông Rainsford à. Tôi hôm qua, tôi bắt gặp trong mình các dấu hiệu của căn bệnh cũ.Khi thấy ánh mắt dò hỏi của Rainsford, đại tá trả lời:- Buồn chán; nỗi buồn chán.Rồi, sau khi lấy thêm bánh, đại tá giải thích:- Cuộc săn tối hôm qua không tốt lắm. Thằng đó bị hoảng lên. Nó chạy thẳng phía trước, trên một con đường hết sức dễ theo. Đó là sự phiền phức của bọn thủy thủ. Trí óc bọn chúng rất tồi tàn và chúng không biết định hướng trong rừng. Chúng làm những việc ngu ngốc quá hiển nhiên. Thật là chán chường. Tôi rót cho ông một ly rượu chát mới, ông Rainsford nhé?- Thưa đại tá, Rainsford nói bằng một giọng cương quyết, tôi muốn rời khỏi đảo này ngay.Đại tá giương đôi mày rậm lên. Trông đại tá có vẻ phật ý.- Nhưng thưa ông, đại tá nói, ông vừa mới đến mà. Ông chưa đi săn.- Tôi muốn ra đi ngay hôm nay, Rainsford nói.Rainsford thấy cặp mắt đen của đại tá dán vào mình; quan sát mình. Đột nhiên gương mặt đại tá Zaroff sáng lên.Đại tá rót cho Rainsford một ly rượu từ một cái chai bụi bậm.- Tối nay, đại tá nói, ông và tôi sẽ đi săn.Rainsford lắc đầu.- Không, thưa đại tá, Rainsford nói, tôi không muốn đi săn.Đại tá nhún vai rồi ăn nho trồng trong nhà kính.- Tùy ông thôi, ông bạn à, đại tá nói. Chính ông sẽ là người quyết định, một mình. Nhưng ông cho phép tôi gợi ý với ông rằng ông sẽ thấy quan niệm về săn bắn của tôi hấp dẫn hơn quan niệm của Ivan chứ?Đại tá hất đầu chỉ vào góc nơi tên khổng lồ đang đứng, hai tay khoanh trước cái ngực to như thùng phuy.- Chẳng lẽ đại tá nói rằng... Rainsford phản đối.- Ông bạn à, đại tá nói, tôi đã nói trước với ông rằng tôi không bao giờ nói đùa khi nói về săn bắn sao? Đúng là một cảm hứng. Tôi xin nâng ly chúc mừng một đối thủ chất lượng đáng so sánh với tôi, cuối cùng...Đại tá nâng ly lên, và Rainsford mở to mắt nhìn ông.- Ông sẽ thấy là trò này rất đáng chơi, đại tá hăng hái nói. Trí thông minh của ông chống lại trí thông minh của tôi. Kiến thức về rừng rậm của ông chống lại kiến thức tôi. Sức lực, sự dẻo dai của ông chống lại tôi. Một ván cờ vua ngoài trời! Và phần thưởng rất có giá trị, đúng không?- Còn nếu tôi thắng...? Rainsford bắt đầu nói bằng một giọng khàn khàn.- Tôi sẽ vui vẻ công nhận tôi thua cuộc nếu như, đúng mười hai giờ khuya, ngày thứ ba, tôi không tìm ra ông, đại tá Zaroff nói. Tàu của tôi sẽ đưa ông về đất liền, gần một thành phố.Đại tá đi guốc trong bụng Rainsford.- Ô! ông cứ tin tôi, đại tá nói. Tôi xin hứa lời danh dự quân tử và người săn. Dĩ nhiên là phần ông, ông phải hứa không được nói gì về chuyến thăm chỗ này.- Tôi sẽ không hứa gì cả, Rainsford nói.- À! đại tá kêu, nếu vậy... nhưng cần gì thảo luận ngay bây giờ? Trong ba ngày nữa ta sẽ bàn chuyện này bên chai sâm banh Veuve Cliquot, trừ phi...