Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Chương 8

1. Một Đêm Yên Tịnh Với Đức Jesus
Sau bữa cơm, chúng tôi đứng dậy và bà chủ nhà đưa chúng tôi ra vườn. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức Jesus, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Bút Già đã ngồi sẵn tại đó. Chúng tôi bèn ngồi xuống bên cạnh các vị và liền cảm thấy một sự thoải mái bằng an khôn tả nó cho chúng tôi hiểu rằng từ đây cuộc đời chúng tôi còn phải nương tựa vào các Chân Sư biết bao nhiêu. Chúng tôi đã ràng buộc chặt chẽ với các ngài dường như bởi những sợi dây sắt. Tôi nhận thấy rằng đó không phải là một điều tốt. Mỗi người trong chúng tôi cần phải thực hiện cái vai trò nhất định của mình trên sân khấu lớn của cuộc đời, để cho không ai trở nên một con người bù nhìn, thụ động. Tôi hiểu rằng nếu chúng tôi không thể đứng vững mà không cần ai trợ giúp, hay không thể trông cậy ở tự nơi mình, thì các ngài sẽ bắt buộc phải cắt đứt mọi liên lạc. Sau đó, Tô Mặc đã có dịp nêu ra vấn đề này một cách hoàn toàn thành thực và cởi mở.
Mặt trời vừa khuất bóng, ánh tà dương còn tô màu lên cảnh vật lúc trời chiều, bày ra một sự phong phú màu sắc và một vẻ đẹp không tả. Không một ngọn gió thổi, không một tiếng động làm gián đoạn sự yên tĩnh chung quanh chúng tôi. Sự sợ sệt về bọn cướp cho đến lúc ấy vẫn đè nặng trong lòng chúng tôi, cũng đã hoàn toàn thoải mái lạ thường. Chúng tôi dường như tự thả trôi theo giòng thời gian một cách vô tư, không màng gì đến ngày mai.
Thình lình, dường như chúng tôi cảm thấy mình nghe giọng nói của đức Jesus, không nói ra bằng lời. Một loại ảnh hưởng rung động nhịp nhàng đến với chúng tôi thay vì những lời nói. Ảnh hưởng này còn sâu đậm và rõ rệt hơn nhiều so với ảnh hưởng của lời nói. Nhip độ của nó thật không thể tả nổi. Đó thật là một kinh nghiệm hoàn toàn mới lạ đối với chúng tôi. Những ý tưởng dường như tràn ngập chung quanh và tồn tại trong trí chúng tôi. Không những ý nghĩ vừa đến, chúng tôi bèn chép ra bằng tốc ký, rồi sau đó diễn dịch thành từng lời, từng câu. Sau cùng, chúng tôi đem trình lên cho các vị chân sư duyệt xét.
- Những tư tưởng đó được ghi chép lại như sau:
- Khi tôi nói: "Đây là đấng Chirst của Chúa Trời," tôi thấy xuất hiện ra Người của Chúa Trời. Tôi thấy thể xác tôi như cái linh điện của Chúa Trời, cái khí cụ, cái vận hà hoàn hảo xuyên qua đó cái Nguyên Lý Sáng Tạo vĩ đại được biểu lộ tự do. Khi tôi nhận định rằng tôi là trời, trong trạng thái đó, tôi làm chủ của mọi tình hình và tôi biểu lộ điều mà tôi sùng kính. Tôi không bao giờ có thể biểu lộ Chúa Trời nếu cái Chân Ngã của tôi không thê hiện được Chúa Trời cho toàn thể nhân loại. Trong cái thái độ tích cực đó, người ta chế ngự tất cả mọi hoàn cảnh. Chân Ngã đã toàn thắng. Chúa Trời và con người cùng là một.
Một bạn trong chúng tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Làm sao chúng tôi có thể biểu lộ cái Nguyên Lý đó và sử dụng nó trên thực tế?
