1.Một Nền Văn Minh Cổ Xưa Đến Hai Trăm Ngàn Năm Sáng ngày hôm sau, chúng tôi bắt tay vào công việc phiên dịch chữ cổ tự dùng trong những bản văn kiện và tài liệu cổ. Chúng tôi muốn có sự rõ ràng chính xác tối đa về ý nghĩa của những chữ ấy. Nhờ sự giúp đỡ của bà chủ nhà, chúng tôi học được nhiều về những thánh kinh cổ xưa ấy. Chúng tôi lao mình vào công việc ấy với tất cả tâm hồn. Một buổi sáng, sau độ hai tuần làm việc, chúng tôi đi đến ngôi đền như thường lệ và thấy ông bạn Chandersen của chúng tôi, là người dường như đã trải qua sự chết và được phục sinh trước đây. Y vẫn mang thể xác bằng xương thịt như mọi người, nhưng những nét mặt của y tuy rằng vẫn y nguyên như cũ, lại không mang dấu vết nào của sự già nua. Không thể lầm được y với một người nào khác. Khi chúng tôi bước vào phòng, y đang ngồi ghế bèn đứng dậy và đến gần để bắt tay chúng tôi với những lời chào hỏi mừng rỡ. Người ta không thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi khi chúng tôi vây quanh chung quanh y và chất vấn y tới tấp. Chúng tôi giống như một đám học trò vô kỷ luật. Tất cả đều hỏi y cùng một lượt, không ai nghe được ai, và không có trật tự trước sau gì cả! Chắc chắn rằng trong cặp mắt của y, chúng tôi có vẻ như một đám trẻ con vừa chận được một đứa mang tin sốt dẻo, và tất cả đều muốn biết xem đó là việc gì! Nhưng sự thật vẫn sờ sờ ra đó. Chandersen đang đứng trước mặt chúng tôi, với giọng nói và những nét mặt đặc biệt của y, nhưng không già chút nào! Thậm chí giọng nói của y cũng đã có được một âm thanh rắn rỏi của người nào vào độ trung niên. Y có dáng điệu của một người linh hoạt, và khỏe mạnh, sáng suốt. Gương mặt và đôi mắt y phản chiếu những nét linh động khôn tả. Lúc đầu, chúng tôi chỉ có thể so sánh cái thực trạng của y bây giờ với tình trạng cũ của y. Trước kia khi chúng tôi mới quen biết y, y là một người già nua lọm khọm, lúc đi đứng phải chống một cây gậy lớn. Y có những lọn tóc dài trắng phau, những bước đi chập choạng, và mộ gương mặt xanh xao hốc hác. Một người trong bọn chúng tôi đã nhận thấy những điểm đó và đã nói: - Trong số những nhân vật siêu việt kia, đây là một người già đến nổi có lẽ y gần bước qua bên kia cửa Tử. Lẽ tất nhiên chúng tôi nhớ đến sự biến đổi ly kỳ mà chúng tôi đã chứng kiến cách đây vài ngày. Nhưng sau khi Chandersen thình lình biến mất, tất cả những điều ấy đã lùi dần vào quên lãng, vì chúng tôi tưởng rằng sẽ không còn gặp y trở lại. Những diễn biến kế tiếp theo sau đó một cách nhanh chóng, đã đẩy thụt lùi việc này vào dĩ vãng đến nổi chúng tôi hầu như đã quên mất đi. Nhưng nay, nó đã xuất hiện trở lại trong ký ức chúng tôi một cách sống động đến nổi làm choi chúng tôi ngạc nhiên vô hạn. Chandersen đã trẻ hẳn lại một cách không tưởng tượng. Nói đúng hơn, y đã trải qua một sự Biến Thể giống như đấng Christ mà chúng tôi hằng kính yêu rất mực. Xét về dự tương phản rõ rệt giữa hình dáng của y trước kia với tình trạng của y bây giờ, chắc chắn rằng linh hồn của y cũng đã tái sinh trở lại. Tuy rằng trước đây chúng tôi không có sống chung với y được bao lâu, nhưng sự tiếp xúc hằng ngày giữa chúng tôi với y đã kéo dài khá lâu để cho chúng tôi được biết y như một người đã già. Kể từ hôm ấy, y đã sống chung với chúng tôi trên hai năm, vừa làm người hướng dẫn vừa làm thông ngôn trong chuyến du hành của chúng tôi vượt qua vùng sa mạc Gobi. Nhiều năm về sau, khi vài người trong phái đoàn chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại việc cũ, thì việc xảy ra sáng ngày hôm ấy là đề tài đầu tiên mà họ nhắc đến trong cuộc nói chuyện. Khi tôi thuật lại chuyện này, tôi không có ý kể lại tường tận cuộc đàm thoại của chúng tôi từng chi tiết, vì chúng tôi đã trải qua gần trọn hết hai ngày chỉ để nói chyện mà thôi. Tường thuật từng chi tiết sẽ làm cho độc giả nhàm chán. Bởi vậy, tôi chỉ kể lại những điểm chính trong câu chuyện này. Khi cơn xúc động đầu tiên đã qua, chúng tôi ngồi xuống và Chandersen bắt đầu nói: - Người ta chỉ cho tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Trong khi những điều đó được giải thích cho tôi, tôi phát hiện rằng tôi có thể bước và cõi trời và cõi ấy vốn ở tại bên trong nội tâm. Bây giờ tôi biết rằng Thượng Đế là sức mạnh duy nhất, vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Những tội lỗi bất hòa, bịnh tật, sự già nua, chết chóc, đều thuộc về những kinh nghiệm về quá khứ. Bây giờ tôi đã nhìn thấy chân lý và tôi biết rằng tôi đã đi lạc trong đám mây mù của ảo giác. Thời gian và không gian đã hoàn toàn biến mất. Tôi biết rằng tôi sống trong thế giới chủ quan, còn cái thế giới hiện tại chỉ thuộc về một thế giới khách quan. Nếu tôi có thể nắm giữ lấy những sự nhắn nhủ thầm kín và những tia sáng mà thỉnh thoảng mà tôi nhận thức được nhờ bởi những giác quan tế nhị của tôi, thì tôi đã có thể tránh được bao nhiêu những giờ phút đau khổ, hoang mang và mệt mỏi! Trong thời niên thiếu của tôi, tôi bắt chước phần lớn của nhân loại. Tôi chỉ tin nơi một lối sống, đó là lối sống thụ hưởng khoái lạc trong mọi lĩnh vực. Bởi đó, tôi quyết định sống cuộc đời sung mãn, thụ hưởng đến mức tối đa. Tôi lấy sự ích kỷ làm mục đích chính của đời tôi. Tôi sống buông thả theo đủ mọi thứ nhục dục, thú tánh và hoang phí nguồn sinh lực đến mức làm cho thể xác tôi trở thành cái vỏ khô khan trống rỗng như các bạn đã thấy trước đây. Bây giờ, tôi xin trình bày một hình ảnh xác nhận việc đó. Chandersen ngồi im lặng định thần trong một lúc. Không bao lâu, trên một vách tường của gian phòng hiện ra một hình ảnh giống như đã diễn tả trước đây. Đó là hình ảnh cái thể xác của y vào thời kỳ mà chúng tôi mới quen biết y, hình ảnh một ông già lọm khọm, đi đứng phải chống gậy. Tiếp theo sau đó là hình ảnh con người của y bây giờ. Chandersen nói tiếp: - Hình ảnh đầu tiên là của một người đã hoang phí sinh lực của thể xác đến mức chỉ còn để lại có cái lớp vỏ khô kiệt. Còn hình ảnh thứ nhì là của một người đã bảo tồn sinh lực còn nguyên vẹn trong thể xác mình. Trong trường hợp của tôi, các bạn nghĩ rằng đó là một sự phản lão hoàn đồng toàn vẹn và hầu như diễn ra trong khoảnh khắc, điều đó thật đúng. Nhưng tôi nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác. Biết bao nhiêu người cũng có thể có cái dịp may như tôi để nhận được sự giúp đỡ, lòng ưu ái và sự cứu trợ của những đấng Cao Cả mà chúng ta được biết? Nếu người đời có thể hiểu rằng