Đại tá đang nhấm nháp rượu. Rồi tự nhiên đại tá sốt sắng lên và nói với Rainsford như một doanh nhân lanh lợi:- Ivan sẽ cung cấp cho ông trang phục đi săn, lương thực, dao. Tôi khuyên ông nên đi giày mọi; dấu vết để lại nhẹ hơn. Tôi cũng khuyên ông nên tránh khu đầm lầy lớn ở góc đông - nam hòn đảo. Chúng tôi gọi nó là Đầm lầy Chết chóc. Ở đó có những chỗ cát lún thụt. Một thằng ngu ngốc đã thử mạo hiểm vào đó. Chuyện tồi tệ nhất là con Lazarus đi theo nó. Ông dễ dàng đoán cảm xúc của tôi, ông Rainsford à. Tôi rất thương con Lazarus, con chó đẹp nhất bầy. Nhưng bây giờ tôi xin lỗi ông. Tôi luôn ngủ trưa sau bữa ăn. E rằng ông chỉ kịp ngủ một giấc ngắn thôi. Có lẽ ông sẽ đòi đi ngay. Tôi sẽ không lần theo ông trước hoàng hôn. Cuộc săn giàu cảm xúc vào ban đêm hơn ban ngày, ông có nghĩ thế không? Tạm biệt, ông Rainsford, tạm biệt.Đại tá Zaroff chậm rãi rời khỏi phòng ăn, cúi chào lịch thiệp.Ivan bước vào bằng một cửa khác.Ivan đang cầm trong một tay bộ trang phục đi săn bằng kaki, một bị lương thực, một bao da chứa con dao săn lưỡi rất dài; tay kia Ivan đặt trên một khẩu súng lục đã lên cò sẵn và nhét trong sợi dây nịt đỏ cột quanh eo...Suốt hai tiếng, Rainsford cực nhọc tìm đường qua rừng rậm.“Phải giữ bình tĩnh; phải giữ bình tĩnh”, Rainsford cắn chặt răng tự nhủ.Rainsford đã bị cuống lên khi cổng lâu đài khép lại phía sau lưng anh với tiếng kêu rắc. Thoạt đầu, Rainsford chỉ có một ý nghĩ: tạo khoảng cách giữa mình và đại tá Zaroff. Anh đã đâm thẳng phía trước mặt mà chạy, với một cảm xúc rất gần như hoảng hốt. Nhưng bây giờ anh đã bình tĩnh hơn, anh dừng lại, suy nghĩ và đánh giá tình thế.Rainsford hiểu ra rằng chạy trốn theo đường thẳng là ngốc nghếch, việc này chắc chắn sẽ dẫn anh ra biển. Anh bị kẹt trong một cái khung có nước bao quanh, và dĩ nhiên mọi chuyển động của anh phải nằm trong cái khung này.- Mình phải tạo cho hắn dấu vết để mà theo, Rainsford nói khẽ.Rainsford rời bỏ con đường đang theo để đâm vào rừng rậm không có đường mòn. Anh đi những vòng khép kín phức tạp, và nhiều lần bước trở lui theo dấu chân vừa mới đi, cố nhớ lại tất cả những gì đã ghi nhận về cuộc săn cáo và mưu mẹo của con cáo. Đến đêm, anh dừng trên một ụ đất nhô có cây mọc sát nhau, tay chân và mặt mày bị cành cây cào xước. Rainsford thừa biết đi mò trong đêm là chuyện điên rồ, giả sử anh còn sức. Anh đang cần nghỉ ngơi. Rainsford nghĩ bụng: “Mình đã đóng vai con cáo rồi; bây giờ mình phải làm con mèo trong truyện ngụ ngôn.” Ngay đó có một cây thân to, cành xoè; Rainsford cẩn thận không để lại dấu vết, leo lên chạc cây, rồi nằm trên một cành to. Nghỉ ngơi khiến Rainsford tự tin lại; anh cảm thấy gần như an