Chương 1
1

    
ao thế, giọng con nghe như không khỏe. Đã ăn tối chưa? À khoan, đợi đã, có chuyện này hệ trọng lắm. Khi nãy cô Sasaki gọi điện tới…Ừ, đúng rồi, là cô Sasaki đó. Ở trang viên Cây Dương ấy.”
Nghe mẹ nói thế qua điện thoại, tôi vừa thoáng nghĩ bao năm rồi mình chẳng có lúc nào thong thả để nhớ đến những ngày sống cùng bà cụ, thì sực hiểu ra ngay: “Ôi, bà cụ mất rồi!”
Bà cụ là chủ khi căn hộ cho thuê nơi mẹ con sống trong ba năm. Bố mất năm tôi lên sáu, sau đó ít lâu, mẹ dọn khỏi ngôi nhà chúng tôi đang ở và tới khu căn hộ cho thuê của bà cụ, “Trang viên Cây Dương.” Cô Sasaki, người vừa liên lạc với mẹ, cũng sống ở đó.
“Buổi sáng, cô Sasaki gọi bà dậy nhưng không thấy bà trả lời, có vẻ như bà đi trong lúc ngủ.”
“Sáng hôm nào cơ?”
“Sáng nay.”
Tôi hít một hơi thật khẽ. Nếu là sáng nay thì dù bà có xuất hiện trong mơ để chào từ biệt, tôi cũng chẳng thể biết được vì đang ngủ mê mệt. Tôi bị lệ thuộc thuốc ngủ, phải uống thuốc mới ngủ ngon, thi thoảng, không rõ là cách bao lâu, tôi lại gặp ác mộng khủng khiếp. Trong giấc mơ đêm qua, tôi thấy mình là xác con cá to kinh dị bị ném xuống một nền bê tông mênh mông. Trong những cơn ác mộng tôi thường gặp, tình tiết đó rất hay xuất hiện.
“Bà bao nhiêu tuổi rồi mẹ nhỉ?”
“Chín tám, vậy là bà đã ra đi thanh thản.”
Thế thì hồi chúng tôi sống ở đó, bà cụ cũng phải tám mươi rồi. Thế mà bà vẫn nói với tôi, khi ấy mới bảy tuổi, rằng: “Bà sẽ cố gắng sống đến ngày cháu trưởng thành.” Ở cái tuổi tám mươi, nói được như vậy đòi hỏi một quyết tâm thực sự, và bà cụ đã thực hiện lời hứa một cách thật xuất sắc.
“À còn nữa, bà có để lại một số thư, cô Sasaki gọi điện vì việc đó.”
“Để lại gì kia?”
“Những - lá - thư,” mẹ hơi hạ giọng, chậm rãi nhắc lại.
“Cô Sasaki nói vậy?”
“Ừ,” mẹ đáp nhưng không nói thêm gì về những lá thư nữa. “Có nên gửi hoa không nhỉ…”
Mẹ tái hôn và chúng tôi rời trang viên Cây Dương khi tôi lên mười. Từ đó trở đi, cả mẹ và tôi đều không gặp lại bà, nhưng dĩ nhiên, chúng tôi vẫn thư từ qua lại với nhau, đôi khi còn gửi cả ảnh. Có điều, “những lá thư” mà cô Sasaki nói đến chắc không phải mớ thư đó. Mà là những lá thư tôi viết hồi bảy tuổi rồi gửi bà cất, chúng được cất trong ngăn tủ quần áo màu đen. Vậy ra bà để giữ chúng trong suốt ngần ấy năm
“Hoa, mẹ gửi hoa đi.”
“Sao?”
“Con sẽ tới đó. Nếu đi máy bay thì nhanh thôi.”
“Thế còn bệnh viện, sẽ không sao chứ?”
Từ ngày tôi bỏ bệnh viện nơi mình làm y tá, thấm thoát đã gần tháng trời. Việc này tôi không hề cho mẹ biết.
“Mẹ không phải lo chuyện đó.”
“Mẹ có lo lắng gì đâu,” mẹ yên lặng trong giây lát. “Dù là chuyện gì thì con cũng tự quyết định hết mà.”
“Vâng.”
“Thế nhé, gửi lời hỏi thăm hộ mẹ tới cô Sasaki.”
“Vâng, con nhớ rồi.”
Tôi cúp máy rồi ngồi ngây ra một lúc. Thôi, thế là đã xa nhau mãi rồi. Cả bà cụ, cả trang viên Cây Dương, cả khu vườn có cây dương ấy và tất cả những điều tôi từng cho là “tốt đẹp” dù không thực sự hiểu. Ba năm ngắn ngủi sống ở trang viên Cây Dương, giờ đây tôi chỉ có thể nhớ đến như nhớ một câu chuyện trong giấc mơ mà thôi.
Tôi bỏ và túi du lịch quần áo lót để thay, đồ vệ sinh cá nhân và cả túi giấy đựng thuốc rồi kéo roẹt phéc mơ tuya. Đi có một, hai ngày mà mang cả đống thuốc ngủ theo thế này, đúng là ngớ ngẩn, tôi lẩm bẩm. Nhưng thực tâm có lẽ tôi không cho điều đó là ngớ ngẩn chút nào. Chẳng phải lúc nào mày cũng chăm chăm nghĩ tới những viên thuốc ấy hay sao, một giọng nói khác vang lên trong tôi. Tôi lắc đầu. Không biết tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng tôi biết, ít ra thì đêm nay, tôi sẽ không mơ thấy mình thành xác cá nữa. Ngày mai, tôi sẽ lên máy bay đến tiễn biệt bà cụ. Cũng chỉ có ngần ấy việc phải làm thôi.
Tôi trèo lên giường, lặng lẽ nhắm mắt. Tiếng lá cây dương xào xạc bên tai, như rủ rê tôi: “Cùng trò chuyện nào, cùng nói chuyện nào.” Âm thanh dễ chịu và khô hanh của mùa thu, tôi nhận ra ngay đó không phải âm thanh từ ngoài kia vọng vào.