sinh lực của họ có hàm xúc một nguồn sinh khí dồi dào mãnh liệt như thế nào, họ sẽ cố gắng bảo tồn sinh lực thay vì hoang phí nó. Nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với việc ấy. Họ tiếp tục sống trong sự mù quáng, hay sự vô minh, cho đến khi Thần Chết đến đem họ đi mất. Các bạn kính trọng tuổi già và coi mái tóc bạc như một cái mão danh dự, điều đó tôi không hề chối cãi. Nhưng các bạn hãy thử đi sâu hơn vào vấn đề, để xem đằng nào là đáng được đặt trên đài danh dự hơn: Một đàng là người có những lọn tóc bạc phơ như tuyết, đã gây lên sự già nua lọm khọm cho chính mình do bởi sự vô minh, nếu không là do bởi sự trác táng trụy lạc của thời niên thiếu; và một đàng là người bảo tồn sinh lực, càng ngày càng trở nên mạnh khỏe hơn và dũng mãnh hơn, đủ sức trang bị thể chất để có thể đối phó với tuổi già, và nhờ đó làm tăng trưởng thêm sự hảo tâm và lòng quảng đại của mình? Tôi thú thật là nên có lòng trắc ẩn và tội nghiệp cho con người đã đi đến cõi chết do sự vô minh. Nhưng ta có thể nghĩ đối với người cũng đi đến một kết quả tương tự, nhưng có đầy đủ tinh thần sáng suốt minh mẫn để thấu đạt chân lý? 2. Cơn Bão Tuyết Trên Vùng Sa Mạc Gobi Kể từ khi đó, chúng tôi chuyên cần chăm chỉ học chữ cổ tự dưới sự chỉ dẫn của Chandersen. Ngày tháng trôi qua rất mau như thoi đưa. Đến cuối tháng Tư, tức là sắp đến ngày chúng tôi lên đường đi đến đồng sa mạc Gobi, phần lớn các tài liệu cổ vẫn còn chưa dịch xong. Chúng tôi tự an ủi với ý nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể trở lại một ngày nào đó để hoàn tất công việc phiên dịch. Các vị Chân Sư đã dịch giúp chúng tôi một phần lớn các tài liệu, nhưng các ngài đòi hỏi chúng tôi phải học các chữ cổ tự để có thể tự mình dịch các tài liệu ấy. Tháng chín năm trước, chúng tôi có hẹn tái ngộ với những nhân viên khác trong phái đoàn tại vùng sa mạc Gobi. Kế đó, họ sẽ đưa chúng tôi đến địa điểm tọa lạc của ba thành phố cổ xưa nay đã chôn vùi dưới lòng đất. Vị trí đúng đắn của những thành phố này có ghi trong tài liệu cổ mà chúng tôi chưa được xem, nhưng đã được nghe nói đến. Chúng tôi chỉ có trong tay những bổn sao chép lại các tài liệu đó, nó càng kích động sự tò mò của chúng tôi. Những tài liệu cổ cho biết rằng thời đại phát triển của những thành phố này được truy nguyên từ trên hai trăm ngàn năm trở về trước. Dân cư ở đó đã từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đã từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đã từng biết các môn nghệ thuật cùng các nghề nghiệp thủ công như rèn đồ sắt và làm đồ vàng bạc. Thơiø đó, vàng ở xứ này rất thông dụng đến nổi người ta dùng vàng ròng để làm đồ chén dĩa và móng ngựa. Tục truyền rằng người thời ấy có quyền năng chế ngự các sức mạnh thiên nhiên, biết sử dụng những năng lực huyền bí của chính họ. Thật vậy, những huyền thoại đó thật giống một cách lạ lùng với những chuyện trong Thần Thoại Hy Lạp. Theo các bản đồ chỉ dẫn thì ngày xưa, đế quốc Uigour gồm các phần lớn Châu Á và Châu Âu đến tận bờ biển Địa Trung Hải của Pháp, với một vùng đồng bằng rộng lớn vô cùng phì nhiêu sung túc và rất đông dân cư. Sự khám phá di tích những thành phố cổ của đế quốc ấy chắc chắn sẽ đóng góp một phần rất lớn cho lịch sử nhân loại. Những tài liệu cổ diễn tả đế quốc Uiguor dưới triều đại của bảy vị hoàng đế có những nét huy hoàng lộng lẫy vượt hẳn rất xa xứ Ai Cẩp thời cổ. Dẫu cho trước thời kỳ bảy vị hoàng đế, các bia đá cổ diễn tả xứ ấy như một nước phồn thịnh hơn Ai Cập rất nhiều. Dân tộc xứ ấy đã sống một thời thái bình thịnh trị, không hề có chiến tranh, không có các nước chư hầu xưng hùng xưng bá, cũng không có chế độ nô lệ. Thời gian vẫn tiếp tục qua mau và chúng tôi rất bận rộn lo chuẩn bị cuộc hành trình. Chúng tôi phải đến chỗ hẹn vào tháng năm, tại đó chúng tôi sẽ cụ bị đầy đủ lương thực và đồ vật dụng trang bị để hoàn tất chuyến đi cuối cùng. Tôi không thể nào diễn tả những sự cảm nghĩ của tôi vào lúc gần đến ngày lên đường. Những giờ phút trong thời gian chúng tôi ở lại đây là những giờ phút thần tiên. Tuy rằng chúng tôi đã ở đây đến trên năm tháng và sống gần các Chân Sư trong suốt thời gian đó, thời giờ đã trôi qua rất mau và năm tháng đó đối với chúng tôi dường như chỉ có năm ngày. Một thế giới lạ lùng đang chờ đón chúng tôi, dường như trước mắt chúng tôi là một cái cửa mở rộng để đưa chúng tôi vào một cõi giới huyền linh với những sự diễn biến không có giới hạn. Mỗi người trong chúng tôi có cảm giác rằng mình chỉ cần vượt qua các cửa đó, nhưng lại do dự, cũng như chúng tôi cảm thấy phân vân lưỡng lự khi phải từ giã các bậc siêu nhân cao khiết mà chúng tôi tôn kính như bậc Anh Cả. Tôi nghĩ rằng trong đời của mỗi người trần gian sẽ có lúc mà y có thể nhìn thấy cái cửa mở rộng cũng như vào cái ngày đẹp trời tháng tư năm ấy chúng tôi đã thấy rõ trước mắt những viễn ảnh vô biên mà người ta có thể đạt tới. Tôi yêu cầu quý vị độc giả hãy tạm thời bỏ qua tất cả mọi thành kiến của mình, và nếu có thể, quý vị hãy nhìn xuyên qua cặp mắt của chúng tôi. Tôi không ước mong quý vị tin tưởng điều gì cả. Tôi chỉ yêu cầu quý vị hãy hiểu rõ sự khác biệt giữa sự diễn tả cuộc đời của các Chân Sư với việc ngồi dưới chân các ngài để nghe các ngài dạy bảo. Dường như nếu chúng ta dám táo bạo tiến tới để vượt qua cái cửa mở rộng nói trên, chúng ta sẽ có thể thực hiện mọi điều mong ước. Tuy thế, chúng ta lại do dự. Tại sao? Đó là bởi vì chúng ta không có đức tin tuyệt đối. Chúng ta để cho những ý nghĩ truyền thống thủ cựu kéo ta thụt lùi lại phía sau và đóng sầm cái cửa kia lại. Rồi sau đó chúng ta nói rằng cái cửa kia bị đóng lại là do định mệnh, mặc dầu chúng ta biết quá rõ rằng định mệnh của mỗi người chỉ tùy ở tự nơi mình. Đây là những người tốt lành, sống giản dị nhưng lại là những người phi thường, trong số đó có nhiều người đã vượt qua cái cửa ngõ đó từ nhiều thế hệ đã qua và có lẽ không biết tự bao giờ. Họ sống cuộc sống tâm linh. Họ không tuân theo truyền thống hay quy luật nhất định nào, mà chỉ sống một cuộc đời lương thiện và trong sạch, một cuộc đời toàn vẹn đáng sống, với hai chân chồng vững trên mặt đất. Tôi để cho quý vị độc giả hãy tự so sánh. Chúng tôi do dự không muốn từ giã các siêu nhân quý mến mà chúng tôi từ sát cánh một cách chặt chẽ trong những tháng vừa qua, tuy vậy chúng tôi lại háo hức nhìn về tương lại, vì biết rằng còn những kinh nghiệm