toàn. Một người săn, cho dù có hăng say như đại tá Zaroff cũng không thể tìm ra anh, Rainsford tự nhủ như vậy; vào ban đêm, chỉ có quỷ mới đi theo dấu vết rối rắm như thế xuyên qua rừng nổi. Nhưng có thể đại tá Zaroff chính là quỷ.Ban đêm kéo dài, bất tận, đầy đe doạ, như một con rắn bị thương. Giấc ngủ không đến với Rainsford, mặc dù sự im lặng của một thế giới chết ngự trị trên khu rừng rậm. Đến sáng, khi bầu trời nhuộm màu xám chì, tiếng một con chim giật mình kêu lên khiến Rainsford chú ý đến hướng đó. Một cái gì đó đang tiến tới, xuyên qua bụi rậm, tiến tới chậm chạp, thận trọng, tiến qua chính lối đi mà Rainsford đã đi. Rainsford nằm thật sát vào cành cây và rình rập xuyên qua lá cây dày như tấm rèm. Vật đang tiến đến gần anh là một con người.Chính là đại tá Zaroff. Đại tá tiến tới, mắt nhìn chằm chằm xuống đất, tập trung tột độ. Đại tá dừng lại, gần như ngay dưới cây, quỳ xuống xem xét nền đất. Phản ứng đầu tiên của Rainsford là muốn nhảy xuống đất, như một con beo, nhưng anh nhìn thấy một vật kim loại nhỏ trong tay phải của đại tá; khẩu súng lục tự động.Người đi săn lắc đầu nhiều lần, như thể không hiểu nổi. Rồi đứng dậy, rút ra khỏi bao thuốc một điếu thuốc lá đen. Khói cay bay lên đến mũi Rainsford. Anh nín thở. Ánh nhìn của đại tá đã rời khỏi mặt đất và đang đi lên, từng phân một, dọc theo thân cây. Rainsford nằm yên trên đó, mọi cơ bắp căng ra đề phòng. Nhưng kẻ đi săn dừng mắt trước khi đến cành cây nơi Rainsford đang nằm. Một nụ cười hiện trên gương mắt rám nắng của đại tá. Với sự chậm rãi tính toán, đại tá phà lên không khí một vòng khói tròn, rồi quay lưng lại với cây, ung dung bỏ đi, theo lối đi cũ mà đại tá đã đến. Tiếng ủng cạ vào bụi cây kêu sột soạt khẽ dần.Phổi Rainsford phì ra một lần lượng khí nóng kẹt trong đó. Ngay khi lấy lại được khả năng suy nghĩ, Rainsford cảm thấy choáng váng và ê ẩm. Đại tá có thể theo được dấu chân vào ban đêm, xuyên qua rừng. Đại tá có thể theo một dấu vết rất phức tạp; có lẽ đại tá có năng khiếu siêu tự nhiên.Đại tá đã suýt phát hiện con mồi.Suy nghĩ thứ nhì của Rainsford càng khủng khiếp hơn nữa và khiến anh rùng mình với cảm giác lạnh xương sống.Rainsford không chịu tin điều mà lý trí anh mách bảo, nhưng sự thật hiển nhiên như tia nắng mặt trời đang chiếu qua sương mù ban mai. Đại tá đang đùa giỡn với anh! Đại tá tha cho anh để kéo dài trò chơi thêm một ngày nữa! Đại tá là con mèo, Rainsford là con chuột. Chính vào lúc đó, Rainsford cảm nhận được thế nào là nỗi khiếp sợ.