2.
Sau vài ngày cuộc sống đảo lộn vì bố ra đi đột ngột do tai nạn giao thông, mẹ lại trở về chăm lo việc nhà như trước. Nhưng ít lâu sau, một hôm mẹ bất ngờ chìm vào giấc ngủ. Mẹ ngủ suốt. Khoảng bao lâu nhỉ? Một tuần, à không đến, đó là do tôi cảm giác lâu vậy thôi chứ thực ra có lẽ chỉ khoảng ba, bốn ngày. Tôi vẫn nhớ khi kỳ nghỉ hè bắt đầu, mẹ còn đang ngủ, và tôi - mới lớp Một tiểu học - phải ăn cá hồi đóng hộp những khi thấy đói. Thật kỳ lạ là tủ bếp nhà tôi lại chỉ toàn cá hồi đóng hộp. Những con cá hồi vẽ trên nhãn hộp có ánh mắt lạnh lùng vô cảm, và hiển nhiên chúng không phải đối tượng để trò chuyện. Từ sau lần đó, tôi không bao giờ dám ăn cá hồi đóng hộp nữa. Cả bây giờ cũng vậy, mỗi lần nhìn thấy những hộp cá hồi chất cao trong cửa hàng thực phẩm, gan bàn chân tôi chợt lạnh ngắt.
Khi tôi đã ăn hết chỗ cá hồi đóng hộp dễ bằng lượng người ta ăn trong cả đời, thì cũng bất ngờ như khi chìm vào giấc ngủ, mẹ đột nhiên tỉnh dậy. Lần này, mẹ dẫn tôi đi theo, hai chúng tôi lên tàu điện. Không định trước sẽ đi đâu. Chỉ là bước lên một chuyến tàu, chẳng cần biết nó sẽ đi đâu, rồi xuống ở một ga bất kỳ. Dưới nắng hè thiêu đốt, hai mẹ con tôi lang thang vẩn vơ khắp những đường phố xa lạ. Chúng tôi ăn mì lạnh ở một cửa hàng vừa tiền, rồi lại lên tàu điện.
Suốt quãng thời gian đó, tôi và mẹ hầu như im lặng, không nói gì với nhau. Tôi hiểu, sâu tận đáy lòng, mẹ không muốn nhắc đến bố. Phần tôi, khi nghe tin bố mất, tôi đã vô cùng đau khổ. Nhìn bố nằm trong quan tài, đầu quấn băng, tôi bật khóc lên thành tiếng. Nhưng giờ tôi cảm thấy tựa như có một lớp màng bao bọc lấy tim mình, tôi không nhớ được mấy những điều về bố khi ông còn khỏe mạnh. Có lẽ bởi nỗi thương tiếc dữ dội mà mẹ vẫn ôm trong lòng dần dần chuyển thành căm giận và thái độ cự tuyệt dành cho thế giới xung quanh đã truyền sang tôi.
Buổi tối, trở về nhà khi toàn thân đã mệt bã, hai mẹ con cùng nhào xuống đống chăn nệm vẫn còn trải nguyên từ sáng và ngủ li bì. Không có ký ức vui nào trong chuỗi ngày lang thang ấy, nhưng chỉ cần được lặp đi lặp lại hành trình này mỗi ngày, ít nhất cũng có điều gì đó còn lại trong lòng mẹ. Một đứa bé sáu tuổi như tôi chỉ nghĩ được đến vậy. Hơn nữa, so với chuyện chỉ có mỗi món cá hồi đóng hộp để ăn, đi lang thang tất nhiên sướng hơn gấp cả trăm
Nhưng rồi như một điều bất ngờ thú vị, chúng tôi chợt phát hiện ra trang viên Cây Dương trong một chuyến lang thang bằng tàu điện.
Hôm ấy, hai mẹ con tôi lên một chuyến tàu vắng ngắt ra ngoại ô, đó là một hành trình thật dài. Chúng tôi chọn ga tới một cách ngẫu nhiên. Ở đó, khi xuống tàu, từ sân ga có thể nhìn thấy vùng bờ sông bên dưới. Nhăn nhó trong ánh nắng chói chăng hắt lên từ những tấm bê tông, chúng tôi rảo bước về phía đầu sân ga. Cả dòng sông, bãi cỏ đến cây cầu và mặt đất đầy bụi bặm cùng phơi mình dưới cái nắng như đổ lửa. Sông cạn, dòng nước trôi lờ lững, còn bầu trời thì bao la dị thường. Tôi hít vào một hơi thật đầy, bất chợt muốn thốt lên điều gì đó, kiểu như “Làm sao bây giờ?”
“Mẹ con mình ra cửa soát vé nhé?”
Tôi hồi bắt đầu lang thang trên những chuyến tàu điện thế này, chưa bao giờ mẹ hỏi ý tôi. “Lên đây nhé!” hay “Xuống đây nhé!” cũng không. Vì vậy tôi tỏ ra ngạc nhiên.
“Con không muốn à?” mẹ hỏi.
Tôi lắc đầu ngay, “Không phải đâu ạ.”
Tôi chợt nghĩ mình cần phải ngoan, không được phép trái lời, liền chăm chăm nhìn thẳng về phía trước và rảo bước bên cạnh mẹ đang hối hả đi.