khác đang chờ đợi chúng tôi. Bởi vậy, chúng tôi từ giã các vị siêu nhân vào một buổi sáng đẹp trời tháng Tư. Các vị thân mật bắt tay chúng tôi và thành thật mời chúng tôi trở lại khi có dịp. Chúng tôi vái chào các vị một lần cuối và đi về hướng bắc để vượt qua sa mạc Gobi. Những câu chuyện phiêu lưu nguy hiểm đáng sợ mà chúng tôi nghe nói đã từng sảy ra ở vùng này luôn ám ảnh chúng tôi như những viễn ảnh đen tối. Tuy nhiên chúng tôi không sợ vì có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi theo chúng tôi và Chandersen thì thay chỗ Nê Bưu. Đối với chúng tôi là những người đã từng đi du lịch nhiều nơi, việc tháp tùng theo đoàn người đi trên sa mạc là một việc thông thường hằng ngày. Tôi chắc rằng tất cả các đoàn viên trong nhóm chúng tôi đều sung sướng ra đi trong cuộc phưu lưu đầy hứa hẹn này. Tất cả đều biết rằng một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện trước mắt chúng tôi. Mỗi người đều biết rõ sự xa xôi hẻo lánh và cô lập của vùng sa mạc và biết rõ những nguy cơ có thể xảy đến trong những cuộc du hành thuộc loại này. Tuy nhiên, một mãnh lực huyền bí không cưỡng lại được đã thúc đẩy chúng tôi tiến bước. Đức tin tuyệt đối nơi các vị siêu nhân đã giúp chúng tôi dứt bỏ mọi ý nghĩ sợ sệt hay lo ngại những sự khó khăn xảy đến, và chúng tôi lao mình vào cuộc phưu lưu với một sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ. Chúng tôi đã từng quen thuộc với những vùng hẻo lánh nhất thế giới, nhưng chưa bao giờ chúng tôi có kinh nghiệm về một xứ xa xôi và cô lập như vùng này. Tuy nhiên, chúng tôi có thể du lịch nơi đây một cánh tự do và dễ dàng khác thường. Quý độc giả sẽ không ngạc nhiên về sự yêu thích của chúng tôi đối với xứ này và đối với các vị ân nhân của chúng tôi. Chúng tôi có cảm giác mình có thể đi lên hướng Bắc đến khi vượt qua khỏi vùng Bắc Cực và chinh phục luôn cả. - Ồ! Nếu chúng Ai Cập có thể như các vị siêu nhân, thì chuyến đi này sẽ dễ dàng xiết bao! Nhưng chúng ta lại bắt buộc các vị cùng đi bộ một cách nặng nề chậm chạp như chúng ta chỉ vì chúng ta không thể bắt chước các ngài! Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến cuối ngày thứ bảy của cuộc hành trình. Chiều hôm ấy, vào khoảng năm giờ. Chúng tôi vừa ra khỏi một khe núi sâu thẳm thì một đoàn viên báo tin có nhiều kỵ mã ở đằng xa. Chúng tôi lấy ống dòm mà xem và đếm tất cả hai mươi bẩy người kỵ mã dường như có mang đầy đủ khí giới. Chúng tôi liền báo cáo với Dật Sĩ. Anh ta đáp rằng có lẽ đó là đoàn người du mục thường có ở vùng này. Chúng tôi hỏi y phải chăng là bọn cướp. Y đáp rằng có thể như vậy, vì bọn chúng không có dắt theo một đoàn cừu hay dê nào. Chúng tôi rời khỏi đường mòn và tiến tới một chòm cây rậm rạp, tại đây chúng tôi cắm trại để nghỉ ban đêm. Trong khi đó, hai người trong nhóm chúng tôi vượt qua một giòng suối gần nơi cắm trại và bước lên một ngọn đồi, từ đó họ có thể nhìn thấy vùng đồng bằng ở chỗ chúng tôi đã khám phá ra đoàn kỵ mã. Khi lên tới đỉnh đồi, họ ngừng lại và soi ống dòm rồi hối hả trở về trại. Khi họ về gần tới, họ loan báo rằng đoàn kỵ mã ở cách đây không xa hơn năm cây số và đang tiến về phía chúng tôi. Ngay khi đó, một người trong nhóm chúng tôi nói rằng một cơn giông bão sắp thổi đến. Chúng tôi nhìn lên trời, thì quả thật thấy hai đám mây u ám nặng nề đang kéo về phía tây bắc, đồng thời một đám sương mù từ bốn phía áp lại gần chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy rất băn khoăn lo ngại, vì bây giờ chúng tôi có thể nhìn thấy đoàn kỵ mã đang tiến, thẳng về phía trại chúng tôi. Tuy nhóm chúng tôi có tất cả ba mươi hai người, chúng tôi không có một khẩu súng nào, và điều này làm chúng tôi rất lo lắng. Không bao lâu, cơn bão tuyết thổi đến chúng tôi với một tốc độ mãnh liệt kinh khủng. Sự lo ngại của chúng tôi mỗi lúc càng tăng vì chúng tôi đã từng kinh nghiệm sức tàn phá của giông bão trong những vùng sa mạc hẻo lánh như vậy. Trong một lúc, cơn giông với tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ, chứa đầy những mảnh tuyết vụn, quất vào chúng tôi và gầm thét ầm ĩ chung quanh tất cả mọi người. Chúng tôi đang e ngại sẽ bị bắt buộc dời trại di chỗ khác để tránh những cành cây gẫy đồ rơi trên đầu mình, thì bầu không khí chung quanh trại thình lình lắng dịu và trở nên yên tĩnh. Trong một lúc chúng tôi nghĩ cơn bão tuyết có lẽ chỉ có giới hạn trong lúc ngắn ngủi, như thường xảy ra trong vùng này. Vì bầu trời chưa đến nỗi quá ám, chúng tôi bèn lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng để lập lại trật tự trong các lều trại, và mất độ nửa giờ để làm công việc này. Ký ức về cơn bão tuyết và bọn cướp, nó đã làm cho chúng tôi sợ sệt, nay đã hoàn toàn biến mất ra khỏi đầu óc chúng tôi. Chúng tôi ngừng tay trong một lúc, và vị trưởng nhóm bước ra chỗ trại. Sau khi đã nhìn ra ngoài, y day lại và nói: - Cơn bão tuyết dường như đang hoành hành dữ dội ở gần đây, còn ở chỗ chúng ta đang ở, thì chỉ có một cơn gió thoảng nhẹ. Các bạn hãy nhìn xem; lều vải và cây cối chung quanh đây không bị lay động gì. Khí trời ấm áp và thoang thoảng mùi hương thơm của hoa cỏ. Nhiều người trong bọn chúng tôi đi theo y ra ngoài và trong một lúc, đứng lặng người vì ngạc nhiên. Trong khi chúng tôi lo dọn dẹp đồ đạc bên trong trại, chúng tôi không ý thức được cơn giông bão. Chúng tôi nghĩ rằng nó đã qua và thổi về phía khe núi. Thật vậy, vài cơn bão thổi tạt ngang qua vùng này như một cơn gió lốc. Chúng hoành hành dữ dội trên nhiều cây số đường trường trước khi lắng dịu, và tiếp theo sau đó là một cơn yên tĩnh lạ thường. Nhưng trường hợp này không giống như thế. Cơn bão đang thổi mạnh ở cách chúng tôi độ ba chục thước, nhưng khí trời lại êm ả và ấm áp ở chung quanh chúng tôi. Trái lại, chúng tôi đã từng kinh nghiệm rằng trong cơn bão tuyết tương tự, người ta thường bị lạnh buốt thấu xương, và có thể bị nghẹt thở vì trong một cơn thịnh nộ gầm thét của vũ bão, những mãnh tuyết vụn và bén nhọn bị lôi cuốn theo sức gió và quất mạnh vào mặt mũi ngươi du khách chẳng khác nào như kim đâm. Thình lình, vùng yên tĩnh chung quanh chúng tôi sáng lên dường như bởi một phép lạ. Trong cơn kinh ngạc, dường như chúng tôi nghe có những tiếng người xem lẫn với tiếng gầm thét của cơn giông. Người ta báo hiệu đến giờ ăn chiều. Chúng tôi bước vào lều ăn và ngồi xuống. Trong bữa ăn, môt bạn tôi băn khoăn về số phận của những kỵ mã. Một