Một hồi trống vừa dứt, trên chiếc chòi canh ở cổng huyện, một tên lính tay cầm loa, dạng hai chân chõ xuống đất ậm oẹ gọi: - Truyền các xã trưởng, trại chủ ba huyện An Phong, Đông Ngàn, Tiên Du được vào hầu…ầu…ầu…Hơn hai trăm lính nai nịt gọn ghẽ, cung, giáo sắc, kéo nhau xếp hàng tề chỉnh, trên một thửa đất rộng trước dinh huyện.Hai cánh cổng lớn rít lên một tiếng rồi mở rộng. Các xã trưởng, trại chủ, chia ra làm hai hàng tiến vào, dưới một dẫy cờ bay phất phới, trông uy nghiêm như một đám rước thần. Đợi cho dân sự vào hết rồi toán lính mới từ từ kéo vào sau.Dinh thự của viên Huyện Lệnh gồm có hai căn nhà gỗ năm gian, một làm công đường, một làm tư thất. Liền ngay công đường là một gian lợp ra, rộng, lúc nào cũng có lính canh gác cẩn thận, vì là nơi chứa lương thực của ba huyện. Giữa công đường kê một tấm sập để Huyện Lệnh ngồi xử kiện. Hai bên chạy dài hai dãy phản khổ hẹp hơn, trên bầy nghiên, mực, bút, giấy. Bên cạnh, một gian để xếp những hình cụ tra tấn: túi roi, hèo, trượng, kìm, và xích sắt, làm cho người can đảm đến đâu khi bước chân vào cũng phải rùng mình kinh sợ. Nhưng có lẽ rùng rợn hơn hết là chiếc bảo kiếm đặt ngay trên cái giá bằng gỗ sơn son, kê ở trước tấm sập. Vỏ kiếm nạm vàng, chỗ tay cầm, chạm hình con rắn cuộc khúc, miệng ngậm một hạt minh châu sáng loé… Chung quanh dinh là một hàng cọc tre nhọn hoắt, cao độ một trượng, cắm chi chít. Cứ cách 10 bước lại lập một chòi canh. Ngoài hàng rào, trại lính lập san sát như hình cánh cung ôm lấy huyện. Ngoài ra, lại còn những đoàn hương dũng ở các làng, lớn thì dăm chục, nhỏ vài chục, luôn luôn sẵn sàng cung, nỏ, giáo, mác, để tiếp ứng cho toán quân ở huyện. Tại sao lại có sự canh phòng cẩn mật như vậy? Là vì, đức Tiên Hoàng tuy dẹp được 12 sứ quân, nhưng trong nước hãy còn ít nhiều thảo khấu ẩn nấp ở rừng núi, thỉnh thoảng lại quấy rối dân sự. Hạt Đông Ngàn tuy không bị nạn giặc cướp phá, nhưng hai hạt Tiên Du và An Phong thì luôn luôn xảy ra chuyện đốt nhà, giết người rất kinh khủng. Mấy vị văn quan về trấn nhậm hai nơi đó, đều bị giặc bắt mang đi mất tích. Các nha lại trốn hết, huyện đường bỏ vắng, những kẻ vong mạng thừa cơ nổi lên, ngang nhiên hoành hành coi thường cả pháp luật của triều đình.Từ khi viên Huyện lệnh Đào Cam Mộc về đóng ở Đông Ngàn, kiêm cả hai huyện kia, thì nạn giặt cướp đã thấy bớt nhiều. Cam Mộc vốn là võ tướng xuất thân nhưng chính trị rất giỏi, coi quân lính như ruột thịt, thương dân như con, nên được mọi người kính phục. Những phạm nhân nặng thì mười phần cũng giảm cho ba, bốn, nhẹ thì tha bổng hay phạt roi, ít khi dùng đến trượng, lúc xử án không dùng đến hình cụ tra tấn mà chỉ lấy lời lẽ khuyên bảo bắt phải thú tội.Dân sự ba huyện có một vị minh quan, trọng nghĩa, khinh tài, nên cũng được an cư, lạc nghiệp.Mấy hôm trước, Cam Mộc sắc lệnh cho các xã trưởng phải cấp tốc tuyển thanh niên khoẻ mạnh để bổ sung vào số quân già yếu, đã bị thải về, và để tăng cường sự phòng thủ ở biên giới và nội địa. Vì hình luật hồi bấy giờ rất nghiêm khắc, nên sắc chỉ của nhà vua ban ra đều được mọi người tuân theo răm rắp. Hôm ấy, Cam Mộc muốn vời các xã trưởng, trại chủ đến để hiểu dụ và thu danh sách các tân binh làm cho quang cảnh huyện lại một phen rộn rịp.Một hồi trống dõng dạc điểm, tiếp theo một tiếng pháo lệnh nổ vang trời. Dân sự đứng xếp hàng dưới sân hướng mặt về công đường, quân lính chia nhau đứng quây tròn chung quanh.Huyện Lệnh ngồi trên sập, nha lệ đứng hầu hai bên, uy nghiêm và tề chỉnh. Một tên lính bưng chồng giấy khom lưng, tiến gần sập, nói nhỏ mấy câu, rồi lùi ra.Cam Mộc cất tiếng sang sảng nói:- Hôm mồng hai, bản chức có sắc lệnh cho ba huyện phải tuyển mỗi huyện một ngàn lính, và hẹn đến hai mươi thì phải đệ trình danh sách. Hôm nay đã hai mươi lăm rồi mà chỉ có hạt Đông Ngàn đệ, còn hai hạt Tiên Du và An Phong thì chưa có là tại làm sao?Có tiếng dưới thềm, thưa:- Trình quan!