°

°

Ra khỏi khu phố mua sắm trước nhà ga sẽ thấy một trạm cứu hỏa. Gần trạm cứu hỏa là một dòng sông bẩn như mương thoát nước. Chúng tôi cứ thế men theo dòng nước, qua một khu dân cư không có gì đặc biệt, không biết sẽ đi tới đâu. Tôi nghĩ lúc đó tầm hai giờ. Lối đi dọc bờ sông không một bóng râm, mặt trời thiêu đốt hết tất thảy bằng cái nóng khủng khiếp chặn đứng cả âm thanh, khiến cho không còn nghe nổi tiếng ve kêu, không thấy một bóng người cũng như bóng chim bay, còn bi đông nước của tôi thì khô rốc. Tôi chẳng hiểu mình đã bị tụt lại phía sau từ lúc nào, chỉ biết cố lê chân và chằm chằm nhìn theo lưng mẹ.
“Ta tới đó nhé!”
Đột nhiên, mẹ đứng lại và gọi, đúng vào lúc trí óc tôi gần như ngừng hoạt động, tuy hai chân còn chưa dừng hẳn, cái trán dô dính bết những sợi tóc đẫm mồ hôi va nhẹ vào bên hông mềm mại của mẹ. Tôi từ từ ngẩng đầu lên, ngơ ngác nhìn theo hướng mẹ chỉ.
“Con nhìn kìa, cái cây đó. To quá nhỉ!”
“Vâng ạ.”
Từ giữa các mái nhà của khu dân cư sừng sững vươn lên một cái cây cao, còn cao hơn cả cột điện. Không thấy có gió thổi, nhưng ở trên vòm lá vẫn lay động, chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến người ráo mồ hôi.
“Mẹ con mình tới xem cái cây đó nhé!”
“Vâng,” tôi gật đầu.
“Chiaki, người con đầm đìa mồ hôi kìa. Bi đông nước của con đâu?”
“Con uống hết mất rồi. Nhưng không sao đâu.”
Ý nghĩ phải cố gắng khiến tôi ráng sức bước lên vượt trước mẹ. Cứ thế, hai mẹ con xuôi theo một quãng bờ sông, rồi rẽ ra xa dần cho đến khi dòng nước lùi hẳn lại phía sau lưng thì bước vào một con đường, đủ rộng cho ô tô chạy và thấy ngay khu vườn có cái cây lớn.
Khu vườn còn xa mới được gọi là cỏ rả sạch sẽ và đẹp đẽ tươm tất, dẫu chẳng đến mức bị bỏ bẵng không ai chăm lo và cũng không phải kiểu được trang hoàng cầu kỳ, hiển nhiên nó không phải một nơi bỏ hoang. Dễ nhận ra, khu vườn phát triển được thế này là nhờ người chăm sóc, gieo hạt suốt một thời gian dài, nhưng có vẻ người chủ thấy thế là đủ rồi, không có ý định tỉa tót thêm làm gì. Cây phong tươi tốt lá xanh, khóm trúc đào nở bung những đóa hoa đỏ, vươn cành chạm sang tận mái kho chứa đồ của nhà bên, cây nguyệt quế Nhật lá bóng láng, hoa tú cầu duyên dáng xù lên. Những bông hoa ly màu hồng cam lấp ló đây đó, không ra hàng lối nào, một chiếc lò than màu xanh có nhiều mãn nguyện đang ngồi phệt dưới nền đất. Còn chính giữa khu vườn là cái cây lớn đứng sừng sững, tán lá thi thoảng lại lay động nhè nhẹ theo cơn gió nhẹ trên cao. Ngước mắt nhìn lên, tôi chợt muốn được ngả vào đó mà ngủ một giấc ngon lành.
“Chiaki, Chiaki!”
Mẹ vẫy tay gọi tôi. “Mẹ biết đó là cây gì rồi.”
“Cây gì hả mẹ?”
“Cây dương
“Con nhìn kìa,” mẹ chỉ. “Khu căn hộ cho thuê Cây Dương” - đó là tấm biển tên bằng gốm trắng gắn trên trụ cổng là những khối bê tông vuông chồng lên nhau. Cái tên ấy nghe thực kỳ cục đối với tôi. “Khu căn hộ cho thuê Cây Dương, khu căn hộ cho thuê Cây Dương.”
“Không phải nhà ở bình thường. Tầng hai là để cho thuê.”
Mẹ lẩm bẩm như đang nói một mình.
Hướng Bắc ngôi nhà trông ra con đường chạy dọc bờ sông và có một cầu thang ngoài. Trên lối đi tầng hai có ba cửa ra vào, hai trong số đó có máy giặt kê đối diện cửa. Một khu căn hộ bằng gỗ và khó có thể gọi là khang trang.
“Chiaki này, mẹ con mình mà sống ở đây thì sao nhỉ?”
Đó là câu hỏi thứ hai trong ngày, đường đột đến nỗi dù mẹ rất mong đợi câu trả lời, lưỡi tôi cứ đơ ra, chẳng nói được gì. Nhìn về phía mẹ đang nhìn, tôi thấy trên cánh cổng sắt hé mở có một tấm biển bằng bìa các tông buông xuống.
“Còn phòng trống, vì thế…”
“Phòng trống ạ?”
“Ý nó là mẹ con ta có thể chuyển đến đây được đấy.”
Chuyển nhà tới đây, có vẻ là một ý khá hay. Tôi đã lờ mờ nhận ra rằng trước sau gì chúng tôi cũng sẽ phải rời khỏi ngôi nhà đang sống, và tôi cũng đã kịp thấy thích khu vườn này rồi.
“Vâng, nếu mẹ muốn thế.”
“Thế Chiaki thì sao?”
“Con nghĩ là được ạ.”
Mẹ nhìn tôi một lát, rồi không do dự nữa, mẹ bước thẳng vào trong.