bạn khác nói: - Chúng tôi nghe dường như có tiếng người kêu gọi khi chúng tôi bước ra ngoài trại. Chúng tôi có thể nào cứu giúp những người kỵ mã hay chăng trong trường hợp họ đi lạc trong cơn bão tố? Dật Sĩ bèn lên tiếng và nói rằng những người ấy thuộc về một trong những bọn cướp khét tiếng trong vùng. Họ chuyên môn cướp bóc xóm làng, và chiếm đoạt những đoàn dê trừu của dân chúng. Sau bữa ăn chiều, trong một lúc gió lặng, chúng tôi nghe có tiếng người kêu ngựa hí, cùng với tiếng vó ngựa đạp lộn xộn dường như những người kỵ mã không còn làm chủ chúng nó được nữa. Những tiếng động ấy co vẻ như rất gần, nhưng chúng tôi không thể nhìn thấy gì cả vì ban đêm tuyết xuống dày đặc. Chúng tôi không còn nhìn thấy một ánh sáng nào của những đèn đuốc và lửa trại. Sau đó một lát, đức Tuệ Minh đứng dậy và nói rằng ngài phải đi mời những kẻ cướp vào trại, vì trừ những trường hợp phi thường, không một người hay một con vật nào có thể sống sót đến sáng ngày hôm sau trong cơn bão tuyết. Thật vậy, không khí ở bên ngoài đã trở lên lạnh buốt vô cùng. Hai người trong bọn chúng tôi tình nguyện xin đi theo đức Tuệ Minh, điều này có vẻ làm cho ngài vui lòng. Ngài nhận lời, và cả ba người đều biến mất dạng trong cơn giông bão. Độ hai mươi phút sau, ba người đã trở lại, cùng với hai mươi tên cướp đi bộ, tay cầm cương dắt ngựa đi theo sau. Những tên cướp này cho chúng tôi biết rằng bảy người đồng bọn của họ đã mất liên lạc với cả đoàn và có lẽ đã đi lạc trong cơn bão tuyết. Những tên cướp gồm một thành phần hỗn tạp với những gương mặt hung dữ của bọn lục lâm cường đạo. Khi họ bước vào trại có đèn lửa ấm áp, họ có vẻ nghi ngờ rằng chúng tôi gài bẫy để bắt họ. Sự lo âu của họ hiện rõ trên nét mặt, nhưng đức Tuệ Minh bảo đảm rằng họ được tự do ra đi bất cứ lúc nào. Ngài chỉ cho họ thấy rằng nếu họ muốn tấn công chúng tôi, chúng tôi không còn một khí giới nào để tự vệ. Tên đầu đảng bọn cướp thú thật rằng đó chính là ý định đầu tiên của họ khi họ vừa nhìn thấy chúng tôi từ trong khe núi đi ra trước cơn giông bão. Sau đó, họ trở nên do dự và đi lạc đến nỗi họ mất phương hướng để trở về trại. Khi đức Tuệ Minh và hai người trong bọn chúng tôi thấy họ, thì họ đang trú ẩn một bên vách núi ở cách trại chúng tôi có năm chục thước. Tên đầu đảng bọn cướp nói rằng nếu chúng tôi hất hủi họ, thì chắc chắn là họ sẽ chết vì lạnh. Đức Tuệ Minh trấn an họ và nói rằng điều đó sẽ không xảy ra. Bọn cướp bèn cột ngựa vào những gốc cây để nghỉ lại ban đêm, rồi ngồi riêng với nhau ở một góc. Họ bắt đầu ăn thịt dê phơi khô và bơ con yak (một loại bò lùn và có sừng lớn ở xứ Tây Tạng) mà họ lấy ra từ trong những bọc da giấu dưới yên ngựa. Trong khi ăn, họ để khí giới trong tầm tay và thỉnh thoảng lại để nghe ngóng mỗi khi có một tiếng động nhỏ. Họ nói chuyện và bộ tịch rất tự nhiên. Dật Sĩ nói với chúng tôi rằng họ lấy làm ngạc nhiên về những đồ trang bị của chúng tôi và về ánh lửa trong trại. Họ tự hỏi tại sao ở đây không có gió lớn, tại sao không khí trong trại rất ấm cúng, và tại sao mấy con ngựa có vẻ ung dung thoải mái như thế? Một đứa lúc nào cũng nói chuyện huyên thuyên và nói nhiều nhất trong bọn cướp, đã từng nghe nói về các vị Chân Sư. Y nói với những kẻ đồng bọn rằng các vị siêu nhân cũng như thánh thần và có thể tiêu diệt bọn họ tùy ý muốn và mau lẹ trong khoảnh khắc. Nhiều tên khác tưởng chúng tôi âm mưu để bắt sống họ, bèn tìm cách thuyết phục cả bọn đánh cướp tài sản chúng tôi rồi tẩu thoát. Nhưng tên đầu đảng ra lịnh cho họ không được phá phách chúng tôi, và nói rằng nếu họ làm hại chúng tôi, tất cả bọn sẽ bị tiêu diệt. Sau một cơn thảo luận dông dài, tám tên cướp bèn đứng dậy, bước đến gần chúng tôi, và nói với Dật Sĩ rằng bọn chúng không muốn ở lại thêm nữa. Họ sợ có xảy ra những việc bất trắc và muốn trở về trại của họ ở cuối dòng sông cách đó vài cây số. Họ đã tìm ra phương hướng nhờ căn cứ vào cái lùm cây to chỗ chúng tôi cắm trại. Họ bèn lên ngựa và bắt đầu đi xuống thung lũng. Sau đó hai mươi phút, tất cả bọn đều quay lại và nói rằng tuyết xuống dày đặc đến nỗi ngựa của họ không thể tiến tới được nữa. Chính họ cũng không thể đương đầu với một cơn bão tuyết này, là cơn bão mãnh liệt nhất từ nhiều năm nay. Kế đó, họ tìm chỗ ở ngoài trại để nghỉ lại ban đêm. Một bạn tôi nói: - Tuy bọn này làm tôi sợ, nhưng tôi vẫn cảm thấy an toàn hơn ở trong lều so với ở bên ngoài, giữa cơn bão lớn. Dật Sĩ quay lại chúng tôi và nói: - Các bạn ở đâu, là nhà của Thượng Đế ở đó. Nếu các bạn ở tại đây, trong trại này, các bạn sống trong niềm vui của Thượng Đế. Sự ấm áp và tiện nghi trong trại có nghĩa gì nếu các bạn không ở tại đây, hoặc nếu các bạn không nhận thấy có sự ấm áp và tiện nghi đó? Các bạn có thể tự do mời những người ngoài vào đây. Tuy nhiên, họ không chịu vào, vì họ không biết tới chỗ ở của các bạn. Mặc dầu họ cảm thấy sự ấm cúng nhưng những người anh em thân mến này không muốn ở lại gần, bởi vì họ luôn luôn sống bằng nghề cướp bóc. Họ không thể hiểu rằng chính những người mà họ coi như những miếng mồi đương nhiên của họ, lại có thể dành cho họ một sự tiếp đón thân hữu mà không có lý do đặc biệt, và nhất là mình không thuộc về giới lục lâm cường đạo. Họ không biết rằng giữa cơn bão tuyết, lạnh lẽo, hay giữa cơn dày vò đau khổ nhất, vẫn luôn luôn có sự hiện diện của Thượng Đế. Không một cơn giông to, gió lớn, hay bão lụt nào có thể làm hại được những người đã đặt sự an toàn của mình trong tay của Thượng Đế. Người ta chỉ bị đắm đuối trong cơn giông gió, bão lụt, khi nào người ta đã mất liên lạc với Thượng Đế. Thượng Đế chỉ có thể thực hiện được những gì các bạn hiện đang nhìn thấy, khi nào người ta hướng tầm nhãn quang của mình đến Ngài một cách vững chắc, không hề lay chuyển, đến mức không còn biết gì và không nhìn thấy gì khác nữa ở bên ngoài... Người ta có thể tìm thấy yên tĩnh thật sự giữa cơn bão tố, vì sự yên tĩnh chân thật vốn ngự trong tâm hồn của người nào đã tìm thấy Chân Ngã. Trái lại, người ta có thể ngồi ở một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, giữa chốn sa mạc hẻo lánh hoang vu, một mình đối diện với bóng hoàng hôn êm ả và giữa cảnh im lặng của thiên nhiên, nhưng lại bị dày vò cắn xé bởi cơn bão lòng của những đam mê, dục vọng, hoặc bị giao động rung chuyển tâm hồn bởi những sấm sét của sự sợ hãi, kinh hoàng... Những người này là tàn tích của một dân tộc xưa kia đã từng