Từ trên máy bay, tiếng bánh xe tiếp đất, xiết vào đường băng, xiết vào tim gã đang phập phồng kỷ niệm. Tiếng ve lảnh lót trên cây cơm nguội lôi gã ra khỏigiấc ngủ trưa, xách cầu câu chạy ra bờ hồ, ngồi thu lu dước gốc cây phượng, chăm chú nhìn những xao động khẽ khàng trên mặt được. Và những ngày đôngtháng giá, kẹp chiếc cặp sách giữa hai đùi, đứng trước gánh hàng bánh tôm, trước cửa trường, xuýt xoa với ớt cay, với miếng bánh bỏng rãy miệng..."Thưaông, tới rồi, đây là Nội Bài, đây là Hà Nội...", tiếng cô tiếp viên trôi theo dòng người xuống sân bay. Luồng gió lạnh thốc vào mặt khi gã bước chân vào bátngát trời đất, mờ miột sương mù. Hai mươi năm xe quê, sinh sống ở xứ quanh năm nắng nóng, nhiều đêm thức giấc thèm một ngọn gió heo may. Lần đầu tiêntrong đời gã làm một việc nhằm mục đìch thật "vô tư" tuy rằng tốn kém; bay nửa vòng trái đất tìm về quá khứ. Vậy nhưng nó là cái gì? Vài ngày sau, vứt lạicái lốt sang trọng thường ngày, ra khỏi khách sạn trong bộ đồ xích lô, ngồi thu lu giữa sân nhà thờ lớn dưới chân tượng Nữ vương Hòa Bình, gã lại tự hỏi:"Vậy thì quá khứ là cái gì?". Là bức tường xám màu vĩnh cửa, cao lồng lộng, chứng nhân của thời thơ ấu gã thường tung tăng chạy nhảy, đánh khăn đánh bingay trước cổng trường bên hông nhà thờ? Hay cây bàng cổ thụ cho tới giờ vẫn vi vu gió giữa sân trường đả từng cho gã bao nhiêu quả vàng tươi, ăn hết cùicòn đập ra cái nhân bùi bùi, món quà không thể thiếu vào giờ ra chơi? Như một kẻ đi lượm bịch nylông, gã cũng lang thang phố này phố khác nhặt nhạnhtừng dấu vết xưa. Một bảng hiệu cũ vẫn mờ mờ trên tường mà những Pepsi, Sony, Hitachi... chưa kịp đè lên nó. Một cột đèn sứt sẹo từ thời gã còn trèo metrèo sấu... Gã mừng rú bắt gặp một cánh cửa sử bạc phếch màu thời gian mở ra một ngã lầy lội, hai bên vỉa hè vẫn còn dòng nước đục lờ tháo ra từ cửa cốngcũ: "Còn nguyên vẹn như ngày xưa...", gã thầm reo lên, sà xuống một gánh "chè chén" chỏng chơ ba cái ghế và một cụ già răn reo, tùm hụp chiếc khănvuông mỏ quạ, nhìn gã dè chừng như thể gã là kẻ trộm. Không sao cả, ngồi đây, xoay xoay chén nước trong tay, gã có thể nhìn ngắm mái nhà xưa, sống lạicả một thời đã mất. Nàng đó, từ trên cửa sổ gác hai kia hiện ra một đôi mắt huyền thăm thẳm làm toàn thân gã nóng bừng át hẳn cái giá buốt mùa đông xóivào da thịt. Gã đã từng đứg giờ này qua giờ khác trước cửa sổ đóng kín, chờ nàng xuất hiện như chờ một phép lạ. Biết bao lần gã thất vọng trở về, lòng buốtlạnh còn hơn cả mưa gió ngoài trời. Nàng đâu, nàng đâu rồi, gã thầm kêu lên đau đớn, cả căn nhà sang trọng, đông đủ bố mẹ, anh chị em, cả cái thành phố ồnào xe cộ, nhộn nhịp ánh đèn... tất cả dường như chết hết vào những đêm gã trở về không mang theo đôi mắt nàng. Gã gày rộc sau những đêm mất ngủ, suốtngày gã nằm chết dí trên giường, mãi sẩm tối, một sức mạnh nào đó làm gã trỗi dậy, đi tới ngõ nhỏ và lại chầu trước cửa sổ tầng hai lúc nào cũng đóng kín.Gã cứ chầu như thế trong đêm đông giá lạnh cho tới khi mẹ gã tìm tới khóc lóc: "Về đi con ơi, về đi, tình yêu là thứ không thể ăn xin...". Tội nghiệp ngườimẹ, bà có thể xẻ xương xẻ thịt cho con trai, nhưng hoàn toàn bất lực trước nỗi đau cuả nó. Bị một vết thương chí mạng thủa má còn lông tư, gã trở nên dửngdưng với đàn bà cho dù sau đó mẹ gã tìm mọi cách gán ghép cho gã vài cô gái xinh đẹp hơn cả đôi mắt huyền đầy bí ẩn sau kung cửa sổ. Gã cứ ngồi thả hồnvào chén trà sóng sánh, dán mắt vào cửa sổ đóng kín có lẽ từ ngày đó. Gã ngạc nhiên và thích thú nhận ra rằng hai mươi nămsau, cho tới tận giờ, gả vẫn cònchờ cánh cửa kia mở ra và đôi mắt huyền lại hiện ra đăm đăm nhìn gã. Gã cừ ngồi như thế, chìm đắm trong một nỗi đê mê tuyệt diệu mà cả bao nhiêu nămnay gã không hề được trải qua. Buổi sáng, chuông đồng hồ đánh thức gã dậy vào lúc 6 giờ. Nhào vào phòng