hiến thắng của những người da đỏ và sự tiêu diệt loài người vượn đánh dấu một bước ngoặt may mắn của chúng tôi. Từ nay trở đi, chúng tôi thật sự là những người chủ nhân của cao nguyên này, vì những người bản xứ vừa biết ơn chúng tôi, vừa khâm phục chúng tôi. Họ nghĩ rằng chúng tôi đã dùng những quyền lực kỳ lạ giúp họ tiêu diệt được những kẻ thù truyền kiếp của họ. Vì quyền lợi riêng của họ, có lẽ họ sẽ sung sướng thấy chúng tôi đi khỏi nơi đây nhưng họ không có cách nào mach nước cho chúng tôi được. Nơi này đã từng có một con đường ngầm nối thông với thế giới bên dưới. Con đường ngầm mà khi còn ở bên dưới chúng tôi đã có dịp nhìn thấy cùng với những mũi tên chỉ dẫn của Maple White. Không còn nghi ngờ gì nữa những người da đỏ và bọn vượn người và sau là Maple White đã lên bình nguyên này bằng con đường đó. Có lẽ năm ngoái đã có một trận động đất diễn ra trên vùng đất này và một phần đường hầm đã bị sụp. Những người da đỏ chỉ còn biết lắc đầu và nhún vai mỗi khi chúng tôi làm hiệu cho họ rằng chúng tôi muốn xuống dưới. Những cái lắc đầu của họ khiến tôi phân vân. Họ không muốn giúp chúng tôi rời khỏi hay họ thực sự không biết lối đi xuống? Cuối cuộc chiến những con vượn người còn lại bị những người da đỏ dồn về một chỗ gần nơi cư trú của họ. Từ nay chúng sẽ là nô lệ của những ông chủ da đỏ và trở thành những kẻ đốn gỗ và kéo nước cho đến hết đời. Điều này khiến chúng tôi liên tưởng đến những người Do Thái ở vương quốc Babylon và những người Isarael ở Ai Cập. Đêm đến chúng tôi nghe thấy những tiếng hú rợn người của bọn vượn người như đang nuối tiếc thời kỳ huy hoàng của chúng. Chúng tôi theo những người da đỏ quay về nơi cư trú của họ và hạ trại ngay dưới cửa hang. Họ cũng có ý cho chúng tôi trú vào trong hang nhưng Huân tước Roxton tỏ ý không tán thành vì lo ngại rằng họ sẽ phản bội và cầm giữ chúng tôi trong hang. Vì thế chúng tôi quyết định ở bên ngoài và luôn sẵn sàng ở tư thế chiến đấu nhưng đồng thời cũng giữ mối quan hệ thân thiện với họ. Chúng tôi thường xuyên vào hang thăm họ. Đó là những cái hang đẹp đến nỗi chúng tôi cũng không biết chúng được thiên nhiên tạo ra hay do con người làm ra. Nhưng cái hang nằm trên cùng một địa tầng – vách đá và nền hang được tạo bởi đá granite cứng. Cửa hang cách mặt bình nguyên khoảng tám mươi feet. Lối lên cửa là bậc đá dài, dốc và hẹp. Điều này khiến thú dữ khó mà leo lên được. Không khí trong hang rất khô và ấm áp. Lòng hang chạy thẳng tắp theo vách đá. Vách hang màu nâu được trang trí những bức vẽ hình thú vật tuyệt diệu bằng chất liệu than củi. Trước đây chúng ta đã được biết rằng người da đỏ đã thuần dưỡng được những con thằn lằn răng giông to lớn thành những con gia súc giết thịt cộng với việc sử dụng được những vũ khí thô sơ, chứng tỏ họ đã có một quyền lực trên vùng bình nguyên này. Tuy nhiên, chúng tôi đã sớm nhận ra rằng mình đã lầm, họ chẳng qua chỉ là những