… Hạt Tiên Du đã đủ rồi, nhưng danh sách thì chưa làm kịp, xin đệ sau…- Còn An Phong?Một người trạc ngoài bốn mươi tuổi, rẽ đám đông người, tiến lên thềm, cúi mình chào huyện quan, rồi nói:- Dạ! …Trình quan…Hạt chúng con đất hẹp, dân thưa lại không may bị mất mùa hai năm liền, nhiều gia đình phải di cư đi nơi khác, xin thượng quan thương lại…Huyện Lệnh cau mặt đáp:- Rõ ràng các ngươi coi thường lệnh trên, nên cố tình viện cớ che đậy cho nhau… Các ngươi tưởng lưỡi gươm của ta không sắc hay sao?- Dạ!…Thượng quan trọng nhậm hạt này, uy đức vang dội khắp vùng, lòng nhân thấm nhuần dân chúng, trên hoàng đế mến yêu, dưới hài tâm xích tử. Việc tuyển lính là lệnh của triều đình, Thượng quan chỉ biết thừa hành công vụ, chúng con đâu dám vì tình riêng mà bỏ mất ích công. Hiềm vì hạt An Phong đói, kém, mất mùa, trai tráng cầm nổi cây đao thì lưu lạc phương xa để mưu đưòong sinh kế, còn lại những người trói gà không chặt, đem ra chỉ sợ đắc tội với Thượng quan và làm trò cười cho thiên hạ.- Hiện nay số tân binh hạt An Phong đã được bao nhiêu?- Dạ! Cố lắm chỉ được năm trăm là nhiều.- Bản chức ra hạn cho nửa tháng nữa phải tìm cho đủ số. Nếu trái lệnh, chớ trách bản chức là khắc nghiệt.- Chúng con thiển nghĩ, nước Đại Cồ Việt ta trên mười năm huynh đệ tương tàn, cái cảnh xương phơi ngập đất, máu loang đỏ sông, nghĩ đến mà rùng mình kinh sợ. May được đức Tiên Hoàng dấy binh ở Hoa Lư, oai thần vũ dẹp loạn sứ quân, trong vỗ yên trăm họ, ngoài giao hiếu Tống triều, gây dựng nên giang sơn gấm vóc này. Hiện giờ bốn phương thảo khấu đã tan, dân chúng mừng tránh được mũi tên, hòn đạn. Quân lính mừng được cởi giáp, hạ yên. Nào ngờ lại được tin lệnh trên bắt buộc trai tráng phải nhập ngũ để đủ số một triệu quân, thì không biết số quân đó dùng để làm gì? Đối với Tống triều, đức Tiên Hoàng đã chịu thụ phong tước Giao Chỉ Quận Vương; nạn ngoại xâm chắc cũng không đáng lo ngại lắm. Còn trong nước, ở một vài nơi, bọn lưu manh côn đồ, vẫn tác oai thật, nhưng sức đom đóm chống sao nổi vầng Thái dương, chỉ cần một ít quân ở địa phương cũng đủ phá tan giặc cỏ. Xét tình trạng dân ta thì thật là thương tâm ái ngại, nhà cửa bị đốt phá, vườn ruộng bỏ hoang, từ manh quần, tấm áo đến bát gạo, củ khoai, thảy đều khó kiếm; còn lương thực đâu mà đóng góp cho triều đình để cấp dưỡng sĩ tốt. Thượng quan là cha mẹ dân, tai mắt của triều đình, cũng nên vì dân vì nước giải tỏ điều phải, thì thật là phúc cho chúng con lắm…Cam Mộc đỏ mặt quát to:- Nhà người đã trái lệnh hoàng thượng lại đem ba tấc lưỡi định lung lạc ta. Bây đâu!…Giam cổ nó lại.Quân lính dạ ran, xông vào trói nghiến và dắt đi. Mọi người đứng sợ xanh mặt, run lập cập.Cam Mộc vẫn chưa nguôi giận, đập tay xuống sập nói:- Bản chức trọng nhậm hạt này, hết lòng thương yêu, không hề tơ hào một lá rau, một hạt gạo, hết lòng thương dân, bản chức không dùng đến hình phạt, có ý khinh nhờn. Bắt đầu từ nay, đối với phạm nhân, bản chức cứ chiếu theo sắc chỉ của Thánh Hoàng và tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt tù tội, dùng trượng hay xử giảo. Nghe!Dân sự đứng dưới thềm ngơ ngác nhìn nhau, im lặng. Họ thầm oán trách kẻ không biết vô tình hay hữu ý đã xúc phạm đến vị ân nhân của mọi người.Chờ cho cơn sấm sét đã qua, một cụ già ra đứng khom lưng trước công đường:- Dạ!