- Hãy để cho thể xác của bạn trở nên một cái động cơ xuyên qua đó luân chuyển cái Nguyên Lý Sáng Tạo vĩ đại, nó là mọi sự phát huy của mọi sự quyền năng. Khi đó, thể xác của bạn sẽ tác động như một cái máy phát điện. Nó sẽ thu thập và tăng trưởng luồng tinh lực, và bạn sẽ xuất phát nó ra dưới hình thức những tia bạch quang tinh anh sáng suốt không có gì có thể cưỡng lại nổi. Trong tình trạng đó, không một hành động thù nghịch nào của đối phương có thể làm hại bạn. Bạn có thể phóng dọc theo những tia sáng đó là những luồng điện mãnh liệt đến nỗi nó sẽ tiêu diệt cái thể xác của kẻ nào muốn làm hại bạn. Kẻ nào cưỡng lại luồng tinh lực đó, càng làm tăng gia mãnh lực của nó. Người nào dùng ý muốn ích kỷ của mình mà chống lại nó, sẽ tự diệt lấy họ. Nếu không ai cưỡng lại sức mạnh đó, nó sẽ toát ra một ảnh hưởng tốt lành xuyên qua người xuất phát và người thọ lãnh lấy nó.
2. Luồng Bạch Quang Tinh Anh
Đó là cái tia sáng tinh khiết của Thượng Đế. Sự rung động của nó diễn ra trên một nhịp độ cao nhất, tất cả những người nào chấp nhận nó sẽ cùng có một rung động điều hòa và hoàn toàn đồng nhịp. Không một tai họa nào có thể xảy đến cho họ, vì họ rung động cùng nhịp với Thượng Đế. Không gì có thể làm hại được người nào thọ lãnh sự rung động của Thượng Đế. Rung động tức là sống. Bây giờ bạn thấy bằng cách nào bạn vẫn luôn luôn sống với Thượng Đế chăng? Trong trạng thái đó, không còn có thể nào có sự chia rẽ đặc biệt. Sự cách biệt duy nhất là sự cưỡng nghịch lại, nguyên nhân của sự bất điều hòa.
Không có một sự gì xấu xa có thể đến gần bạn khi bạn hợp nhất với Thượng Đế. Đó không còn phải là một đặc ân cho một số ít người, mà là một triển vọng cho tất cả. Chừng đó, tất cả đều sống theo Luật Trời, theo giòng tư tưởng rung động với một nhịp độ cao nhất. Không một rung động xấu xa nào có thể đạt tới nhịp độ đó, hoặc xâm nhập vào cái cõi giới mà tất cả mọi người đều sống yên lành, đó tức là Cõi Trời của họ.
Ngườt ta cũng có thể dùng cái quyền năng đó để xua đuổi những tư tưởng xấu xa và những ác ý của thiên hạ nhắm vào mình. Nếu bạn muốn, bạn cũng có thể tăng cường cái tia bạch quang thiêng liêng đó, gán cho nó cái quyền năng của Thượng Đế, nới rộng và biến đổi tinh lực của cái tư tưởng xấu nhắm vào mình bạn, rồi đặt cho nó trong tấm gương phản chiếu của bạn và gởi lại cho đối phương với tốc lực của ánh sáng. Những tư tưởng nhắm vào mình bạn với một nhịp độ rung động hạ thấp, bị trả lại dưới hình thức một tia bạch quang tinh anh. Mãnh lực của các tia sáng này mạnh mẽ đến nỗi, khi nó trở về nguyên quán, nó có thể tiêu diệt thể xác của người đã phóng ra cái tư tưởng xấu xa nói trên. Dầu bạn có biết hay không biết cái nguồn gốc hay địa điểm xuất phát luồng tư tưởng đó, nó vẫn quay trở về nguyên quán một cách chắc chắn.
Người ta có thể biến đổi cái quyền năng của Thượng Đế và phóng nó ra ngoài với một cường độ mãnh liệt không thể cưỡng nổi. Đó là những tia bạch quang mà các bạn nhìn thấy toát ra từ thân mình thôi. Thân thể các bạn cũng toát ra những tia sáng đó, nhưng không mạnh bằng. Khi các bạn tiếp tục sử dụng cái quyền năng đó và kết hợp nó với cái Nguyên Lý Sáng Tạo, các bạn sẽ tăng thêm cường độ ánh sáng của mình và có thể dùng nó để thực hiện mọi điều ước vọng tốt lành tùy ý muốn.