°

°

Căn phòng được bố trí kiểu căn hộ cho thuê thông thường. Từ hướng Bắc, bước vào cửa sẽ gặp ngay khu phụ, rồi một phòng nhỏ rộng khoảng bốn chiếu rưỡi ngăn bằng vá gỗ, kế đó trông về hướng Nam là một phòng trải sáu tấm chiếu bạc phếch vì nắng. Chỉ mang theo những hành lý phù hợp nhất, hai mẹ con tôi chuyển đến căn hộ đó. Mẹ vứt bỏ không thương tiếc những thứ không mấy cần thiết. Sau khi đã quyết định được chỗ ở mới, mẹ mau chóng dọn khỏi nhà cũ, tất cả mọi việc được tiến hành chóng vánh đến mức khó có thể hình dung nổi nếu đã quen với tính điềm đạm thường ngày của mẹ.
Chỉ có ba căn hộ cho thuê và đều nằm trên tầng hai. Từ hướng Tây, phía có cánh cổng, phòng đầu tiên của một phụ nữ độc thân tên là Sasaki, cô làm việc cho một công ty may mặc; chính giữa là phòng của bác tài xế taxi Nishioka, hẳn nhiên là bác sống một mình; còn chúng tôi trở thành chủ nhân của căn phòng nằm trong góc, sẽ thấy ngay khi leo lên hết cầu thang.
Bà cụ chủ nhà sống một mình dưới tầng một. Nghe nói sau khi người chồng, vốn là giảng viên văn học Trung Quốc tại trường đại học, qua đời, bà sửa sang lại ngôi nhà và biến nó thành khu căn hộ cho thuê từ đó. Còn chuyện này thì mãi về sau tôi mới biết, người ta bảo rằng cái tên dài dòng “Khu căn hộ cho thuê Cây Dương” là do nhân viên văn phòng bất động sản, nơi giúp tìm kiếm những người khách trọ đầu tiên, đặt cho; nghe nói ban đầu bà cụ muốn đặt tên khu nhà là “Trang viên Cây Dương” nhưng rồi bị thuyết phục bởi lý do “Khu căn hộ cho thuê” - mà sau này được chọn - nghe hiện đại hơn nhiều. Khi chúng tôi chuyển tới, chủ nhà, hàng xóm, thậm chí là cả nhân viên bưu điện, tất cả mọi người đều gọi nơi này là trang viên Cây Dương như một lẽ dĩ nhiên vậy.
Bà cụ là một người khó tính, chẳng dễ gần chút nào. Thực lòng mà nói, dù sợ nhưng tôi vẫn có chút cảm giác thích thú đối với bà cụ, như kiểu ta tò mò muốn nhìn những thứ đáng sợ vậy, nhưng quả thực giữa “đáng sợ” và “muốn nhìn” có một sự mất cân bằng ghê gớm. Nói gì thì nói, bà cụ cũng thật đáng sợ.
Cái trán dô chi chít nếp nhăn hằn sâu của bà rộng và lồi hẳn ra. Răng hàm trên chẳng còn chiếc nào, răng hàm dưới chỉ còn ba cái, có lẽ vì thế mà cằm bà nhô ra, phần giữa khuôn mặt lại lõm vào thành hình vòng cung. Khuôn mặt gãy hõm cả vào kiểu ấy phải nói là giống hệt thủy thủ Popeye(1). Ở đáy lòng chảo giữa cằm và trán, hai con mắt đung đưa sắc lẻm tiết lộ lai lịch của bà: bà chính là Popeye một ngày nọ uống phải thứ thuốc đáng ngờ nào đó và biến thành người xấu.
Cả đồ vật trong nhà bà cụ cũng quá đáng sợ đối với một đứa trẻ. Có lẽ bà khó chịu với ánh nắng lọt vào phòng nên chỉ mở duy nhất một tấm cửa chớp. Hôm đầu tiên đi hai mẹ con tôi lần bước tới theo lời mời gọi của cây dương kia đến đây, từ hành lang tôi đã lén nhìn vào căn phòng âm u, thấy những bước tường bị chôn vùi hoàn toàn sau đống sách và một con rồng đá trang trí trừng trừng nhìn mình. Một lá bùa màu đỏ sống động như trong mơ - nó viết gì nhỉ, là thần chú chăng, cái dãy chữ Hán rắc rối đó - dán hành lang chỗ sát trần nhà.
Tuy nhiên, lý do chính khiến tôi hãi bà cụ lại là ở một điều thực tế hơn nhiều. Ngay từ ban đầu, bà đã nói không muốn nhận cho trẻ con vào khu nhà này. Mẹ phải nài nỉ mãi, rốt cuộc tôi cũng được phép ở lại, nhưng vẫn cứ sợ nơm nớp lỡ làm gì không vừa ý bà cụ thì sẽ bị đuổi phắt khỏi đây. Tuy chỉ là một căn hộ cho thuê, nhưng với tôi khi ấy đó là nơi chốn ổn định mà khó khăn lắm tôi mới có được sau chuỗi ngày dài chỉ biết đến cá hồi đóng hộp và tàu điện.
Ngày ngày, mẹ ra ngoài tìm việc. Tôi một mình ngắm cây dương qua cửa sổ và lặng lẽ đi qua những ngày cuối cùng của mùa hè năm đó. Cả thế giới của tôi chỉ loanh quanh với tán lá dương rung rinh không dứt, lũ chim bay tới đậu trên cây và những bóng lá chen lá biến đổi theo bước đi của ông mặt trời. Cả khi ăn hai nắm cơm mẹ chuẩn bị sẵn cho tôi để ăn trưa, tôi cũng hướng về cái cây ấy. Chiều xuống, bà cụ để hương trừ muỗi dưới chân, phủ khăn mặt lên đầu và bắt đầu nhổ cỏ, tôi cũng hơi ló người qua cửa sổ, không phải để nhìn bà mà là để thấy cái cây. Tôi cứ hướng đến cái cây vì muốn chuyện trò với nó, hay do chán nản, buồn bã nhỉ? Tôi chẳng còn nhớ chút nào về những cảm xúc ấy nữa. Tính ra thì sau này, chưa có mùa hè nào của tôi tĩnh lặng như mùa hè năm đó. Ngay cả bây giờ, hình ảnh mùa hè trong tôi vẫn là những bóng râm thẫm dần bởi sự chói chang của ánh nắng và khoảng tĩnh lặng gói ghém bên trong bóng râm ấy.