người hoàn toàn ngây thơ và lại chịu chi phối bởi một thế lực khác. Ngày thứ ba kể từ khi chúng tôi lập trại thì một thảm họa xảy ra. Giáo sư Challenger và Giáo sư Summerlee đi ra hồ trung tâm nơi những người da đỏ đang bắt thằn lằn bằng những mũi lao. Tôi và Huân tước Roxton đang ở trong lều thì bỗng nghe thấy tiếng kêu thất thanh “Stoa! Stoa!” từ hàng trăm cái miệng. Từ khắp nơi bốn hướng phụ nữ và trẻ em đang chạy nháo nhác leo lên những bậc thang vào hang đá. Họ còn vẫy tay gọi chúng tôi cùng lên đó với họ. Tôi và Huân tước Roxton mang theo hộp đạn và chạy ra xem có chuyện gì xảy ra. Từ trong lùm cây có khoảng mười hai đến mười lăm người da đỏ đang chạy bán sống bán chết. Sau lưng họ là hai con quái vật đã săn đuổi tôi vào cái đêm hôm nọ. Về hình dáng chúng giống như những con cóc, cách di chuyển lại giống như cái lò so nhưng kích thước của chúng thì như một con voi. Chúng tôi đứng chết lặng khi nhìn thấy bộ da bẩn thỉu đầy mụn của chúng. Dưới ánh mặt trời bộ da được chiếu sáng khiến nó giống như ánh cầu vồng ngũ sắc. Chúng tôi chỉ kịp nhìn có một thoáng vì trong nháy mắt hai con quái vật đã nhảy vào giữa đám người da đỏ và cắn xé họ. Cảnh tượng thật vô cùng kinh khủng. Cách tiêu diệt con mồi của chúng là nhảy lên trên và đè bẹp con mồi bằng sức nặng ngàn cân của mình. Những người da đỏ bất hạnh kêu lên hoảng sợ và chạy một cách tuyệt vọng trước khi bị hai con quái vật hạ gục. Hai con quái vật tha hồ giết chóc cho đến khi chỉ còn khoảng vài ba người thì tôi và Huân tước Roxton ra tay. Nhưng sự giúp đỡ của chúng tôi chẳng mang lại hiệu quả mà thậm chí còn kéo chúng tôi vào sự nguy hiểm. Khi hai con quái vật còn cách chúng tôi khoảng vài trăm yard thì súng chúng tôi hết đạn. Mặc dù bắn rất nhiều nhưng có vẻ như chúng không hề hấn gì. Việc bắn súng của chúng tôi chủ yếu làm phân tán chúng để cho những người da đỏ có thời gian tìm chỗ trú ẩn. Trong trường hợp này súng đạn của thế kỷ hai mươi có lẽ lại không có tác dụng bằng những mũi tên tẩm thuốc độc. Khi chúng đã đuổi theo sát chúng tôi đến chân thang đá thì những người da đỏ từ trong các hang bắn tên đá ra. Hai con quái vật không có vẻ đau đớn gì. Chúng cố sức bám vào những bậc thang để leo lên rồi lại nhảy bật lại mặt đất. Nhưng cuối cùng chất độc trong mũi tên đã phát huy tác dụng. Một con rơi phịch xuống đất rồi gục đầu xuống. Con kia chạy quanh đồng bọn và kêu gào thảm thiết được một lúc cũng nằm ngay đơ bên cạnh. Những người da đỏ cùng nhảy múa mừng thắng lợi xung quanh hai con thú. Đêm hôm đó họ xẻ thịt chúng và ném đi. Họ không ăn thịt chúng vì chất độc vẫn còn đang phát tác, hơn nữa thịt của con thú này sẽ là mầm mống cho một căn bệnh hiểm nghèo nào đó. Trái tim của nó to như một cái gối vẫn còn đang đập hí hóp. Sang ngày thứ ba thì nó mới ngừng hoạt động. Một ngày nào đó khi có điều kiện viết lách tốt hơn tôi sẽ miêu tả tường tận những gì diễn ra ở vùng