Bây giờ, bạn hãy tăng cường tia bạch quang đó, và hãy gởi đến nó cái sức mạnh của Thượng Đế. Hãy truyền vào nó một mãnh lực gấp mười ngàn lần hay mười triệu lần cái sức mạnh của tư tưởng mà người ta nhắm vào bạn. Kế đó, hãy để cho tia bạch quang ấy trở về nguyên quán của nó. Khi người muốn hại bạn nhận tia sáng ấy trở về và chấp nhận nó như một vật của Thượng Đế, thì mọi ác ý sẽ được xóa bỏ, tha thứ và quên lãng. Không gì có thể làm hại bạn hay làm hại kẻ đã phóng ra luồng tư tưởng xấu. Bạn và người ấy, cả hai đều bình đẳng trước Thượng Đế. Cả hai đều là một, và một sự điều hòa tuyệt đối đã thay thế cho sự bất hòa.
Trái lại, nếu người phóng ra luồng tư tưởng xấu không nhận tia bạch quang mà bạn đã gởi trả về nguyên quán với một cường độ tăng lên gấp bột phần, thì thể xác y sẽ bị tiêu diệt. Nếu người ta có thể cho tia bạch quang ấy hoàn tất công việc của nó, nó sẽ hủy diệt mọi thứ rung động trái ngược. Nếu cưỡng lại nó, thì đương sự chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Y tự chuốc vào mình sự chống đối của toàn thể sức mạnh sáng tạo.
Dưới khía cạnh đó, bạn tiêu biểu cho Thượng Đế bằng cách ban rải sức mạnh thiêng liêng, theo định luật dĩ tức báo oán. Nhưng dẫu cho với thái độ đó, bạn hãy thành thật, nhỏ nhoi, khiêm tốn, và đừng xét đoán ai cả. Hãy đặt trọn hết tình thương trên luồng bạch quang đó và coi nó như là tình thương của Thượng Đế. Khi bạn làm như thế, thì hằng muôn nghìn Thiên Thần sẽ tùng phục theo ý muốn của bạn. Bạn cứ giữ một mực hiền lành, khiêm tốn tuân theo luật Trời và ánh sáng của Thượng Đế, tức sự sống, tình thương, sự tinh khiết và mỹ lệ thiêng liêng trường cửu muôn đời.
Thể xác con người chứa đựng bảy trung tâm bí yếu (tiếng phạn gọi là Chaka = luân xa), có thể sử dụng như những tấm gương phản chiếu. Người ta có thể làm cho chúng chiếu một ánh sáng rực rỡ hơn gấp bội phần bất cứ một ánh sáng giả tạo nào. Khi người ta muốn phát ra ánh sáng đó, thì nó sẽ chiếu ánh sáng vào một cường độ mạnh và có tác dụng lớn lao hơn cả những ngọn đèn điện một trăm watts. Nếu người ta có thể làm tất cả bảy trung tâm đều được chiếu sáng cùng một lượt, thì người ta được hoàn toàn bao phủ bởi một tấm giáp sắt không thể chọc thủng. Thể xác người ấy sẽ chiếu bằng một thứ ánh sáng mạnh hơn gấp bội ánh sáng của ngôi mặt trời giữa trưa. Người ấy đứng trước đấng thiêng liêng, sáng tạo ra muôn loài...
Trong khi những tư tưởng đó đến với chúng tôi bằng nhưng âm ba rung động, ánh sáng hào quang toát ra từ đức Jesus và các vị siêu nhân trở lên chói lòa. Những làn sóng tư tưởng ấy lại tiếp tục:
- Nếu bọn cướp này vẫn ngoan cố trong ý định đánh phá thôn ấp, rốt cuộc chúng sẽ tự tiêu diệt lấy nhau. Cơ hội đã được đưa đến cho họ rời khỏi làng mà không làm hại đến dân chúng. Nếu họ không đón nhận cơ hội ấy, họ sẽ quay lại để giết nhau. Người ta không thể mưu toan tiêu diệt kẻ đồng loại mà không chuốc lấy tai họa tương tự vào mình. Chúng ta chỉ gửi đến cho bọn cướp ấy luồng bạch quang tinh khiết của tình bác ái thiêng liêng. Nếu họ đáp lại tình thương bằng sự hận thù, sự phản bội hay sự báo oán, thì họ sẽ tự mình biến đổi luồng bạch quang tinh anh đó thành một ngọn lửa nó sẽ tiêu diệt lấy họ. Các bạn đừng sợ sệt gì cả. Chúng ta chỉ ban rải tình thương, nhưng chúng ta không thể ép buộc họ chấp nhận. Nếu bọn cướp đến đây với tình thương, thì sẽ không có sự xung đột. Dầu sao, thì chính nghĩa của chúng ta đã thắng.