°

°

Thế rồi những ngày yên ả đó cũng kết thúc khi tháng Chín về. Tôi bắt đầu đi học.
Tôi được chuyển từ trường tiểu học nữ sinh tư thục đang học sang một trường tiểu học công lập gần trang viên Cây Dương. Dĩ nhiên cũng là vì vấn đề khoảng cách, nhưng tôi nghĩ, với một người vừa được nhận vào làm ở nơi tổ chức lễ cưới sau những ngày dài chạy đôn chạy đáo tìm việc như mẹ thì học phí hàng tháng của trường tư thục hẳn là một gánh nặng. Lương thẩm phán của bố ngày trước cũng thuộc loại khá nhưng cũng không đủ để có cái gì đó gọi là tài sản để lại. Tôi vẫn là học sinh lớp Một, bố mất khi tôi còn đang dở dang học kỳ thứ nhất, sau đó thậm chí tôi còn không đến trường, vì vậy cũng chẳng có cảm giác lưu luyến gì với trường cũ cả nên tôi thấy hơi ngạc nhiên lúc nghe mẹ nói “xin lỗi” như thế mẹ đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng như vậy.
Thế nhưng đến khi đi học thực sự, trường học lại trở thành một vấn đề nhức nhối đối với tôi. Từ bọn bạn cùng lớp cứ hò hét xông vào nhau tới các giáo viên gào thét trong bộ quần áo thể thao, tất cả đều rất khác so với trường cũ chỉ toàn con gái, làm sao tôi có thể kết bạn được trong một ngôi trường nhộn nhạo như thế này, song đó không phải là điều duy nhất khiến tôi khổ sở.
Từ sau khi trở lại trường học, biết bao suy nghĩ lại ùa đến bủa vây tôi. Bố đã đi đâu nhỉ? Bỗng nhiên một ngày bố đi đâu mất? Thế là thế nào. Sao đột nhiên lại không còn bố nữa? Liệu có phải bố sẩy chân rơi xuống lỗ cống đang mở nắp rồi biến mất giống như nhân vật siêu hậu đậu trong truyện tranh hay không?…
Đương nhiên, tôi cũng có mặt trong lễ tang, cũng sợ hãi khi thấy trên khuôn mặt bố trong quan tài có gì đó rất khác so với khi còn sống. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi hiểu cái chết của bố. Bố của tôi, phải chăng ông đã đi đâu mất rồi?
Trong suốt mùa hè, kể cả khi có cả hai mẹ con lẫn khi chỉ có một mình, tôi chẳng mảy may suy nghĩ về điều đó. Có lẽ vì tôi không chủ tâm suy nghĩ, và cũng chưa đến lúc có thể suy nghĩ về chuyện như thế. Nhưng khi ra ngoài, tôi luôn bị xâm chiếm bởi cảm giác thế giới này nhan nhản những lỗ cống há miệng ở khắp mọi nơi, một thế giới mà dẫu chỉ sơ ý một chút thôi cũng không thể được. Cả mẹ, cả tôi, một lúc nào đó cũng sẽ rơi xuống cái hố đen ngòm ấy, không cách nào trở về, giống như bố. Bạn bè, thầy cô ở trường đều rất tươi vui, hào hứng và đầy sức sống, tôi không nghĩ có ai trong số họ biết về những hố đen đang ám ảnh tôi, và tôi thấy cô đơn vô cùng.
Tôi không tiết lộ với bất cứ ai về nỗi sợ của mình. Dĩ nhiên, kể cả mẹ. Ngay cả một đứa trẻ như tôi cũng nhận ra rằng mẹ vẫn không muốn nói chuyện về bố, vẫn nhất định không chấp nhận sự thật bố đã mất rồi. Chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu thấy khó chịu và tức giận cái thái độ cự tuyệt bướng bỉnh ấy, thậm chí tôi còn trách móc mẹ nữa. Nhưng hồi ấy, tôi cũng chỉ nghĩ được rằng không được nhắc đến bố, dù sao thì mẹ trước mắt tôi đã đủ khổ sở rồi, vả lại chắc mẹ cũng gặp nhiều khó khăn ở chỗ làm mới. Rời trường nữ thục, mẹ kết hôn ngay với bố, hơn mẹ những 12 tuổi, và suốt một thời gian dài cho tới khi sinh tôi, mẹ chỉ ở nhà nên gần như chẳng có chút kinh nghiệm làm việc nào. Mẹ, người luôn điềm tĩnh trước mọi chuyện, giờ luôn phải thức khuya ghi chép với đôi mắt mệt mỏi kiệt cùng, thế nên dù thế nào tôi cũng không thể làm mẹ lo lắng.
“Trường học vui không con? Con có bạn rồi chứ?”
“Vâng. Tuyệt mẹ à!”
Nếu mẹ hỏi, tôi sẽ trả lời như vậy. Rồi sáng sáng, tôi sẽ lại nghiến răng bước ra khỏi nhà, hướng về cái thế giới đầy rẫy những lỗ cống không đáy đang há hốc cái miệng đen ngòm mà có lẽ do các vị thần đã quên không đậy nắp. Tôi làm bài tập rất cẩn thận và chẳng bao giờ lỡ quên cái gì. Vậy mà giờ nhớ lại, tôi chỉ thấy khoảng thời gian đó ngập tràn căng thẳng sợ hãi rằng mình sẽ sơ sẩy điều gì. Tôi đã nghĩ, luôn cẩn trọng và không phạm lỗi là cách duy nhất để không bị lôi tuột xuống những hố đen mà chẳng biết khi nào và ở đâu sẽ xuất hiện.