- Mình không muốn mất bình tĩnh. Mình không muốn mất bình tĩnh.Rainsford thả mình trở xuống đất, rồi bỏ đi vào rừng. Nét mặt căng thẳng, anh buộc đầu óc phải làm việc. Đi xa được cách chỗ trốn khoảng ba trăm mét, Rainsford dừng ở chỗ khối to của một cây chết tựa mong manh vào một cây khác còn sống và nhỏ hơn. Rainsford bỏ bị lương thực xuống, rút dao ra khỏi bao rồi tập trung hết năng lực bắt tay vào việc.Khi làm xong, Rainsford thả mình sau một khúc cành rơi cách đó khoảng một trăm mét. Rainsford không phải chờ lâu. Mèo trở lại tìm chuột để giỡn.Đại tá Zaroff đang đến, lần theo dấu chân chắc chắn như một thám tử. Không có gì thoát khỏi đôi mắt đen của đại tá, không một chiếc lá bị chà đạp nào, không một cành cây cong, không một dấu chân trên rêu, dù nhẹ đến mấy. Hắn quá tập trung đi theo dấu chân đến nỗi đụng phải cái mà Rainsford đã bố trí trước khi kịp nhìn thấy. Chân đại tá chạm cành cây nhô ra đóng vai trò cò súng. Đúng lúc chạm vào đó, đại tá cảm nhận được nguy hiểm và nhảy lùi ra phía sau khéo léo như một con khỉ. Nhưng đại tá không đủ nhanh; cây chết, tựa nhẹ trên cây sống, mà Rainsford đã chặt, sụp đổ xuống thật mạnh và trúng đại tá, trượt dọc theo vai đại tá. Nếu không phản xạ nhanh, thì chắc chắn đại tá đã bị đè bẹp dưới khối cây. Đại tá choáng váng, nhưng không ngã và không thả súng. Đại tá đứng đó bất động, xoa cái vai bị trúng. Rainsford lại bị nỗi sợ dày vò khi nghe tiếng cười chế giễu của đại tá vang lên trong rừng.- Rainsford ơi, đại tá la lên, nếu ông ở tầm nghe, như tôi đoán, thì xin cho tôi có lời khen. Rất ít người biết làm một cái bẫy người như ở Mã Lai. Cũng may cho tôi, tôi từng đi săn ở bán đảo Malacca. Ông là người rất thú vị, ông Rainsford à. Bây giờ tôi sẽ đi băng bó vết thương. Chỉ bị thương nhẹ thôi mà. Rồi tôi sẽ quay lại, tôi sẽ quay lại.Khi đại tá, đang xoa cái vai đau, đã đi xa rồi, Rainsford tiếp tục chạy trốn. Bây giờ đúng là một cuộc tháo chạy, một cuộc tháo chạy dữ dội, điên cuồng, suốt mấy tiếng đồng hồ. Hoàng hôn xuống, rồi màn đêm, nhưng Rainsford vẫn tiến tới với cùng tốc độ. Nền đất mềm hơn dưới giày mọi của anh: cây cối rậm rạp um tùm hơn; côn trùng tấn công để đốt anh. Khi tiến tới, chân anh lún xuống bùn. Rainsford cố rút ra, nhưng bùn lầy cứ hút chân anh thật mạnh, như một con đỉa to tướng. Chỉ bằng nỗ lực rất lớn, Rainsford mới kéo cái chân ra được. Bây giờ Rainsford đã biết mình đang ở đâu: Đầm Lầy Chết Chóc và vùng cát lún.Rainsford nắm chặt hai tay cứng ngắc, như thể sự bình tĩnh của anh là một cái gì đó hữu hình đang bị một kẻ nào đó trong bóng tối toan giật lấy khỏi tay anh. Nền đất mềm nhũn làm anh nảy ra một ý. Rainsford lùi xa khoảng vùng cát lún khoảng một chục mét rồi tiến hành lục soát, y như một con hải ly thời tiền sử khổng lồ.Hồi thời chiến, Rainsford từng đào chỗ trú cho mình ở Pháp khi mà mỗi giây trễ nãi có thể gây ra cái chết. Lúc đó chỉ là