Đến đây, chúng tôi được thông báo rằng một người đem tin đã đã đến gần làng. Chúng tôi bước ra đón tiếp y và được cho biết rằng bọn cướp đã chấm dứt việc đánh phá và cắm trại một cách yên ổn ở cách đó ba mươi lăm cây số. Từ khi có sự kêu gọi cứu trợ của dân làng, họ đã ngưng mọi con tin trong trường hợp có sự kháng cự bằng võ lực. Theo người sứ giả đem tin tức, thì có tin đồn rằng bọn cướp sẽ tấn công làng vào ngày hôm sau hay hôm sau nữa, nếu của cải kho tàng không được đem nạp cho họ. Y cũng chuyển đạt lời chào hỏi của các tù binh. Tất cả dân làng đều tình nguyện hy sinh tánh mạng để bảo vệ làng, nhưng người sứ giả được cho biết sự hy sinh đó không cần thiết. Y được mời hãy trở về nhà với những lời cám ơn và sự biết ơn sâu xa của dân làng về những cố gắng của y vì mục đích bảo vệ chung cho tất cả mọi người.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi tìm thấy lại những sự hứng khởi trong việc làm, và mọi tư tưởng sợ sệt đều đã biến mất. Ngày kế đó, chúng tôi đang nghiên cứu vài hình tượng khắc trên tảng đá của hang núi, thì chúng tôi bèn lưu ý đến người canh tuần làng. Người này đứng ở phía bên kia hang núi trên một vị thế cao hơn chỗ chúng tôi đứng, và như vậy y có thể quan sát khắp trên một vùng rộng lớn hơn nhiều. Nhìn xuyên qua ống dòm, chúng tôi thấy người ấy đang làm dấu báo hiệu cho làng. Không bao lâu, chúng tôi thấy dân làng chạy náo loạn tứ phía và hiển nhiên là họ tìm nơi trú ẩn trong những hang động sâu thẳm của vùng núi non hẻo lánh này. Tất cả đều tỏ vẻ vô cùng xao xuyến náo động.
Chúng tôi lắng tai nghe thấy tiếng ồn ào như sấm động từ đằng xa vọng lại của bọn cướp đang tiến tới. Một người trong chúng tôi trèo lên cao hơn một chút nữa để quan sát tình hình. Y kêu gọi chúng tôi và nói nhìn thấy một đám mây bụi bay lấp đầu dậy lên bởi đoàn kỵ mã đang phi nước đại tiến về phía hang núi.
Chúng tôi đem cất dấu đồ dụng cụ của mình trong một khe đá ở gần bên, và tìm nơi trú ẩn trong những khe núi chớn chở, từ đó chúng tôi có thể quan sát những động tịnh của bọn cướp. Đoàn kỵ mã ngừng lại ở chỗ cửa vào hang núi. Năm chục tên cuớp đi tiên phong phi ngựa tiến lên phía trước, kế đó tất cả bọn đều quất ngựa phóng nước đại chạy vào hang. Tiếng vó ngựa chạy dồn dập cùng với tiếng hò hét vang rền hợp thành một khúc hòa tấu rùng rợn khôn tả.
Chúng tôi chiếm một vị thế rất thuận lợi, vì những vác núi đều hầu như dựng đứng như vách thành. Chúng tôi có thể nhìn xuống dưới hang núi và xem thấy bọn cướp tiến tới như nước vỡ bờ, không có gì ngăn cản nổi. Đoàn quân tiên phong đã vượt khỏi chỗ vị trí chúng tôi, và những người kỵ mã đi đầu đoàn trung quân tiến lên rất mau. Chúng tôi lấy ống dòm nhìn trở lại vế làng thì thấy dân làng đang bị náo loạn trong cơn khủng khiếp.