Gỗ Thích Trắng cũng như đời sống của những người da đỏ thuộc bộ lạc Accala. Những ký ức về những ngày trên vùng đất bí hiểm chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhòa trong tôi. Làm sao tôi có thể quên được đêm trăng trên mặt hồ rộng lớn bỗng có một con vật nửa giống sư tử nửa giống cá với hai mắt ở hai phía trên râu còn mắt thứ ba nằm ở ngay trên đỉnh đầu bị sa vào lưới của những người da đỏ. Suýt nữa nó đã lật thuyền của chúng tôi và phải vất vả lắm chúng tôi mới chuyển được nó lên bờ. Cùng buổi tối hôm đó một con rắn xanh cỡ lớn lao như một mũi tên từ trong bụi rậm ra và nuốt chửng một người lái thuyền của Giáo sư Challenger. Chúng tôi còn gặp một loài sinh vật mà đến bây giờ thậm chí cũng không biết đó là một loài thú dữ hay bò sát nữa. Nó sinh sống ở bờ phía tây của hồ và trên mình có ánh sáng phốt pho lập lòe trong đêm. Những người da đỏ thì vô cùng hoảng sợ khi nhìn thấy chúng, họ thậm chí còn không dám đến gần chỗ chúng sinh sống. Con vật có kích thước như một con bò nhưng lại phát ra một thứ xạ hương kỳ lạ chưa từng thấy. Tôi cũng muốn kể cho độc giả nghe về chuyện Giáo sư Challenger đã bị một con chim khổng lồ hình dáng giống như một con đà điểu đuổi đánh như thế nào. Khi ông vừa kịp leo lên cửa hang thì cái cổ dài của con chim đã bổ cho một nhát vào gót giầy và thật kỳ lạ giầy của Giáo sư Challenger bị cắt đứt như bị một nhát kéo. May thay lần này thì vũ khí hiện đại lại cứu Giáo sư Challenger một lần nữa. Con vật cao hơn mười feet nằm giãy đành đạch sau phát súng của Huân tước Roxton. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ viết một cuốn sách hoàn chỉnh về những điều kỳ diệu này. Trong cuốn sách đó nhất định tôi sẽ vẽ minh họa cảnh buổi chiều hè tuyệt diệu như hôm nay. Dưới bầu trời xanh thăm thẳm bốn chúng tôi cùng ngồi bên nhau trên bãi cỏ cạnh rừng già, thỉnh thoảng một vài con chim lạ lại bay ngang qua đầu, đây đó là một vài con thú lạ hoắc bò ra từ những bụi cây giương mắt nhìn chúng tôi một cách tò mò. Trên đầu chúng tôi là những cây trĩu quả, dưới chân là muôn vàn loài hoa khoe sắc. Vào những đêm trăng sáng chúng tôi nằm trên cỏ nhìn ngắm mặt hồ lung linh huyền ảo. Thỉnh thoảng mặt nước lại bắn lên tung lên những tia nước trắng xóa vì những tiếng quẫy đuôi của những loài sinh vật kỳ lạ sống dưới hồ hoặc ngắm nhìn những tia sáng màu xanh phát ra từ thân của một loài sinh vật lạ trong làn nước sâu thẳm. Quý vị độc giả có thể hỏi tôi rằng tại sao chúng tôi lại suốt ngày lãng phí thời gian cho những chuyện nhìn ngắm trên trời dưới biển như thế. Đúng ra chúng tôi phải tập trung vào việc đi tìm đường quay về với thế giới văn minh. Tôi có thể trả lời ngay rằng chúng tôi đã và đang rất cố gắng nhưng thật không may tất cả những cố gắng của chúng tôi gần như là vô ích. Những người da đỏ chẳng giúp được gì cho chúng tôi cả. Thực tế họ là những người bạn vô cùng nhiệt thành (thậm chí tôi có thể nói rằng họ phục vụ chúng tôi như phục vụ những ông chủ) nhưng mỗi khi đề cập đến việc chuẩn bị cho chúng tôi những tấm ván hoặc dây da, dây leo để chúng tôi có thể quay trở về thì họ từ chối, tuy nhiên cách từ chối của họ không có vẻ căng thẳng lắm. Họ chỉ nháy mắt và lắc đầu. Ngay cả người thủ lĩnh cũng có thái độ tương tự. Chỉ có Maresta – anh chàng trẻ tuổi mà chúng tôi cứu sống là thể hiện bằng động tác rằng anh ta rất áy náy về tình trạng của chúng tôi. Sau khi chiến thắng bọn vượn người, họ coi chúng tôi như những siêu nhân có sức mạnh phi thường – sức mạnh đó nằm trong những cái ống sắt (những khẩu súng) và việc chúng tôi ở lại đây là một điều cần thiết cho cuộc sống của họ. Nếu chúng tôi muốn, họ sẽ cấp cho chúng tôi mỗi người một cái hang và một cô vợ da đỏ. Tất cả bọn họ đều tỏ ra tốt bụng với chúng tôi tuy nhiên chúng tôi thấy cần phải tuyệt đối giữ bí mật kế hoạch trở về bởi chúng tôi sợ rằng nếu họ phát hiện ra ý định thì ngay lập tức họ sẽ giữ chúng tôi lại bằng mọi cách kể cả vũ lực. Trong ba tuần lễ bất chấp nguy hiểm từ những con khủng long tôi đã hai lần quay trở lại trại cũ để liên lạc với chàng da đen Zambo – người vẫn đang chờ chúng tôi ở dưới chân núi. - Sớm hay muộn họ cũng sẽ tới thôi massa Malone ạ! Khoảng một tuần nữa những người da đỏ sẽ mang dây lại đây cho massa mà xem! – Zambo hét to lên với tôi như thế. Trong lần quay lại trại lần thứ hai khi tôi đang đến gần vùng đầm lầy thì bỗng nhiên nhìn thấy một vật thể đang tiến về phía tôi. Đó là một người đang đi, thật kỳ lạ là anh ta đi trong một cái chuồng hình chuông được đan bằng những cây lau. Khi đến gần tôi phát hiện ra đó chính là Huân tước Roxton. Khi thấy tôi ông bèn chui ra khỏi cái chuồng kỳ lạ đó và cười to. Tôi nhận thấy phong cách của ông có vẻ bối rối. - Ôi! chàng trai trẻ! Làm sao tôi gặp cậu ở đây cơ chứ! - Ngài đang làm gì vậy? - Tôi đi thăm bạn… những con rắn ấy! - Nhưng tại sao? - Chúng là những con vật thú vị đấy chứ! Tuy nhiên chúng không dễ chịu cho lắm. Chúng tỏ ra vô cùng đáng sợ đối với những người lạ vì vậy tôi phải làm cái khung bằng cỏ lau này để đánh lạc hướng của chúng. - Nhưng để làm gì cơ chứ? Huân tước nhìn tôi và tôi đọc thấy vẻ lưỡng lự trong cái nhìn đó. - Cậu nghĩ rằng chỉ những Giáo sư mới được tìm hiểu mọi vật hay sao? Tôi cũng đang nghiên cứu đấy chứ. Cậu biết như thế là đủ! - Không vấn đề gì! – Tôi nói. - Chàng trai trẻ ạ! Tôi không muốn cậu đi cùng tôi vì cậu không có vũ khí tự vệ. Tôi sẽ quay trở lại vào lúc trời tối – Huân tước nói. Nói rồi Huân tước lại chui vào cái lồng bằng lau và tiếp tục đi vào rừng. Nếu hành vi của Huân tước Roxton có điều gì đó kỳ lạ thì hành vi của Giáo sư Challenger cũng lạ lùng không kém. Tôi phải nói rằng Giáo sư Challenger được những người phụ nữ da đỏ chú ý một cách quá mức. Thậm chí ông phải mang theo một cành cọ to tướng đập túi bụi vào những