°

°

Ngày qua ngày, căng thẳng cứ lớn dần lên. Tôi kiểm tra đồ trong cặp sách tới ba lần trước khi đi ngủ, và sáng dậy, nếu không xem lại thêm lần nữa tôi sẽ chẳng thể yên tâm ra khỏi nhà. Trong lúc kiểm đồ, tôi chợt nảy ra ý nghĩ, không chừng thời khóa biểu thay đổi rồi cũng nên. Thế là tôi nhét tất cả sách vở vào cặp, những thứ thừa ra tôi bỏ vào túi xách bằng vải bạt rồi mang cả đi. Ngày ngày, tôi đi đi về về trên cùng một con đường, lưng còng xuống vì mang đồ quá nặng, trông tôi chẳng khác nào một bà già khư khư giữ của.
Người ta vẫn bảo rằng, nỗi lo lắng giống như một mầm cây, ngắt đi rồi sẽ mọc lại, bởi thế ngay khi nỗi sợ quên đồ dần tan biết, tôi lại bị tấn công bởi một nỗi lo sợ mới. Vì mẹ luôn là người ra khỏi nhà trước nên tôi thường phải tự khóa cửa rồi đến trường. Nhưng trên đường đi, nỗi sợ bất chợt lại ập đến, tôi không biết mình đã khóa cửa cần thận hay chưa…
Hạt mầm lo sợ mới này lớn nhanh như thổi, giống như cây đậu trong “Chuyện chàng Jack và cây đỗ tương”. Thế là dù đang vác theo một đống đồ nặng, tôi vẫn tất tưởi về nhà kiểm tra lại khóa cửa. Chưa đầy một tuần sau, hằng ngày tôi không thể đến trường mà chưa thực hiện trình tự ấy đủ ba lần, mỗi lần quay về nhà là từ ba điểm khác nhau trên đường đi. Dĩ nhiên, lần nào cửa nhà cũng luôn được khóa chắc chắn. Cả việc nhà đột nhiên bị cháy rụi cũng không hề xảy ra. Nhưng nếu không kiểm tra lại cho chắc chắn, tôi sẽ không ngừng bị nỗi lo “sắp có điều gì xấu xảy ra” hành hạ.
Khi chắc chắn cửa nẻo đã được khóa kỹ càng, nỗi lo tiếp theo là đi học muộn. Đường tới trường mất khoảng mười phút đi bộ, nhưng do mang đồ nặng, lại hết lần này đến lần khác quay về nên tôi thường phải ra khỏi nhà một tiếng trước khi giờ học bắt đầu. Nghĩa là phải dậy thật sớm. Nghĩa là nếu ngủ quên thì sẽ rắc rối to…
Đến trường suôn sẻ, tôi lại lo về mẹ. Liệu mẹ có gặp tai nạn giao thông giống như bố không? Liệu mẹ có vất vả quá mà mắc bệnh không? Hay, liệu ngay lúc này đây mẹ có đang cần tôi giúp đỡ?...
Song nói gì thì nói, kinh khủng nhất vẫn là vào ban đêm. Cứ hễ tôi chui vào chăn và nhắm mắt là cái nắp cống trong đầu lại chuyển động, rồi cái hố đen ngòm bắt đầu cất tiếng: “Trong khi mi ngủ say sưa, những thứ quan trọng của mi sẽ thuộc về ta…”
Tôi luôn giả vờ ngủ và chờ mẹ nằm xuống. Cho đến khi nghe rõ tiếng mẹ thở khe khẽ, tôi mới dần thiếp đi. Vừa nhắm mắt vừa cầu mong sao mình đừng dậy muộn.