có một nền văn minh cao cả và thịnh vượng. Tổ tiên của họ cư ngự nơi xứ này vào thời kỳ mà xứ ấy còn là một đế quốc kỹ nghệ phồn thịnh, hùng cường. Họ đã từng biết thực hành các môn khoa học và mỹ thuật. Họ cũng đã biết rõ nguồn gốc tinh thần và sức mạnh tâm linh của họ và đã biết tôn thờ sùng kính Thiêng liêng. Về sau đến một thời kỳ họ bắt đầu say mê những khoái lạc vật chất và rơi vào tình trạng trụy lạc, sa đọa tâm linh. Khi đó một tiếng động lớn, một cơn thiên tai địa chấn tàn phá và làm sụp đổ tất cả, chỉ còn để lại có những bộ lạc sơn nhân miền thượng ở rải rác trên những vùng hẻo lánh. Những bộ lạc sống sót này mới quy tựu thành những cộng đồng sinh hoạt, từ đó mới xuất phát ra những chủng tộc lớn ở Âu Châu ngày nay. Vùng này là vùng sa mạc Gobi bị cơn địa chấn tàn phá và đưa lên một chiều cao mà không còn một loài thảo mộc nào có thể sống được. Dân cư vùng ấy đã hầu như bị hoàn toàn tiêu diệt, đến nỗi chỉ còn lại có những cộng đồng hiếm hoi cô lập, và có nơi chỉ còn lại có một hoặc hai gia đình. Những cộng đồng này mới tổ hợp lại thành từng đoàn. Đó là tổ tiên của những người dân sống tại nơi đây, họ không thể phát triển để tiến bộ hơn nữa, vì họ luôn luôn bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tương tàn giữa họ với nhau. Lịch sử và nguồn gốc của họ đã bị lãng quên, nhưng người ta có thể truy nguyên đến tận nguồn gốc duy nhất của nền tôn giáo và những huyền thoại của họ. Những nền tảng của tôn giáo và huyền thoại này ở đâu cũng giống như nhau, tuy rằng những hình thức sắc tướng rất là khác biệt, và có những điểm dị đồng rất lớn... Đến đây, Dật Sĩ nói y không muốn làm nhàm tai chúng tôi, vì phần đông các bạn tôi đã ngủ mê. Chúng tôi bèn nhìn về phía bọn cướp. Họ cũng đã ngủ mê, và cũng như chúng tôi, họ đã quên mất cơn giông bão tuy rằng cơn giông bão vẫn tiếp tục hoành hành dữ dội. Chúng tôi bước vào lều để nghỉ ngơi sau khi đã một lần nữa, tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với các vị chân sư cao cả. Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy, mặt trời chiếu tỏ rạng, cả trại đều rộn rịp. Chúng tôi hối hả thay quần áo và thấy rằng tất cả mọi người, luôn cả bọn cướp, đều sắp sửa chuẩn bị ăn sáng. Trong khi ăn, chúng tôi được thông báo chương trình ngày hôm ấy là lên đường hộ tống bọn cướp trở về trại của họ. Thật vậy, người ta dễ tìm đường khi đi chung với nhau từng đoàn hơn là đi lẻ tẻ. Điều này làm cho bọn cướp hài lòng, nhưng không làm cho chúng tôi vui, vì chúng tôi được biết rằng ở trại của họ, bọn cướp có đến một trăm năm mươi người. Khi chúng tôi điểm tâm xong, thì mọi vết tích của cơn bão đã biến mất. Chúng tôi bèn dỡ trại và cùng đi với bọn cướp, cả người lẫn ngựa, để tìm đường về trại họ. Trại của bọn cướp ở cách đó dưới hai mươi cây số. Tuy vậy, chúng tôi chỉ đến nơi vào lúc xế chiều, và lấy làm sung sướng mà có thể nghỉ chân tại đó. Chúng tôi nhận thấy trại ấy rất tiện nghi, có đủ chỗ rộng rãi để chứa tất cả phái đoàn. Sau bữa ăn chiều, chúng tôi nhận thấy rằng nên ở lại đó một hai ngày để chờ cho tuyết ém chặt lại. Thật vậy, qua ngày hôm sau chúng tôi phải vượt một truông núi cao gần năm nghìn thước. Vì thời tiết không tạnh ráo trở lại như chúng tôi mong, chúng tôi phải kéo dài thời gian lưu trú tại đây trong bốn ngày. Dân làng đối xử với chúng tôi một cách tôn kính và cố gắng làm cho chúng tôi được vui lòng. Khi chúng tôi lên đường, có hai người đến xin nhập bọn với phái đoàn. Chúng tôi vui vẻ nhận lời, vì dầu sao chúng tôi cũng phải tuyển mộ một số lao công phụ giúp khi đến làng sắp tới, cách đó độ một trăm cây số. Hai người này tháp tùng đi theo chúng tôi cho đến bận về, vào mùa thu. Khi chúng tôi rời khỏi làng, gần hết phân nửa dân làng tiễn đưa chúng tôi đến tận đỉnh của truông núi để giúp chúng tôi tìm ra con đường mòn bị tuyết dày đặc lấp mất cả dấu vết. Chúng tôi rất cám ơn sự cố gắng, khả ái của họ, vì công việc leo núi thật rất khó khăn. Lên đến đỉnh truông núi, chúng tôi từ biệt các người anh em lục lâm cường đạo và trực chỉ đi đến chỗ hẹn. Chúng tôi đến đây ngày hai mươi tám tháng năm, tức là ba ngày sau những toán đoàn viên bạn, như họ đã gặp chúng tôi tại đây hồi mùa thu năm trước. 3. Những Di Tích Các Thành Phố Cổ Sau một tuần lễ nghỉ ngơi, chúng tôi tom góp đồ hành trang và toàn thể phái đoàn đều lên đường đi đến chổ địa điểm tọa lạc của thủ đô đế quốc Uiguor thời tiền sử. Chúng tôi đến đây vào ngày Ba mươi tháng Sáu, và bắt đầu ngay công việc đào xới. Giếng đào đầu tiên của chúng tôi chưa sâu tới hai chục thước, thì chúng tôi gặp phải vách tường của một dinh thự cũ. Chúng tôi đào sâu độ ba chục thước để có thể lọt vào một gian phòng lớn, tại đây chúng tôi tìm thấy những xác ướp còn nguyên vẹn ở tư thế ngồi xếp bằng, gương mặt bao phủ bởi một cái mặt nạ bằng vàng. Tại đó có nhiều pho tượng bằng vàng, bạc, đồng và đất sét, tất cả đều trạm trổ rất đẹp. Chúng tôi đã chụp ảnh tất cả. Khi công việc đào xới đã tiến hành đến mức độ đủ chứng minh một cách thỏa đáng rằng đó thật là những di tích cổ xưa của một thành phố rất lớn, chúng tôi bèn đi đến địa điểm thứ nhì, mà chúng tôi tìm thấy ngay bởi những bút tích diễn tả trên những tấm bia đá cổ đã nói ở trên. Tại đây chúng tôi đào sâu chừng mười hai thước trước khi tìm thấy những di tích chắc chắn của một nền văn minh cổ. Chúng tôi đã làm một công việc khá đầy đủ để chứng minh lại một lần nữa và một cách chắc chắn rằng đó là những di tích điêu tàn của một thành phố cổ. Kế đó chúng tôi đi đến địa điểm thứ ba, tại đây chúng tôi định khám phá những tàn tích chứng minh sự hiện diện của một thành phố còn cổ xưa hơn và rộng lớn hơn nữa. 4. Bọn Cướp Núi Và Đoàn Kỵ Mã Cứu Trợ Vô Hình Để tiết kiệm thời giờ và tài nguyên, chúng tôi tổ chức thành bốn toán, trong số đó có ba toán gồm một trưởng toán và sáu người phụ tá, tức là mỗi toán có bảy người. Công việc đào xới và bảo tồn các giống đào được giao phó cho ba toán đó, mỗi toán thay phiên nhau làm việc tám giờ mỗi ngày. Còn toán thứ tư gồm tất cả số người còn lại. Toán này có phận sự canh phòng chung quanh trại và lo việc chu cấp lương thực cho cả phái đoàn. Tôi thuộc về toán đặt dưới sự chỉ huy của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Toán của tôi làm việc từ nửa đêm tới tám giờ sáng. Sau khi đã đào xong giếng đầu tiên, chúng tôi lọt vào bốn gian phòng dưới lòng đất, mà chúng tôi