người phụ nữ da đỏ như đập những con ruồi. Với cành cọ trong tay, bộ râu chĩa ra phía trước, điệu đi rón rén và những cái nhìn ngưỡng mộ của những phụ nữ làm tôi có liên tưởng đến một vai hài Sultan trong các vở kịch. Đó cũng là một hình ảnh mà tôi sẽ ghi nhớ mãi. Giáo sư Summerlee thì mê mải với những loài côn trùng và chim chóc. Ông dành hầu hết thời gian vào việc lau rửa và làm tiêu bản những con côn trùng bắt được. Giáo sư Challenger thường có thói quen đi dạo vào buổi sáng và hầu như lần nào quay trở về ông cũng có dáng điệu rất nghiêm trang như một người đang mang trên mình một trọng trách lớn lao. Một hôm Giáo sư Challenger dẫn chúng tôi đến một nơi bí mật của ông. Đó chính là một khu đất trống nằm giữa một rừng cọ. Đây chính là nơi có mạch hắc ín phun trào mà có lần tôi đã nói. Quanh miệng của giếng hắc ín có rất nhiều những cây dây da được cắt từ da của thằn lằn răng giông và một miếng dạ dày thằn lằn cá rất lớn. Miếng dạ dày được khâu kín chỉ chừa một lỗ nhỏ. Lỗ nhỏ đó được nối với mấy cây trúc rỗng ruột truyền khí ga từ giếng hắc ín lên. Một lát sau tấm dạ dày cá căng lên từ từ và bay lên cao dần. Giáo sư buộc một đầu của cái dạ dày cá vào một thân cây lớn. Chừng nửa giờ sau quả bóng căng dần, và nó cho thấy có thể mang theo một khối lượng tương đối lớn bay lên không trung. Giáo sư Challenger đứng mỉm cười vuốt râu vẻ hài lòng như một người đàn ông lần đầu tiên được làm bố. Ông có vẻ rất thỏa mãn khi chiêm ngưỡng thành quả lao động của mình. Giáo sư Summerlee phá tan không khí im lặng. - Ngài không định cho chúng tôi bay trên quả bóng đó chứ ngài Challenger? – Ông nói vẻ trêu chọc. - Giáo sư Summerlee ạ! Tôi chắc chắn ông sẽ không từ chối ngồi lên nó. - Ngài nên loại bỏ ý nghĩ đó ra khỏi đầu đi! – Giáo sư Summerlee nói với vẻ quả quyết – Không gì có thể làm tôi chấp nhận cái ý nghĩ ngốc nghếch ấy! Huân tước Roxton! Tôi nghĩ rằng ngài sẽ không đồng ý với cái sáng kiến điên rồ đó chứ? - Có vẻ như đó là một điều thật buồn cười! – Huân tước nói – Tôi muốn xem sự thể như thế nào. - Ngài sẽ được xem việc mấy ngày qua tôi đã nghĩ cách cho bốn chúng ta xuống núi như thế nào. Chúng ta đã thống nhất với nhau rằng không có đường hầm nào dẫn xuống bên dưới. Chúng ta cũng không có cách nào làm một chiếc cầu sang bên kia miệng vực. Như thế tôi thấy có trách nhiệm phải tìm một con đường khác. Trước đây tôi có lần nói với anh bạn trẻ Malone rằng cái giếng hắc ín này đang thổi lên không trung khí hydro nhẹ. Tôi đã nghĩ ngay đến chiếc khinh khí cầu. Tôi đồng ý rằng tìm được một vật để chứa khí hydro kia là một điều không đơn giản và cái dạ dày của con thằn lằn cá đã giúp tôi giải quyết vấn đề đó. Hãy xem đây. Giáo sư nói xong và đưa tay chỉ quả bóng đang bay lên. Quả bóng đang tròn dần và kéo căng cái dây buộc. - Thật là điên rồ! – Giáo sư Summerlee vừa nói vừa khịt mũi. - Thật là một ý kiến thông thái! – Huân tước Roxton