°

°

Điều lạ là tôi hoàn toàn không nhớ gì về lễ Bỉ ngạn(2) năm đó. Không thể có chuyện chúng tôi không làm gì trong tuần thu phân đầu tiên sau khi bố mất, liệu có phải tôi đã chìm đắm trong thế giới riêng đến độ rủ bỏ cả những điều như thế khỏi ký ức mình?
Vào một sáng đầu tháng Mười, tôi bị sốt cao.
“Nếu đến chiều mà nhiệt độ vẫn không hạ thì con đi viện nhé”
“Thế việc của mẹ thì sao?”
“An tâm, chỉ nghỉ có một ngày thôi mà…”
Lâu rồi tôi mới thấy thoải mái như vậy. Nhờ cơn sốt, cảm giác có lỗi vì đã khiếm mẹ phải nghỉ làm cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Tôi thiêm thiếp ngủ, việc phải làm chỉ là kẹp cặp nhiệt độ dưới nách mỗi khi mẹ bảo và ăn táo thái nhỏ từ cái thìa lành lạnh mà mẹ bón cho tôi. Tôi mơ màng ngủ, rồi khi chập chờn mở mắt, tôi thấy mẹ vẫn ngồi đó, trước bàn, đọc tài liệu cần thiết cho công việc. Đó là một cuốn sách về các nghi thức cưới hỏi rườm rà của người Nhật. Thấy tôi mở mắt, mẹ liền thay khăn mặt đắp trên trán cho tôi. Rồi mẹ khoác lên vai tôi chiếc áo len không cổ khi tôi định đứng dậy đi vào nhà vệ sinh, và cho tới khi tôi trở ra, mẹ cứ nhìn mãi cánh nhà vệ sinh mà đợi.
Tôi những muốn cảm ơn trời vì bị sốt. Thậm chí tôi còn nghĩ, nếu được yên lòng, thoải mái và ấm cúng thế này thì có ốm nữa cũng chẳng sao.
“Mẹ ơ!”
“Gì thế con?”
“Không ạ. Con chỉ gọi thôi.”
Tôi nghĩ mình thiếp đi được một lúc. Thế rồi bất chợt, có tiếng gì đó lộn xộn chợt xen vào giấc ngủ yên lành ấy. Là tiếng một con vật nào đó rên rỉ chăng…
Tôi tỉnh dậy và nhận ra ngay, đó là tiếng máy giặt nhà tôi, kê ở phía Bắc lối đi, bên cạnh cửa ra vào sảnh trước.
Mẹ đang ngủ, trán áp lên quyển sách mở trên bàn. Mẹ bật máy giặt từ khi nào nhỉ, mình chẳng hay biết gì, vừa nghĩ tôi vừa ngồi dậy. Tôi nhìn đồng hồ, đã gần 12 giờ trưa. Nhờ có giấc ngủ ngon lành khi nãy mà giờ tôi đã thấy người nhẹ nhàng hơn. Để không làm mẹ thức giấc, tôi rón rén đứng lên là nhón chân bước về phía cửa.
Tôi mở cửa ra và bất thình lình, đứng trước cái máy giặt là một gã lạ hoắc, còn khá trẻ. Cũng như tôi, anh ta giật thót hốt hoảng, đoạn lao như bay xuống cầu thang. Tôi bước chân trần ra ngoài hành lang, tim đập thình thịch rồi hét lớn.
Mẹ từ trong nhà chạy bổ ra. Gần như cùng lúc, cách cửa phòng bên bật mở, bác Nishioka xuất hiện trong bộ quần áo thể thao. Mùi hơi thở khi ngủ và một giọng trầm trầm đang kể chuyện cười khe khẽ vẳng ra từ phòng bác.
Bác Nishioka vốn là người nhút nhát, chẳng thể nói lấy một câu bông đùa. Những hễ bác ở trong phòng, lúc nào tôi cũng nghe thấy từ bên kia tường vẳng sang giọng một người đàn ông lên bổng xuống trầm kể những câu chuyện hài, có lẽ là bác ấy bật băng cát-xét. Không chừng bác ấy để băng chạy suốt cả khi ngủ cũng nên.
Hôm đó, chắc bác Nishioka vừa chạy taxi ca đêm về, mắt nhắm mắt mở trông thật khiếp. Mí mắt bác sưng mọng, mái tóc bình thường vốn đã rối bù giờ y như cái tổ quạ, những sợi tóc lúc trước được vén sang một bên nay rũ xuống trông chẳng khác gì mớ tảo biển, để lộ cái trán hói to tướng. Người bác Nishioka vốn đã ốm o, bộ dạng lúc này lại hệt như một võ sĩ thất trận chạy thoát thân trong bộ quần áo thể thao, sợi vải thì xổ ra hết cả. Kinh ngạc trước bộ dạng lại hét lên lần nữa.
“Chiaki, có chuyện gì vậy? Con không sao chứ?”