lo quét dọn lại. Sau đó, chúng tôi đã có thể chứng minh rằng đó là di tích của thành phố lớn nhất và cổ xưa nhất trong ba thành phố, và nó chứa đựng rất nhiều kho tàng. Một buổi sáng, toán công nhân đến thay phiên toán của tôi báo động rằng có nhiều người kỵ mã đang tiến gần đến trại từ hướng bắc. Chúng tôi ngoi lên mặt đất và thấy họ đang tiến về phía chúng tôi. Đó chắc là một đoàn lục lâm cường đạo, vì rõ ràng là họ noi theo con đường mòn đã đưa theo chúng tôi đến đây. Trong khi chúng tôi còn đang nhìn, thì Dật Sĩ bước tới và nói: - Đó là một bọn cướp định đến đánh phá trại chúng ta, nhưng chúng ta không cần phải sợ hãi. Chúng tôi để cho bọn cướp đến gần. Khi họ đến gần trại còn cách chừng năm trăm thước thì họ ngừng lại. Sau đó một lát, có hai tên cướp tế ngựa lại trại chúng tôi, cất tiếng chào xong rồi liền hỏi chúng tôi đang làm gì ở đây. Chúng tôi nói rằng chúng tôi đang thử tìm kiếm những tàn tích của một thành phố cổ. Họ đáp rằng họ không tin như vậy, và nghi rằng chúng tôi là những kẻ đi tìm vàng. Họ toan tính với nhau để đánh cướp những đồ khí cụ trang bị và lương thực của chúng tôi. Chúng tôi hỏi họ phải là binh lính của chánh phủ không? Họ đáp rằng họ không thừa nhận một chánh phủ nào cả vì xứ này chỉ có sức mạnh là đáng kể. Nhìn thấy chúng tôi không có vẻ gì lo sợ và cũng không có khí giới, có lẽ họ cho rằng chắc là chúng tôi còn đông người hơn chứ không phải có bấy nhiêu. Họ bèn quay về bọn cướp để thảo luận kế hoạch. Được mỗt lát, hai tên ấy đã trở lại và nói rằng nếu chúng tôi chịu khuất phục một cách êm thấm, thì họ sẽ không làm hại gì cả. Nếu không, họ sẽ tiến đến và giết chết tất cả những người nào dám chống cự họ. Họ cho chúng tôi mười phút để quyết định, sau mười phút đó họ sẽ tấn công mà không cần phải báo trước. Dật Sĩ đáp rằng chúng tôi không chống cự mà cũng không đầu hàng ai cả; điều này có vẻ làm cho họ nổi nóng. Họ quay ngựa trở về với bọn cướp, và rút súng ra sẵn sàng. Tất cả bọn cướp bèn cho ngựa phóng nước đại tấn công vào trại chúng tôi. Tôi thú thật là đã sợ hoảng vía. Nhưng ngay sau đó, bỗng xuất hiện nhiều hình bóng giống như những người kỵ mã tế ngựa xung quanh chúng tôi. Những hình bóng này càng hiện rõ, trở lên linh động và đông đảo hơn. Bọn cướp cũng đã nhìn thấy điều ấy. Vài tên cướp mau tay giật dây cương quay đầu trở lại. Những con ngựa của vài tên khác sợ hoảng nhẩy chồm lên, ngã quỵ xuống đất và thoát ra khỏi sự điều khiển của chủ chúng nó. Chỉ trong khoảnh khắc, một cơn náo loạn kinh khủng đã diễn ra trong hàng ngũ của bọn cướp gồm bảy mươi lăm người. Bầy ngựa bắt đầu hí vang và ngã quỵ quăng bọn cướp té ngã lổng chổng. Cơn náo loạn kết thúc bằng một cuộc chạy trốn xiểng liểng, trong khi đó những người kỵ mã vừa xuất hiện phi ngựa đuổi theo bén gót. Khi cơn loạn động đã êm, vị trưởng nhóm, một đoàn và tôi, cùng đi tới chỗ mà bọn cướp bị chặn lại để nhìn xem nhưng không thấy có dấu vết nào ngoài ra những dấu chân ngựa lộn xộn của bọn cướp. Điều này có vẻ là một điều bí hiểm, vì những người cứu trợ chúng tôi đã xuất hiện rõ ràng thật sự cũng như bọn cướp, và chúng tôi đã nhìn thấy họ đến từ bốn phía. Bởi vậy chúng tôi chắc sẽ tìm thấy trên bãi cát những dấu chân ngựa của họ xen lẫn với những dấu vết của bọn cướp. Khi chúng tôi quay trở lại, Dật Sĩ nói: - Những người kỵ mã ấy chỉ là những hình bóng mà chúng tôi đã làm cho xuất hiện y như thật đến nỗi các bạn và cả bọn cướp đã có thể nhìn thấy. Đó là những hình ảnh của quá khứ mà chúng tôi có thể phóng ra một cách linh động đến nỗi nhìn thấy không khác gì sự thật. Chúng tôi có thể phóng những hình ảnh đó để tự vệ và để bảo vệ kẻ khác, mà kết quả là không làm hại ai cả. Khi một mục đích nhất định đã được đặt ra, thì kết quả là không gây thương tổn. Một sự nghi ngờ đã nẩy sinh ra trong óc của bọn cướp. Họ nghĩ rằng không có lý nào một phái bộ như chúng ta lại mạo hiểm đi đến chỗ xa xôi như vậy mà không có phòng vệ. Chúng tôi lợi dụng sự nghi ngờ những cạm bẫy. Bọn cướp là một hạng người rất nhát gan. Họ sợ thứ gì thì họ sẽ gặp thứ đó. Nếu chúng tôi không dùng phương pháp đó, thì có lẽ chúng tôi bắt buộc phải tiêu diệt một số đông bọn cướp trước khi kẻ sống sót chịu để cho chúng ta yên. Nhưng bây giờ thì chúng ta không còn nghe nói đến bọn cướp ấy nữa. Thật vậy, chúng ta không còn sợ bị họ quấy phá. Khi những cuộc đào xới đã có những bằng chứng để làm cho chúng tôi tin tưởng sự hiện hữu của ba thành phố cổ, chúng tôi có ý nghĩ lấp những giếng đào để che mắt những đoàn người du mục vì họ có thể tìm ra dấu vết của những cuộc khảo cổ này. Thật vậy, sự khám phá ra các giếng này chắc sẽ gây nên một sự cướp bóc toàn diện do bởi sự hấp dẫn của các kho tàng, vì những huyền thoại được lưu truyền khắp nơi về sự hiện hữu của những thành phố cổ và những kho vàng bạc châu báu chôn dấu trong đó. Bởi vậy, sau khi hoàn tất công việc khảo cổ, chúng tôi lấp giếng và cố gắng che đậy các dấu vết chỉ còn để lại đến tối thiểu, và trông cậy nơi cơn bão đầu tiên để xóa bỏ mọi di tích còn xót lại về sự có mặt của chúng tôi. Những cồn cát ở xứ này luôn luôn di chuyển, cũng đủ làm một chướng ngại cho việc truy tìm các tàn tích cổ. Nếu không có sự giúp đỡ của các bật siêu nhân, chúng tôi không giờ có thể tìm ra những nơi cổ tích này. Chúng tôi được cho biết rằng những di tích cổ xưa tương tự còn ở rải rác trong vùng sa mạc đến tận phía nam xứ Tây Bá Lợi Á. Hiển nhiên là có một số dân cư đông đảo xưa kia đã từng sống thịnh vượng ở vùng này và đã đạt tới một trình độ văn minh rất cao. Có những bằng chứng xác thực không thể phủ nhận rằng giống dân này đã từng thực hành khoa nông nghiệp, canh tác, cùng những khoa kỹ nghệ hầm mỏ, dệt cửi và những ngành sinh hoạt liên hệ. Họ đã từng biết đọc, viết chữ và biết cả những ngành khoa học khác. Thật rõ ràng là lịch sử của những dân tộc này đã đồng hóa với lịch sử của giống dân Aryen (tức giống dân thứ năm, thủy tổ của các dân tộc văm minh Âu Mỹ hiện nay). 5. Một Cuộc Gặp Gỡ Huyền Diệu Trước ngày chúng tôi lên đường, trong bữa ăn có một bạn tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng lịch sử của giống dân vĩ đại này có thể nào viết lại được chăng? Đức Tuệ Minh đáp rằng có thể được, vì thành phố cổ chôn vùi ở phía dưới chỗ chúng tôi đang cắm trại, có chứa đựng những tài liệu bút tự hoàn toàn xác đáng. Người ta chỉ cần tìm lại và phiên dịch những tài liệu đó để có một sự xác nhận trực tiếp về lịch sử của giống dân này. Câu chuyện bị gián đoạn khi có một người vừa xuất hiện ở ngoài cửa trại. Người ấy xin phép bước vào lều. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Chandersen liền vội vàng bước ra để gặp người ấy. Xét về việc các vị mừng rỡ tiếp đón chào hỏi nhau, chúng tôi hiểu rằng các vị đã từng quen biết nhau nhiều. Tô Mặc bèn đứng dậy đi theo các vị. Khi y ra đến cửa, y đứng sựng lại một lúc trong cơn ngạc nhiên, rồi bước ra ngoài lều đưa thẳng hai tay ra trước mà nói: - Đây mới thật là một sự bất ngờ! Những tiếng kêu ngạc nhiên thốt lên cùng một lượt như một cuộc hòa tấu, trong khi những vị quý khách mới đến, cả nam lẫn nữ, trao đổi những lời chào hỏi với y và với ba vị siêu nhân. Khi đó, những người ngồi bên trong lều bèn đứng dậy, hối hả bước ra ngoài và thấy một nhóm gồm tất cả mười bốn người khách vừa mới đến. Trong nhóm ấy, có bà Mã Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, cùn với người con trai và con gái của đức Tuệ Minh và một số người khác. Tất cả mọi người đều vui vẻ, và chúng tôi hồi tưởng lại những cuộc hội họp trong những ngày đã qua. Chúng tôi thật là hoàn toàn ngạc nhiên, và chúng tôi không dấu diếm điều đó. Nhưng sự ngạc nhiên ấy lại còn lớn hơn nữa trong những bạn đoàn viên thuộc các toán khác của phái đoàn. Nhìn vào gương mặt họ, chúng tôi hiểu rằng họ ngạc nhiên đến mức vô hạn không thể nào diễn tả nổi, vì họ chưa từng chứng kiến như chúng tôi về những cơn xuất hiện và biến mất một cách bất ngờ kiểu đó. Công việc khảo cổ đã làm chúng tôi quá bận rộn đến nỗi chúng tôi đã bỏ qua không kể lại cho họ nghe đầy đủ những kinh nghiệm đã qua của chúng tôi, ngoài ra những câu chuyện vắn tắt đứt đoạn. Sự xuất hiện của các vị quý khách dường như từ vòm trời trong sáng mà đến, đã làm cho họ hoàn toàn khựng lại và đứng trơ như tượng đá, điều này là một đầu đề để chúng tôi bỡn cợt họ một cách nhẹ nhàng. Sau việc giới thiệu đã xong xuôi, người phụ trách việc nấu ăn bước tới nói riêng với đức Tuệ Minh và Tô Mặc với một vẽ thất vọng: - Làm sao đãi ăn tất cả bấy nhiêu người? Lương thực của chúng ta đã cạn, và đồ tiếp tế còn chưa đến kịp. Chúng ta chỉ còn vừa tạm đủ để ăn bữa chiều nay và bữa điểm tâm sáng ngày mai. Vả lại, mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng cho chúng ta lên đường. Lê Mông, vị trưởng phái đoàn, đã lắng tai nghe rõ mọi chuyện. Y bèn bước tới, và tôi nghe y hỏi: - Trời đất! Tất cả những người này từ đâu đến đây? Tô Mặc vừa nhìn y vừa cười và đáp: - Lê Mông, anh có vẻ ngớ ngẩn. Các vị đến trực tiếp từ trên trời. Hãy nhìn xem, các vị không có một phương tiện di chuyển nào cả. Lê Mông nói: - Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là hình như họ không có cánh. Khi họ đáp xuống bãi cát, đáng lẽ chúnh ta phải nghe tiếng động, vì họ rất đông. Nhưng chúng ta chẳng nghe thấy gì cả. Như vậy tôi tạm kết luận tằng giả thuyết hoàn toàn hợp lý của anh là đúng. Lúc ấy, đức Tuệ Minh day lại và nói rằng để trấn an tinh thần của người đầu bếp, có lẽ người bắt buộc sẽ phải trách các vị khách đã không chịu đem theo lương thực để tự túc vì lương thực của chúng ta xét ra không đủ. Người đầu bếp có vẽ rất lúng túng và giải thích rằng y không có ý muốn nói một cách thô lỗ như vậy, nhưng dầu sao sự thật vẫn còn đó, là không đủ thức ăn cho tất cả mọi người. Các vị quý khách bèn đồng thanh cười vang lên một cách vui vẽ, điều này có vẽ làm cho y càng lúng túng hơn. Bà Mã Ly nói rằng không cần phải sợ có sự bất tiện hay thiếu xót. Bà chủ nhà của chúng tôi và vị giai nhân trong buổi dạ hội hôm trước nói rằng hai bà vui lòng đảm đương lấy trách nhiệm của bữa ăn, vì các vị quý khách đến viếng chúng tôi với ý định rõ rệt là sẽ cùng chia sẽ bữa ăn đó với chúng tôi. Người đầu bếp có vẻ yên lòng và chấp nhận ngay điều đó. Lúc ấy trời đã xế chiều. Đó là một trong những ngày mà ngọn gió mát thổi nhẹ dường như vuốt ve đồng cát Gôbi, dẫu rằng có khi chỉ một lát sau nó có thể biến thành một cơn bảo tố gầm thét thịng nộ với một tốc lực kinh khủng. Chúng tôi lấy tất cả mọi thứ gì có thể dùng làm khăn trải bàn và trải lên bãi cát, ngay ở phía ngoài trại. Đối với người ngoài, đó có vẽ giống như một cuộc đi chơi cắm trại. Những người đoàn viên thuộc các toán đến sau chúng tôi vẫn còn tỏ vẻ ngạc nhiên và do dự. Lê Mông nhìn vào nồi đựng thức ăn và nói: - Nếu tôi nhìn thấy rõ, và nếu người ta có thể chia sớt có bấy nhiêu thức ăn cho tất cả số người đông đảo như vậy thì tôi xin mở lớn đôi mắt để nhìn xem một phép lạ được thược hiện! Một người trong nhóm chúng tôi: - Thật vậy, anh hãy chống mắt cho thật lớn; vì anh sắp sửa nhìn thấy điều mà anh đã đoán đúng! Tô Mặc nói: - Anh Lê Mông, đây là lần thứ nhì trong ngày hôm nay mà anh đã đoán đúng! Kế đó, hai bà nữ khách bắt đầu múc thức ăn trong nồi để chia cho tất cả mọi người. Khi một dĩa đã múc đầy, nó được chuyển qua tay người khách và lại được thay thế bằng một cái dĩa mới, và cứ tiếp tục như thế cho đến khi tất cả mọi người đều được cung cấp thức ăn một cách dồi dào thừa thãi. Khi những dĩa được múc đầy thức ăn mỗi lúc càng tiếp tục thêm, chúng tôi thấy gương mặt Lê Mông càng tỏ vẻ lo ngại. Khi người ta đưa một dĩa cho y, y truyền qua người ngồi bên cạnh rồi nói rằng y có thể bằng lòng với một dĩa ít hơn như thế nhiều. Bà chủ nhà chúng tôi nói rằng không phải lo ngại gì cả, vì có đủ thức ăn cho tất cả mọi người. Sau khi mỗi người đã được cung cấp thức ăn một cách rộng rãi, Lê Mông nhìn vào các nồi niêu một lần nữa và thấy rằng thức ăn vẫn còn đầy, không giảm bớt chút nào. Y bèn đứng dậy và nói: - Nếu quý bà không cho tôi là một kẻ vô phép, mất dạy và thô bỉ, thì tôi xin phép được đến ngồi gần các bà. Tôi xin nhìn nhận rằng sự tò mò ngự trị mọi tư tưởng của tôi đến mức làm cho tôi không thể nuốt trôi một miếng nào. Các bà nữ khách đáp rằng nếy y muốn đến ngồi gần các bà, thì các bà sẽ coi như một cử chỉ lịch sự. Khi đó, y bèn đi vòng quanh sau lưng nhóm thực khách và đến ngồi cạnh chiếc khăn trải dưới đất, giữa bà Mã Ly và vị giai nhân tuyệt sắc. Khi y ngồi xuống, có người xin bánh mì. Trong giỏ bánh mì chỉ còn có một miếng. Vị giai nhân đưa hai bàn tay ra, thì ngay khi đó một ổ bánh mì lớn liền xuất hiện trên tay bà. Bà đưa ổ bánh cho bà chủ nhà chúng tôi, bà này sửa soạn đem cắt ra từng khoanh trước khi chia cho mỗi người thực