Chúng tôi cũng thấy một thành viên trong bọn chúng tôi đứng trên bao lơn của ngôi đền. Y ngưng làm việc để nhìn xem bọn cướp đang tiến tới. Kế đó y quay lại và nhìn về phía cửa vào sảnh đường chính của ngôi đền. Đức Jesus xuất hiện từ trong cửa đó bước ra. Ngài đi thẳng đến bao lơn và đứng yên một lúc, trong một tư thế oai nghiêm như một pho tượng.
Tất cả những ống dòm của chúng tôi lẽ tự nhiên là nhắm tập trung về Ngài. Bao lơn cách xa chỗ chúng tôi trú ẩn đến năm cây số và ở độ ba trăm thước cao hơn. Chúng tôi nhận thấy Ngài đang nói chuyện và lời nói Ngài vọng đến chúng tôi thật rõ ràng. Người đoàn viên đứng trên bao lơn bèn suống để ghi chép lời ngài tốc ký. Tôi cũng làm y như vậy. Một sự phối kiểm về sau đó chúng tôi biết rằng lời nói của đức Jesus lấn át hẳn tiếng ồn ào của bọn cướp đang phi ngựa tiến tới. Tuy nhiên, chúng tôi được biết rằng Ngài không hề nói lớn hơn lúc bình thường, cũng không hề thay đổi âm điệu thường nhật của Ngài.
Khi đức Jesus vừa cất tiếng nói, tất cả dân làng đều hoàn toàn im lặng. Dưới đây là những lời ngài nói mà về sau chúng tôi có đưa cho Ngài duyệt xét. Tôi chỉ có một ước vọng sâu xa nhất, là đừng bao giờ quên những lời nói ấy, dẫu cho tôi phải sống đếm mười ngàn năm: Ánh Sáng
"Trong khi tôi đựng một mình trong cơn im lặng vĩ đại của Chúa Trời, một ánh sáng tinh anh chiếu diệu trong lòng tôi và thấm nhuần mỗi nguyên tự của thân thể tôi. Sự Sống, Tình Thương, Sức Mạnh, Sự Tinh Khiết, Sự Mỹ Lệ và Toàn Thiện ngự trị nơi tôi một cách tuyệt đối. Trong khi tôi nhìn vào trung tâm của ánh sáng đó, tôi thấy một ánh sáng khác, lỏng, dịu, trắng vàng, và tinh anh sáng suốt một cách tuyệt diệu, nó nuôi dưỡng và phát huy ánh lửa mơn trớn của luồng ánh sáng vĩ đại nói trên. Bây giờ tôi biết rằng tôi là một với Chúa Trời, và hợp nhất với toàn thể vũ trụ của Ngài...
3. Bức Tường Rào Mầu Nhiệm
Khi đức Jesus vừa nói xong, một tia bạch quang sáng rỡ chói lòa tự nơi bí huyệt của quả tim ngài phóng ra xa đến tận hang núi và chấm đất ở chỗ khúc quanh về bên trái, ngay trước mặt đoàn quân tiên phong của bọn cướp. Một bức tường trong giây lát đã dựng lên như vách thành ở ngay chỗ ấy, với những mũi nhọn tủa ra chơm chởm tỏ ra như những mũi tên. Những con ngựa ở hàng đầu đang phóng nước đại như bay tới trước, hốt nhiên nhảy dựng lại thình lình làm cho một số lớn những kỵ mã tiên phong bị hất văng xuống đất. Nhiều con ngựa nhảy dựng và đứng lại cửa hang, đi ngược chiều với toàn thể bọn cướp ở đạo trung quân. Khi chúng đến gần đạo quân này, những kỵ mã còn chưa bị té ngựa cố gắng kiềm hãm ngựa của họ, nhưng vô ích. Cùng với những con ngựa vô chủ phóng tới như điên, họ chạm trán với bọn cướp đi trung quân, là, cho những hàng đầu của đạo quân này bị lỡ trớn và đứng khựng lại. Những hàng kế đó, không biết sự hiểm nguy, vẫn phóng nước đại tiến vào đám người hỗn độn nói trên, và trong hang núi ấy hiện ra cái cảnh tượng của một đám người ngựa lộn xộn và mất trật tự, không còn hàng ngũ kỷ cương gì cả.