Mẹ lay người tôi, nhưng tôi chẳng làm được gì khác ngoài chỉ tay về phía cầu thang. Đúng lúc ấy, trên con đường dọc bờ sông tôi thấy một bóng người đang chạy, có lẽ là gã khi nãy. Dù không biết đầu đuôi cũng chẳng hiểu sự tình gì, bác Nishioka vẫn “Kìa!” lên một tiếng rồi lao xuống cầu thang.Tôi và mẹ sững người, nhìn chằm chằm một lúc vào chiếc quần lót nam và mấy thứ đồ lạ hoắc đang tiếp tục quay tròn trong máy giặt.
“Mẹ ơi!”
“Gì hả con?”
“Người đó, đang giặt đồ ạ?”
“Có lẽ thế.”
“Chú ấy không có máy giặt ạ?”
“Chắc vậy.”
“Mẹ con mình làm gì với đống đồ này hả mẹ?”
“Hừm…”
Máy giặt ngừng rồi mà mẹ vẫn chưa nghĩ xong. Tôi run run nhấn nút xả nước. Một tiếng động lớn vang lên, nước giặt màu tro đục ngầu chảy ra theo đường ống xả, mẹ mang từ trong bếp ra một túi ni lông to, vừa nhăn mặt vừa nhặt lấy mấy thứ đồ còn dính đầy xà phòng từ trong máy ra bỏ vào túi. Đúng lúc ấy, bác Nishioka hổn hển trở về.
“Cái thằng đúng là đồ mặt dày. Chẳng lẽ nó tiếc mấy xu cho máy giặt tự động à?”
Mắt vẫn dán chặt vào cái túi ni lông căng phồng, đôi lông mày bác vốn bình thường đã hay ngọ nguậy giờ nhướng lên giật giật.
“Thật đáng xấu hổ, thật đáng xấu hổ!” Bác Nishioka không ngừng càm ràm bằng cái giọng the thé chẳng đàn ông chút nào, mỗi lần kêu ca bác lại kèm theo một tiếng thở dài. Khi tôi nép nửa người sau lưng mẹ và nói “Chào bác!” thì bác khẽ cúi đầu như chào một người lớn ngang hàng. “Bác xin lỗi Chiaki nhé. Bác để gã kia chạy mất rồi…”
Rồi bác lấy tay vuốt mớ tóc, vén lên che vầng trán, như thể lúc đó mới nhận ra tóc mình đang rũ xuống mặt
Mẹ bảo tôi vào trong phòng nằm nghỉ. Nhưng cửa vẫn mở nên tôi có thể nghe thấy tiếng mẹ và bác Nishioka trò chuyện.
“Có khi… có khi đây không phải là lần đầu nó làm thế đâu.”
Nghe bác Nishioka nói vậy, tim tôi đập thình thịch.
“Việc đó…” mẹ lên tiếng vẻ lo lắng.
“Có thể lắm, vì tầng dưới chỉ có mình bà cụ, nhà trọ thì ban ngày chẳng có ai…”
“Tôi thường làm ca đêm nên ngày nào cũng ở nhà nhưng ngủ say như chết, hôm nay tình cờ đúng lúc tôi vừa tỉnh dậy đi vệ sinh…” Bác Nishioka phần trần, khi thì tuôn một mạch, lúc thì lắp bắp.
Hai người định sáng hôm sau sẽ vứt mấy thứ đồ giặt đựng trong túi ni lông ra bãi rác, cho tới khi đó mẹ vẫn để túi quần áo ở cổng ngoài. Vì mẹ bảo, có thể người kia sẽ quay lại lấy đồ, và mẹ không muốn bị anh ta thù ghét vô cớ.
Bác Nishioka và mẹ xách cái túi ni lông xuống cầu thang. Nằm trong chăn, khi nghe tiếng bước chân của hai người, tôi nghĩ đến những lý do rất trẻ con, rằng xảy ra việc thế này là do tôi không ngoan. Vì tôi nghỉ học khiến mẹ cũng phải nghỉ làm, đã thế tôi còn nghĩ là có ốm nữa thì càng hay, nên tôi phải bị trừng phạt. Nếu tôi đi học, mẹ cũng đi làm thì chắc chắn việc ai đó lén lút sử dụng máy giặt nhà tôi sẽ không bị phát giác. Nếu như chẳng phải mọi việc vẫn êm xuôi hay sao.
Tôi nhắm chặt mắt. Vừa lúc đó, cái nắp cống mở ra kéo theo một tiếng cạch, rồi một vọng âm khó chịu từ dưới sâu vẳng tới: “Sai một li, đi một dặm. Nhớ đấy, không được phép quên.”
Đúng rồi, từ ngày mai, tuyệt đối, không được nghỉ học nữa. Không được mất cảnh giác với những lỗ đen ấy dù chỉ là một khắc. Tôi tự nhủ như vậy rồi nhắm chặt mắt lại một lần nữa.
Chú thích

1. Một nhân vật hoạt hình nổi tiếng, chàng thủy thủ yếu đuối Popeye thường bị nhân vật Bluto bắt nạt. Anh trở nên khỏe mạnh phi thường nhờ ăn rau chân vịt và đánh bại Bluto trước sự ngưỡng mộ của cô bạn gái Olive.
2. Bỉ ngạn (Higan) là lễ hội kéo dài bảy ngày vào khoảng các ngày xuân phân và thu phân. Vào dịp lễ này, tín đồ Phật giáo đến viếng mộ người thân ở trong phạn vi các nhà chùa.