một trò giải trí bình yên so với việc anh đang làm bây giờ. Hố trở nên sâu hơn. Khi miệng hố cao hơn vai, Rainsford bước ra, chặt vài cây nhỏ cứng chắc, gọt đầu cho nhọn làm thành chông. Anh cắm dưới hố, mũi nhọn hướng lên trên. Bằng ngón tay nhanh nhẹn như bay, Rainsford dệt một tấm thảm thô sơ bằng cỏ và cành cây, che lại miệng hố. Rồi ướt đẫm mồ hôi, người ê ẩm do mệt mỏi, Rainsford núp sau gốc cây bị sét làm cháy.Rainsford biết kẻ truy lùng mình đang rất gần. Anh nghe tiếng chân bước trên nền đất mềm. Gió đêm mang đến cho anh mùi thuốc lá của đại tá. Rainsford có cảm giác đối thủ đang tiến tới với độ nhanh bất bình thường. Không mò mẫm, từng bước một. Từ chỗ núp, Rainsford không thể nhìn thấy đại tá và cái bẫy. Trong vòng một phút, Rainsford như sống qua một năm trời. Rồi anh muốn hét lên vui mừng khi nghe tiếng cành cây kêu rắc lúc nắp bẫy vỡ ra. Rồi có tiếng thét đau đớn khi chông nhọn có tác dụng. Khi đó Rainsford lao ra khỏi chỗ núp, rồi kinh hoàng lùi lại.- Công việc xuất sắc, ông Rainsford à, giọng nói của đại tá la đến. Cái bẫy cọp kiểu Miến Điện của ông đã làm mất mạng con chó giỏi nhất của tôi. Ông lại ghi thêm được một điểm. Để tôi xem ông làm gì được chống lại cả bầy chó săn. Bây giờ tôi về nhà nghỉ đây. Cám ơn ông về buổi tối vui thích này.Lúc rạng sáng, Rainsford, đang nằm gần đầm lầy, bị đánh thức bởi một tiếng động khiến anh hiểu ra mình chưa biết hết về nỗi sợ hãi. Tiếng động xa, yếu và không rõ ấy, Rainsford đã nhận ra: tiếng sủa của bầy chó săn.Rainsford biết rằng có thể có hai quyết định. Ở lại tại chỗ và chờ đợi, tương đương với tự sát. Bỏ chạy, là chỉ đẩy lùi việc tất yếu phải xảy ra. Rainsford ở lại đó suy nghĩ một hồi. Một ý nghĩ nảy vào đầu anh, dường như có bóng dáng cơ may bay thoáng qua. Anh siết chặt dây nịt, đi về hướng ngược lại với đầm lầy.Tiếng sủa của bầy chó săn nghe gần lại; gần hơn, càng lúc càng gần lại, luôn luôn gần lại dần. Rainsford trèo lên cây trên một đồi nhỏ. Cách đó khoảng nửa cây số, Rainsford thấy bụi cây động đậy. Ánh mắt căng thẳng của Rainsford nhìn thấy hình bóng gầy của đại tá Zaroff. Ngay phía trước đại tá, Rainsford thấy một hình bóng khác có đôi vai vuông vức nhô ra khỏi cỏ cao. Đó là Ivan, tên khổng lồ. Trông hắn như bị một lực vô hình kéo về phía trước. Rainsford suy ra hắn đang cầm dây dắt bày chó săn.Chẳng bao lâu bọn chúng sẽ đến chỗ Rainsford. Trí óc Rainsford hoạt động rất nhanh. Và anh nhớ đến một cái mẹo mà dân bản xứ ở Ouganda đã chỉ cho anh. Rainsford trượt xuống đất, chụp lấy một cây con mềm dẻo, cột con dao vào đó, lưỡi dao hướng ra con đường mòn. Anh dùng cọng cây nho dại, bẻ và cột cây con lại. Rồi Rainsford chạy hết sức mình. Tiếng bày chó