nói – Thế còn cái thùng làm chỗ ngồi cho chúng ta đâu? - Tôi cũng đã suy nghĩ đến điều đó rồi. Hiện tại tôi chỉ muốn cho các ngài thấy quả bóng thôi. - Nó sẽ mang được cả bốn chúng ta? - Theo tôi nó sẽ không mang được cả bốn người một lúc. Chỉ cần nó có thể mang được một người đã là thành công rồi. Để tôi cho các ngài thấy nhé! Giáo sư Challenger mang ra một cục đất bazan lớn rồi cột nó vào quả khinh khí cầu. Miếng đất bazan được buộc vào những sợi dây nối với quả bóng. Giáo sư quấn sợi dây vòng quanh cổ tay. - Bây giờ tôi sẽ cho các ngài xem khả năng mang vật nặng của quả khinh khí cầu! – Giáo sư Giáo sư nói và dùng dao cắt đứt sợi dây buộc. Thế là cái dạ dày cá được bơm đầy khí bay lên không trung với một tốc độ kinh hồn. Ngay lập tức Giáo sư Challenger cố hết sức ghìm nó lại nhưng có vẻ như quả bóng đang kéo cả ông lên khỏi mặt đất. Tôi lao đến và ôm chặt lấy hông của Giáo sư và tôi cũng bay lên theo. Huân tước Roxton chỉ kịp túm lấy cổ chân tôi và tôi thấy ông cũng bị nhấc bổng lên không trung. Thế là ba nhà thám hiểm cộng với cục đất bazan bay lên không trung như bốn cái xúc xích. Nhưng thật may thay sợi dây đã không chịu đựng được sức nặng và đứt phựt. Cả ba chúng tôi ngã sõng soài trên nền đất. Trên nền trời xanh ngắt cục đất bazan đã chỉ còn là một chấm nhỏ. - Thật tuyệt diệu! – Giáo sư Challenger vừa nói vừa xoa xoa vết xước trên cánh tay – Một cuộc trình diễn tuyệt hảo! Tôi không ngờ rằng nó lại thành công như thế. Tôi hứa với các ngài rằng sau một tuần nữa tôi sẽ làm xong một quả cầu thứ hai và lúc đó chúng ta có thể chuẩn bị trở về nhà được rồi. Đúng buổi tối hôm đó một vận may đã đến với chúng tôi. Trước đây đã có lần tôi nói rằng trong số những người da đỏ thì anh chàng trẻ tuổi mà chúng tôi cứu sống có ý thông cảm với tình trạng hiện thời của chúng tôi. Anh ta không hề muốn giữ chúng tôi ở lại nơi này. Anh ta đã dùng các động tác để tỏ ý rằng anh ta muốn giúp đỡ. Đúng đêm hôm đó sau khi trời tối hẳn, anh ta đến trại của chúng tôi và đưa cho tôi (không hiểu sao anh ta luôn chú ý đến tôi, rất có thể vì tôi trạc tuổi anh ta) một cuộn vỏ cây nhỏ sau đó anh ta chỉ lên những cái hang trên cao. Cuối cùng anh ta chỉ tay vào miệng ý muốn chúng tôi giữ bí mật rồi bỏ đi. Tôi mang một cuộn vỏ cây đến cạnh đống lửa và cả bốn ngồi xem xét nó cẩn thận. Trên tấm vỏ cây là những hình vẽ các đoạn thẳng ngắn mà tôi xin được vẽ ra đây cho các bạn thấy: Những ký hiệu được viết bằng than củi trên nền vỏ cây màu trắng giống như những ký hiệu âm nhạc. - Cho dù nó là những ký hiệu gì đi chăng nữa thì tôi cho rằng nó sẽ rất cần cho chúng ta! – Tôi nói – Tôi cảm nhận thấy điều đó trên mặt anh ta khi anh ta đưa nó cho tôi. - Chắc anh ta là một tay pha trò có hạng. Hài hước là một đặc điểm cơ bản trong quá trình tiến hóa của loài người. – Giáo sư Summerlee nói. - Nhất định đó là những ký tự! – Giáo sư Challenger nói. - Nó