Trong một lúc, có sự im lặng của nhà mồ, chỉ gián đoạn bởi những tiếng thét rú lên của những ngưởi kỵ mã trong cơn khủng khiếp và tiếng ngựa hí thất thanh. Kế đó diễn ra một cảnh tượng rùng rợn ở ngay tại chỗ mà đoàn kỵ mã tiên phong hoảng kinh quay đầu trở lại, bị chạm trán với những hàng quân đầu tiên của bọn cướp ở đạo trung quân. Những con ngựa không người cưỡi, trong cơn hoảng hốt, đã phóng vào đám rừng người, làm cho một số lớn những người kỵ mã bị trật yên và hất văng xuống đất. Những con ngựa của họ trờ thành vô chủ, không người kiềm chế, và càng làm tăng thêm sự hỗn loạn. Chúng nó bắt đầu hí vang, nhảy vọt bên tả bên hữu, và thét rú lên từng hồi trong cơn hãi hùng và khủng khiếp tụt độ. Kế đó, cơn hỗn loạn cơn hỗm loạn lan tràn khắp cả bọn cuớp đang bị lúng túng và bế tắc lưu thông trong hang núi ở phía dưới chúng tôi.
Thình lình chúng tôi thấy những nguời kỵ mã tuốt gươm trần ra khỏi vỏ và chém loạn xạ tứ phía. Những người khác rút súng bắn vào đám người ngựa với ý định khai đàng huyết lộ để thoát thân. Không bao lâu, cảnh tượng đó đã biến thành một trận giặc thư hùng, chỉ có những kẻ mạnh nhất sống sót. Trận giặc chấm dứt bằng sự đổ xô nhau để chiếm những khoảng trống, giữa những kẻ có cái may mắn thoát khỏi cơn chém giết vừa qua. Họ rời khỏi hang núi và để lại những đống xác người ngựa đã chết hoặc bị thương.
Chúng tôi hối hả đi xuống để tìm cách trợ giúp tối đa cho những kẻ bị thương. Tất cả dân làng và vị siêu nhân đều tiếp tau với chúng tôi. Những sứ giả được gửi đi khắp bốn phía để cần trợ giúp. Chúng tôi làm việc ráo riết suốt đêm và cho đến sáng ngày hôm sau. Đức Jesus và các Chân Sư bổn thân săn sóc những kẻ bị thương khi chúng tôi vừa đem họ ra khỏi đống thịt người ngựa hỗn tạp, có kẻ sống lẫn kẻ chết. Khi chúng tôi cứu trợ tất cả cho đến người cuối cùng, chúng tôi trở về quán trọ để ăn sáng. Vừa bước vào nhà trọ, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy tên Cướp Đen đang ngồi nói chuyện với đức Tuệ Minh. Cho đến khi đó, chúng tôi không hề hay biết gì về sự có mặt của đức Tuệ Minh. Ngài nhận thấy cái nhìn ngạc nhiên của chúng tôi và nói:
- Chúng tôi sẽ nói chuyện lại sau.
Sau bữa ăn sáng, chúng tôi bèn ra ngoài cùng với Tô Mặc. Tô Mặc cho biết đức Tuệ Minh và y đã tìm thấy tên Cướp Đen bị thương nặng và không thể cử động được nữa, vì tên cướp bị ngựa đè lên mình. Hai vị đã kéo tên cướp ra và chở y đến một nơi tạm trú, tại đây y được dành cho tất cả mọi tiên nghi có thể tìm được. Kế đó hai vị kêu gọi đến sự giúp đỡ của bà chủ nhà trọ chúng tôi và giao tên cướp cho bà chăm sóc. Khi những vết thương của y được băng bó xong, y yêu cầu bà chủ nhà cầu xin với đức Chúa Trời cho biết y phải làm gì để được cứu rỗi. Y cũng xin bà dạy cho y biết đọc kinh cầu nguyện.
Bà hỏi y có muốn được bình phục sức khỏe chăng.
Y đáp:
- Có, tôi muốn được lành mạnh hoàn toàn cũng như bà.
Bà chủ nhà nói:
- Bây giờ anh cầu xin được có sức khỏe, lời cầu xin của anh đã được đáp ứng. Anh sẽ được hoàn toàn lành mạnh.