săn tăng lên khi chúng phát hiện dấu vết mới mẻ. Bây giờ Rainsford đã biết một con thú bị dồn đến bước đường cùng cảm thấy như thế nào.Rainsford phải dừng lại để thở. Tiếng chó sủa chấm dứt đột ngột và tim của Rainsford cũng dừng theo. Có lẽ bọn chúng đã đến chỗ con dao.Rainsford leo lên cây, nhìn lại phía sau. Bọn rượt theo anh đã đứng lại. Nhưng tia hy vọng len trong lòng Rainsford khi leo lên cây lại tan biến. Trong thung lũng không sâu, Rainsford thấy đại tá Zaroff vẫn đứng đó. Nhưng Ivan đã biến mất. Con dao, bắn ra nhờ kéo cây con, đã không phải không trúng đích.Rainsford chỉ vừa kịp thả mình trở xuống đất, thì tiếng sủa vang lên tiếp.- Bình tĩnh! Bình tĩnh! Bình tĩnh! Rainsford hổn hển đâm thẳng về phía trước.Bày chó săn vẫn cứ tiến lại gần. Rainsford chạy ra chỗ trống. Anh ra đến đó. Bờ biển. Phía bên kia vịnh, Rainsford nhìn thấy lâu đài đá xám rùng rợn. Không đầy ba mét phía dưới, sóng biển kêu rít và gầm gừ. Rainsford lưỡng lự. Anh nghe tiếng bày chó săn. Khi đó, Rainsford nhào xuống biển, thật xa.Khi đại tá và đàn chó săn đến chỗ Rainsford đã nhảy xuống biển, đại tá dừng lại. Đại tá đứng đó nhìn suốt vài phút, quan sát biển xanh mênh mông. Rồi đại tá nhúng vai, ngồi xuống, uống hớp cognac trong cái chai bạc, châm điếu thuốc thơm, hát lầm rầm một điệu nhạc mà ông ưa thích.Tối hôm đó, đại tá Zaroff ăn một bữa tối ngon lành trong phòng ăn có lợp gỗ ở tường. Có hai bóng tối khiến niềm vui của đại tá không được hoàn hảo: ý nghĩ rằng sẽ khó tìm người thay Ivan và ý nghĩ rằng con mồi đã thoát. Dĩ nhiên, tay người Mỹ này không chơi đúng luật, đại tá vừa nghĩ vừa uống rượu giúp tiêu hoá. Trong thư phòng, đại tá ngồi đọc những đoạn Marc- Aurèle để tự an ủi. Lúc mười giờ, ông lên phòng ngủ. Đại tá cảm thấy mệt mỏi một cách thích thú, rồi khoá cửa phòng lại. Ngoài trời có chút ánh trăng. Trước khi bật đèn lên, ông ra cửa sổ nhìn xuống sân, thấy bầy chó săn to rồi la với chúng:- Lần sau tụi mày sẽ may mắn hơn.Rồi đại tá bật đèn lên.Một người đàn ông đã núp sau rèm cửa sổ, và đang đứng đó.- Rainsford! đại tá hét lên. Làm thế nào anh lên được đến đây?- Bơi, Rainsford trả lời. Tôi thấy bơi nhanh hơn đi bộ qua rừng.Đại tá hít thật sâu, rồi mỉm cười.- Chúc mừng ông, đại tá nói. Ông đã chiến thắng.Rainsford không mỉm cười.- Tôi vẫn còn là một con thú bị dồn đến bước đường cùng, Rainsford nói bằng một giọng khàn và trầm. Đại tá Zaroff, đại tá chuẩn bị đi.Đại tá cúi chào thật thấp.- Tôi hiểu rồi, đại tá nói. Tuyệt! Một trong hai ta sẽ làm bữa ăn cho bày chó săn. Người kia sẽ được ngủ trong cái giường êm ấm này. Chuẩn bị đấu đi, Rainsford à.“Mình chưa bao giờ được ngủ trong một cái giường êm như thế này”, Rainsford nghĩ bụng.