giống như những ô chữ đánh đố chúng ta vậy! – Huân tước Roxton nói và nghển cổ nhìn. Sau đó ông ta bỗng nhiên giật lấy tấm vỏ cây. - Lạy Chúa! Tôi nghĩ là đã hiểu anh ta muốn nói gì! Cậu chàng đã đoán đúng. Hãy nhìn đây! Có tất cả mười tám vạch. Các ngài có nghĩ ra điều gì không? Trên kia có tất cả mười tám cửa hang. - Anh ta chỉ lên các cửa hang khi đưa cái này cho tôi! – Tôi nói thêm. - Thế là đã rõ. Anh ta đưa cho chúng ta sơ đồ các hang. Mười tám cái hang trong đó có cái thì thẳng, có cái xiên. Hãy để ý dấu nhân này nhé! Nó có nghĩa là gì nhỉ? Nó cho ta thấy rằng cái hang đó là cái hang sâu nhất! - Một cái hang có đường đi xuyên qua! – Tôi kêu lên. - Tôi nghĩ rằng cậu Malone đã nói đúng! – Giáo sư Challenger nói – Nếu cái hang không có đường xuyên qua thì tôi không nghĩ rằng anh ta lại cố ý đánh dấu nó để thu hút sự chú ý của chúng ta. Nếu như thế thì nó chỉ dài độ khoảng dưới một trăm feet. - Một trăm feet! – Giáo sư Summerlee lẩm bẩm. - Sợi dây của chúng ta dài hơn một trăm feet – Tôi kêu lên – Chắc chắn chúng ta có thể leo xuống được. - Thế còn những người trong hang thì chúng ta tính thế nào? – Giáo sư Summerlee phản đối. - Không có người da đỏ nào sống trong những cái hang đó! Đó chỉ là nhưng cái kho. Tại sao chúng ta không leo lên xem sao? Quanh đây có một loài cây có nhựa rất dễ cháy, đó chính là cây bách tán thường được người da đỏ dùng để làm đuốc. Mỗi người chúng tôi cầm theo một bó để đi xuống đó. Trong đó có rất nhiều dơi. Chúng lao cả vào đầu của chúng tôi. Vì tránh không để những người da đỏ chú ý, chúng tôi đi qua mấy chỗ ngoặt mới dám đốt đuốc lên. Đó là một con đường hầm rất đẹp và khô. Hai bên vách hang là những hình vẽ ký hiệu lạ mắt. Nóc hang hình vòm còn dưới chân chúng tôi là cát trắng lấp lánh. Chúng tôi hối hả bước đi và thật thất vọng sau một hồi mò mẫm chúng tôi đi đến vách cụt. Một phiến đá dựng đứng chặn ngang lối đi. Phiến đá trơn tuột khiến cho tôi có cảm giác nếu như một con chuột cố gắng leo lên thì nó sẽ bị trượt xuống ngay tức khắc. Cả bốn đứng nhìn phiến đá lòng tràn đầy thất vọng. Đó không phải là một phiến đá mới bị di dời ra để chắn đường mà rõ ràng nó đã nằm đó từ lâu. - Đừng nản chí các bạn! – Giáo sư Challenger nói – chúng ta vẫn còn trông cậy vào chiếc khinh khí cầu của tôi. Giáo sư Summerlee rên rỉ. - Hay là chúng ta đi nhầm hang? – Tôi đề xuất. - Không thể nào! Chàng trai trẻ ạ! – Huân tước Roxton nói và chỉ tay vào tấm biểu đồ - Đây là cái hang thứ hai từ trái sang. Tôi nhìn vào tay Huân tước chỉ và bỗng nhảy dựng lên vì sung sướng. - Tôi phát hiện ra rồi! Hãy theo tôi! Tôi hối hả quay trở lại con đường mà chúng tôi vừa đi ngang qua. Tay tôi cầm bó đuốc và chỉ vào những que diêm nằm trên đường. - Đây có phải là nơi chúng ta đốt đuốc không? - Chính xác! - Đây là một cái hang có hai ngách. Chúng ta đã bỏ qua chỗ rẽ sang một nhánh khác vì lúc đó chúng ta chưa đốt