khách. Lê Mông đứng dậy xin phép quan sát ổ bánh mì còn nguyên venï. Người ta đưa ổ bánh mì cho y, y quan sát trong một lúc với cặp mắt dò xét rồi đưa trả lại với sự băn khoăn hiện rõ trên nét mặt. Y bước đi vài bước, rồi quay lại và nói thẳng với người thiếu phụ: - Thưa bà, tôi không muốn có vẻ xấc láo, nhưng đầu óc tôi bị đảo lộn làm cho tôi không khỏi đưa ra vài câu hỏi. Vị gian nhân khẽ nghiêng mình, và nói rằng y được tự do hỏi bất cứ điều gì y muốn. Y nói: - Phải chăng bà có ý muốn nói rằng bà có thể bất chấp tất cả mọi định luật thiên nhiên, ít nhất là những định luật mà chúng ta biết, và không cần làm một cố gắng nào? Rằng bà có thể làm cho bánh mì xuất hiện từ một kho dự trữ vô hình? Người thiếu phụ đáp: - Đối với chúng tôi, kho dự trữ không phải vô hình, mà nó lúc nào cũng hữu hình. Khi bà chủ nhà chúng tôi cắt ổ bánh mì, chúng tôi nhận thấy rằng ổ bánh không hể giảm bớt. Lê Mông đã bình tĩnh lại, trở về chỗ ngồi, và vị giai nhân nói tiếp: - Ước gì các bạn có thể hiểu rằng tấm thảm kịch về cuộc đời của đức Jesus đã chấm dứt trên cây Thánh Giá, còn niềm phúc lạc của cuộc sống nơi đấng Chirst đã bắt đầu với sự phục sinh thay vì mục đích tử Đạo trên Thánh Giá. Bằng cách đó, mỗi người có thể theo gương đức Jesus trong cuộc đời tràn đầy tâm Bồ Đề, tức tràn đầy sức sống của Chân Ngã. Người ta có thể tưởng tượng một cuộc đời phúc lạc hơn và phong phú hơn sự hòa đồng với quyền năng của Chân Ngã trong nội tâm? Với cuộc sống tâm linh đó, các bạn có thể biết rằng mình được sáng tạo để chế ngự mọi hình thể, mọi hình thể, mọi tư tưởng, mọi lời nói, và mọi hoàn cảnh. Bằng cách sống cuộc đời thỏa mãn mọi nhu cầu, các bạn sẽ nhận thấy rằng đó là một cuộc đời đúng đắn khoa học. Đức Jesus đã làm cho vài ổ bánh mì và vài con cá của đứa trẻ nhỏ tăng lên gấp bội để cho đám quần chúng hãy ngồi trong vòng trật tự, trong một thái độ trông chờ, sẵn sàng lãnh nhận thức ăn được tăng thêm do bởi một định luật sáng tạo. Muốn tìm thấy sự yên vui và thỏa mãn trong đời sống của đức Jesus, người ta phải thực hiện định luật của đời ngài bằng cách hành động tuân theo những lý tưởng của Ngài. Người ta không nên ngồi yên bất động và tự hỏi rằng làm sao có đủ thức ăn để sống. Nếu đức Jesus làm như vậy, thì đám quần chúng sẽ không bao giờ được ăn uống no đủ. Thay vì làm như thế, ngài ban ân huệ trong tâm thần, ngài cám ơn chúa vì những gì mà ngài đang có, và những phần ăn được tăng thêm đủ cung cấp cho tất cả mọi người. Cuộc đời chỉ trở nên một bài toán khó khăn khi con người bắt đầu từ chối không chịu nghe theo tiếng nói ấy, y sẽ không còn làm việc để mưu sinh. Y chỉ làm việc vì niềm vui sáng tạo mà thôi. Y sẽ bước vào niềm phúc lạc sáng tạo, một lãnh vực được cai quản bởi luật Trời hay tiếng nói của Thượng Đế... Kế đó, vị giai nhân day qua Lê Mông nói: - Đức Jesus đã dạy những luật Đạo nhằm mục đích thiết lập cõi Trời ở dưới thế gian. Bạn đã nhìn thấy những luật đó được áp dụng trong một phạm vi khiêm tốn. Những luật đó vốn đúng đắn và rất khoa học. Con người, vốn là con của Chúa Trời, thật sự cùng một bản chất như ngài, nên y vốn chứa đựng ở tự nơi mình cái tinh thần bất diệt của Chúa Trời. Y có thể phân biệt những định luật của đấng đã sinh ra y, sử dụng những định luật ấy, để đem lại năng xuất dồi dào toàn vẹn trong lãnh vực sinh hoạt hằng ngày của y. Y chỉ cần muốn là được. Kế đó, giai nhân nói rằng bà rất vui lòng trả lời tất cả mọi câu hỏi của Lê Mông. Vị trưởng phái đoàn đáp rằng y đã quá xúc động để có thể hỏi bất cứ một câu nào nữa. Y cần phải có một lúc im lặng để suy nghĩ. Y có nhiều điều muốn nói và hy vọng rằng y sẽ không làm phật ý một người nào, vì y không hề có ý chỉ trích ai cả. Y còn nói: - Khi đến xứ này, chúng tôi tưởng rằng mình sẽ tìm thấy những tàn tích của những thổ dân đã suy vong và tàn tích từ lâu. Trái lại, chúng tôi lại thấy những người mà chúng tôi không thể tưởng tượng rằng họ có cuộc đời hoạt động một cách cao quý vô cùng. Nếu những điều mà chúng tôi vừa thấy có thể được công bố bên các nước Âu Mỹ, thì toàn thể thế giới sẽ nằm mọp dưới chân quý vị! Ba vị phu nhân đáp rằng các bà không hề có ý muốn thấy toàn thể thế giới nằm mọp dưới chân các bà. Các bà giải thích rằng nhân loại đã có quá nhiều thần tượng, nhưng thiếu lý tưởng. Khi đó, tất cả các quý khách, trừ ra người đầu tiên đã đến trước cửa lều, đứng dậy và nói rằng đã đến lúc các vị phải ra đi. Các vị bắt tay từ giã chúng tôi đến viếng các vị khi nào có việc thuận tiện. Kế đó các vị biến mất mỗt cách đột ngột cũng như khi mới đến, làm cho Lê Mông và toán đoàn viên của y trố mắt thận lớn và đứng sững ngay chỗ mà các vị vừa hội họp lúc nãy. Sau một lúc, Lê Mông day lại nói chuyện với người khách còn lại, và yêu cầu người ấy cho biết danh tánh. Người này đáp rằng tên y là Bạc Lãng. Khi đó Lê Mông nói: - Phải chăng quý vị có thể tự do đi lại đây tùy ý muốn mà không cần dùng một phương tiện di chuyển hữu hình nào như chúng tôi vừa thấy, và khinh miệt tất cả những định luật vật lý học mà người ta được biết từ trước đến nay? Bạch Lãng đáp: - Chúng tôi không khinh miệt một định luật nào, chúng tôi cũng không vi phạm một định luật nào dù rằng luật Trời hay luật thế gian. Chúng tôi chỉ hợp tác. Chúng tôi hành động theo những định luật thiên nhiên và luật Trời. Những phương tiện di chuyển mà chúng tôi sử dụng thật là vô hình đối với các bạn, nhưng hoàn toàn hữu hình đối với chúng tôi. Điều khó khăn, chính là bởi vì không nhìn thấy những phương tiện đó nên các bạn không tin. Chúng tôi nhìn thấy, tin tưởng, biết rõ, và có thể sử dụng những phương tiện đó. Các bạn hãy làm như chúng tôi, hãy để tâm trí mở rộng, rồi các bạn sẽ thấy rằng những định luật đó hoàn toàn đúng đắn và có thể vô cùng hữu ích cho nhân loại hơn là những định luật có giới hạn mà người ta đã từng quen thuộc. Từ trước đến giờ, người ta chỉ mới có phớt qua chứ chưa tận dụng đúng mức những tiềm năng của con người. Chúng tôi luôn luôn vui lòng giúp đỡ các bạn với tất cả các phương tiện sẵn có. Chandersen giải thísch rằng Bạch Lãng đến đây để mời chúng tôi ghé qua làng của y khi chúng tôi trở về địa điểm khởi hành. Chúng tôi sẵn lòng nhận lời mời và Bạch Lãng cho biết y sẽ cùng đi với chúng tôi. Về sau chúng tôi được biết rằng y thuộc dòng giõi những dân tộc phú cường của đế quốc Uiguor thuở xưa, ngày nay đã biệt tích và biến thành vùng sa mạc Gobi.