rửa mặt năm phút, tắm táp mười phút, mặc quầnáo ba phút và khi đánh được xe ra đường đồng hồ đã báo sáu giờ hai mươi phút rồi. Gã còn mười tám phút nữa để vượt qua hai xa lộ, ba cái ngã tư trước khichui vào khu vực đậu xe ở sở làm. Gã phải bấm cái thẻ tính giờ vào lúc bảy giờ kém mười lăm. Thế rồi cả một hệ thống nó ép gã phải làm đủ tám giờ vàngngọc không tính vào hai lần nghỉ nỗi lần mười phút để xả gân cốt, uống cà phê và ba mươi phút ăn bữa trưa một cáh vội vã với mấy mảnh sandwich, một khúcthịt nhồi và một trái táo. Tan sở, lao xe về nhà, đặt nồi cơm điện, hâm lại thức ăn có sẵn trong tủ lạnh, xong bữa ngước nhìn đổng hồ đã tám giờ, lướt qua vàikênh ti vi, mắt đã ríu lại, mười giờ lên giường kết thúc một ngày như bao ngày khác. Bao năm nay, thời gian của gã liền mạch, chẳng hề có một trục trặc, tungtăng đi trên phố, có lúc gã thấy nàng uyển chuyển trong tà áo dài trắng muốt cùng gã gõ gót vỉa hè hoặc lang thang quanh bờ hồ lộng gió. Cuộc trở về quákhứ của gã thật là kỳ diệu, thật là trọn vẹn nếu như trong ngày cuối cùng trước khi trở lại xứ sở gã đang sinh sống, bà già bán chè chén thấy gã ngày nào cũngquẩn quanh ngước lên cửa sổ, mới hỏi gã: "Tôi hỏi khi không phải, hình như ông có việc gì phải chờ đợi?" Gã trả lời rằng gã chợ một con người mà gã đãtừng chờ từ hai mươi năm trước và thật kỳ lạ, cho tới bây giờ gã vẫn còn chờ. Bà già co người trong luồng gió rét, cuốn chặt chiếc áo bông đen bạc phếch,rách lỗ chỗ. Bà than năm nay rét muộn quá, dễ đến hai chục năm nay chưa bao giờ rét nàng bân lại kéo dài đến thế. Gã không quan tâm tới bà già lẫn quánnước và cả những lờn than thở của bà, ngày xưa trong ngõ nhỏ huyền diệu này làm gì có các thứ đó, chỉ có gã như một con chiên chờ đợi phép bí tích củaChúa trời và nàng, đôi mắt huyền tuyệt diệu. Trong những giờ phút cuối cùng trên quê hương, gã muốn xóa nhòa mọi thứ, mùi cống rãnh đang xông lên nồngnặc, bà già và cả quán nước của bà, gã muốn xóa cả chính gã, trở về cậu bé si tình ngày xưa ngong ngóng lên cửa sổ chờ đợi sự xuất hiện hiếm hoi của nàng.Vậy nhưng khổ cho gã, bà già không thể ngồi yên khi quán bà có mỗi ông khách, uống mỗi chén nước mà cứ ngồi ì mãi như đã chết rồi. bà cứ ngọ nguậyliên tục trong chiếc ào bông và rồi không nhịn được bà lại cất tiếng hỏi:"Vậy chớ ông chờ ai?"Như người bị đánh thức khỏi giấc mơ hồng, gã choàng tỉnh và càu nhàu xin bà để gã được yên, cái người gã chờ từ hai mươi năm nay chính là cô gái xinhđẹp vẫn ngồi sau cửa sổ kia và cho dù gã biết rằng chỉ có Chúa lòng làng ban phép lạ, may ra gã mới được gặp lại nàng, vậy nhưng gã vẫn cứ chờ. Suýt nữabà già tuột tay đánh rơi ấm nước đang cầm, bà trố mắt nhìn gã như thể gã mới đứt dây trên trời rơi xuồng, rồi cuống quýt lên, bà bảo rằng Chúa lòng lànhđang ban phép màu cho gã đấy, bởi lẽ cái cô gái ngồi sau song cửa ngày xưa chính là... bà, người đang ngồi trước mặt gã đây. Nói xong bà tháo cái khăn mỏquạ ra, cứ như để gã nhận ra một vài nét gì đó của đôi mắt huyền xưa. Than ôi, mái tóc bạc trắng, khuôn mặt khô quắt và đôi mắt sắp lòa làm gã hoảng sợđứng bật dậy."Không phải...", gã hộc lên "Không phải...", gả lùi dần, lùi dần và cắm cổ chạy thục mạng khỏi ngõ nhỏ lầy lội vừa mới đây thôi còn là thiên đường kỷ niệmcủa riêng gã. Gã vẫy xích lô, chạy qua các phố vài ngày trước gã còn ra sức tìm kiếm những dấu vết cũ còn sót lại sau cuộc tàn phá ghê gớm của thời gian.Trở về khách sạn, gã chạy như luồng gió qua quầy tiếp tân, không đáp lại nụ cười duyên của cô gái ngồi ghi sổ, nhảy vào buồng tắm trút bỏ quần áo xích lôvà khi bước ra trong ánh mắt bà già đang nhìn gã trừng trừng. Sáng hôm sau, ngồi trong máy bay tăng tốc vượt khỏi mặt đất, cho dù gã không muốn, một sứcđẩy nào đó vẫn làm gã nhìn qua khung cửa kính lần cuối thành phố đang chìm trong làn sương dày.