…trình Thượng quan! Con xã trưởng Phù Đổng xin thưa mấy lời: hiện nay kỳ hạn đã hết, mà số tân binh vẫn chưa đủ, nếu cứ trùng trình sợ triều đình bắt tội. Hạt Đông Ngàn chúng con xin lấy thêm năm trăm, là nghìn rưỡi để bù vào số thiếu của hạt An Phong.Huyện Lệnh gật đầu tỏ vẻ hài lòng.- Bản chức y lời thỉnh cầu của các ngươi.Mọi người đều thở dài khoan khoái. Bỗng viên đề lại, rón rén đến, cúi đầu nói nhỏ mấy câu. Huyện Lệnh mỉm cười, nói:- Cho gọi lên.Viên đề lại tiến ra trước thềm gọi to:- Trại chủ Trang Liệt lên hầu.Tư Chiềng “dạ” một tiếng thật to, bước vội vàng lên thềm, quỳ xuống làm lễ.Huyện Lệnh vẫy tay nói:- Ta miễn lễ cho trại chủ.Tư Chiềng chắp tay đứng dẹp sang một bên.Huyện Lệnh nhìn Tư Chiềng từ đầu đến chân, tỏ vẻ rất bằng lòng.- Tráng sĩ niên canh bao nhiêu?Tư Chiềng ngơ ngác nhìn không hiểu.Viên đề lại nhắc: “Bao nhiêu tuổi?”- Dạ, …23 tuổi…- Song thân còn tại đường chứ!Tư Chiềng đực mặt không biết thế nào mà trả lời.Viên đề lại nhắc: “Bố mẹ còn không?”- Dạ!…Chết hết rồi…Mọi người bấm bụng cười thầm. Cam Mộc nói:- Bản chức thấy nói tráng sĩ có tài hàng long, phục hổ, xứng đáng là một dũng tướng của nước nhà. Hiện nay, bản chức cần một viên đoàn trưởng để luyện tập quân lính ở Huyện. Xét ra chỉ có tráng sĩ là đáng tài. Tráng sĩ nghĩ thế nào?Tư Chiềng luống cuống chưa biết nên ưng thuận hay từ chối, thì Huyện Lệnh nói tiếp:- Vì quyền lợi chung của dân chúng, nên bản chức muốn thu nạp các anh hùng nghĩa sĩ để cộng tác với bản chức trong công cuộc phòng thủ địa phương. Bản chức kêu gọi lòng ái quốc của các tầng lớp nhân dân, hãy vì sự hưng vong của nước Đại Cồ Việt đem hết sở năng phục vụ đức Tiên Hoàng. Trong thời đại thập nhị sứ quân, dân chúng nhầm lẫn đã làm hậu thuẫn cho bọn người ích kỷ tham tàn, vụ lợi, rồi bị thúc đẩy ra sa trường chém giết lẫn nhau. Cùng là dân đất Việt, cùng dòng máu chảy trong huyết quản, mà họ lại coi nhau như thù địch, như ngoại bang, khác nào như đời chiến quốc bên Tàu, Tề, Hán, Nguỵ, tuy cùng một màu da, cùng một lịch sử, chỉ vì quyền lợi nhỏ nhen, mà thù nhau thâm căn, cố đế, tìm cách khuynh loát nhau.Ngày nay giang sơn đã thu về một mối toàn dân không thể sống chia rẻ như trước nữa; phải biết thương xót bênh vực nhau, để bảo tồn lấy nòi giống. Bản chức sẵn sàng hưởng ứng những lời chỉ trích chánh đáng về hành chính cũng như về quân sự để sửa đổi cách cai trị, cho hợp với nguyện vọng của dân chúng. Nhưng bản chức sẽ không tha một hành vi nào xét ra có hại cho an ninh của đất nưóoc và phản lại quyền lợi của cá nhân. Các ngươi chớ có khinh suất trong công việc làm, và phải dè dặt trong lời ăn, tiếng nói, đừng có nhố nhăng, khinh mạn người trên, đàn áp kẻ dưới, trước là mang tội với pháp luật, sau để di luỵ cho gia đình.Mọi người đều cảm động vì lời thành thực của quan phụ mẫu.Một hồi trống dõng dạc điểm. Huyện Lệnh truyền:- Thôi, cho các ngươi về.Tư Chiềng đứng tần ngần ngẫm nghĩ một lát rồi quỳ xuống. Huyện Lệnh dơ tay đỡ dậy rồi nói:- Thế nào, tráng sĩ đã quyết định chưa?- Thưa vâng.- Thật là may mắn cho hạt Đông Ngàn, bản chức rất vui lòng. Tráng sĩ hãy tạm về nhà, sáng mai lên huyện nhận nhiệm vụ.