đuốc. - Hãy rẽ về phía phải và chúng ta sẽ tìm được đường ra! Đúng như những gì tôi nói. Chúng tôi đi được khoảng ba mươi yard thì phát hiện có một lỗ thông bên thành hang. Chúng tôi bèn đi vào đó và thấy rằng con đường ở đây rộng hơn trước rất nhiều. Bỗng nhiên trong bóng tối lờ mờ chúng tôi nhận ra phía trước có ánh sáng màu đỏ phát ra. Bốn chúng tôi kinh ngạc nhìn về phía đó. Một đám lửa đang cháy chắn mất lối đi. Chúng tôi đi thật nhanh về phía đó. Không có tiếng động cũng như sức nóng tỏa ra từ đó nhưng ánh sáng vẫn làm thành hang như được dát bằng bạc còn cát dưới chân chúng tôi như những hạt vàng. - Ánh trăng! – Huân tước Roxton kêu lên – chúng ta đã qua được rồi! Đúng là ánh trăng đang chiếu qua khe hở in trên vách đá. Chúng tôi nhìn thấy một vết nứt đủ để chui qua. Chúng tôi bèn thò cổ ra ngoài và thấy rằng để leo xuống dưới thật không khó chút nào. Ở vị trí này trước kia chúng tôi đã không thể nhận ra. Điều này thật dễ hiểu bởi vách đá uốn lượn một vòng bao quanh lấy lối lên. Chúng tôi dùng dây leo xuống dưới sau đó lại leo lên và quay về trại để chuẩn bị cho buổi tối tiếp theo. Phải tiến hành nhanh chóng và bí mật bởi rất có thể những người da đỏ sẽ giữ chúng tôi lại. Chúng tôi để lại tất cả nhu yếu phẩm trừ súng đạn. Nhưng Giáo sư Challenger thì mang theo một cái bọc, cái bọc đó sẽ khiến cho chúng tôi mất nhiều thời gian cho việc leo xuống. Ngày hôm đó trôi qua rất chậm chạp, khi màn đêm buông xuống chúng tôi bắt đầu khởi hành. Thật vất vả lắm mới leo lên được cửa hang sau đó quay lại nhìn mảnh đất kỳ diệu này một lần cuối – mảnh đất chứa đựng bao kỷ niệm kinh hoàng cũng như bao điều kỳ thú. Phía bên dưới chúng tôi nghe thấy tiếng cười nói của người da đỏ vọng lên, những cánh rừng dài ngút mất, những con quái vật to lớn. Đột nhiên có tiếng kêu rất to của một loài quái vật huyền bí nào đó xé tan đêm tối. Đó là lời từ biệt chúng tôi của miền đất Maple White. Chúng tôi vội vã đi vào hang. Hai giờ sau chúng tôi đã có mặt dưới chân núi. Chỉ có bọc hành lý của Giáo sư Challenger là khiến chúng tôi rất vất vả. Chúng tôi bỏ lại tất cả đống hành lý tại nơi vừa leo xuống và tức tốc đi tìm Zambo. Đến sáng hôm sau chúng tôi mới tới được trại của Zambo và thật ngạc nhiên lúc này không phải chỉ có một đống lửa mà có hơn một chục đống lửa. Đội cứu hộ da đỏ của chúng tôi đã tới. Có khoảng hai mươi người mang theo cọc và dây để làm cầu bắc qua miệng vực. Ít ra với lực lượng như thế chúng tôi sẽ không phải lo lắng gì về những kiện hành lý của mình khi quay về khu rừng Amazon. Tôi xin khép lại câu chuyện ở đây. Chúng tôi đã được tận mắt ngắm những kỳ quan của tạo hóa và được trải qua những giờ phút nguy nan chưa từng thấy. Mỗi người chúng tôi đều đã trở thành những người trầm tư hơn và trưởng thành hơn. Rất có thể khi quay về đến Para chúng tôi sẽ dừng lại để chỉnh đốn đội hình. Tôi nghĩ đến giây phút được bắt tay McArdle.