Kế đó, tên cuớp nằm thiếp đi trong một cơn ngủ mê li bì. Đến nửa đêm, những vết thương của y đã hoàn toàn khép kín và không để lại một cái thẹo nào. Tô Mặc đã nhận thấy điều này khi y đi canh tuần lúc ban đêm. Tên cuớp bèn đứng dậy, mặc y phục vào, và tình nguyện giúp tay cứu trợ cho những kẻ thoát nạn.
Chúng tôi cũng thấy một số đông bọn cướp được hoàn toàn bình phục mà trước đó chúng tôi nghĩ rằng họ không sao qua khỏi. Khi công việc cứu trợ kết thúc, tên Cướp Đen len lỏi trong đám đồng bọn bị thương và cố gắng hết sức để an ủi và trấn tĩnh tinh thần họ. Nhiều người giống như những con thú bị gài bẫy, họ lo sợ bị tra tấn, đến chết, vì đó là cách đàn áp những kẻ bị sa lưới theo phong tục bổn xứ. Ý nghĩ đó ăn sâu vào trong trí óc họ đến nỗi họ không có một sự phản ứng tốt lành nào đối với những cách đối xử nhân đạo mà người ta dành cho họ. Họ sợ rằng những cố gắng của chúng tôi để trợ giúp cho họ mau bình phục sức khỏe, chỉ có mục đích là để cho chúng tôi có thể tra tấn họ lâu dài hơn. Sau cùng, tất cả đều đã khỏi bịnh, tuy rằng một số ít người kéo dài bịnh tật dây dưa trong nhiều tháng với niềm hy vọng rõ rệt không dấu diếm rằng nhờ đó họ có thể đình hoãn lại ngày tra tấn của họ!
Ít lâu sau đó, tên Cướp Đen quy tựu tất cả những tên "Cựu thương binh" nào tình nguyện theo để thành lập một toán quân để bảo vệ làng mạc chống lại những cuộc tấn công của bọn cướp về sau này, y cũng chiêu mộ được nhiều dân làng gia nhập vào toán quân đó. Về sau chúng tôi biết rằng kể từ ngày đó, những bọn cướp không còn đánh phá vùng này nữa. Hai toán đoàn viên của phái đoàn chúng tôi rốt cuộc đã vượt qua vùng lãnh thổ này trên lộ trình của họ đi đến vùng sa mạc Gobi. Tên Cướp Đen và đồng bọn đã hộ tống an ninh cho phái đoàn trong vùng địa phận của họ, và vùng lân cận, ít nhất trên bảy trăm cây số đường trường, và không người nào muốn nhận tiền thù lao về công việc đó.
Chúng tôi còn thường nghe nói về tên Cướp Đen. Y đã phát triển nhiều công việc từ thiện và cứu trợ trong toàn thể vùng này và dành trong cuộc đời để giúp đỡ cho dân chúng được sống yên lành hạnh phúc mà không hề nhận tiền bạc của ai.
Ngày thứ hai sau khi bọn cướp đã bị tiêu diệt, vào lúc trưa, chúng tôi đã săn sóc tất cả những kẻ bị thương và đã đi quan sát một lần cuối cùng để biết chắc rằng không một người nào còn bị bỏ sót lại trong hang núi giữa đống xác người ngựa nằm ngổn ngang la liệt như bãi chiến trường. Trong khi chúng tôi trở về quán trọ để ăn điểm tâm và nghỉ ngơi, một người trong bọn cất tiếng lên cái ý nghĩ nó vẫn ám ảnh chúng tôi từ nhiều giờ:
- Tại sao sự chết chóc rùng rợn và hủy hoại sinh mạng khủng khiếp như thế?
Chúng tôi mệt đừ, và cơn xúc động đã làm cho chúng tôi bị hoàn toàn kiệt sức. Vì bọn cướp gây cho dân làng một sự sợ hãi kinh hoàng tột độ, nên tất cả mọi cố gắng cứu trợ đều đổ dồn lên vai chúng tôi, nhất là trong những giờ phút đầu tiên. Dẫu cho rằng khi chúng tôi đã lôi hết những kẻ bị thương ra khỏi đống xác người ngựa nằm ngổn ngang chồng chất lên nhau, chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn để thuyết phục dân làng ra tay trợ giúp những kẻ bị thương. Họ tuyệt đối không thấy có một lý do nào để giúp đỡ chúng tôi cứu mạng những kẻ toan giết hại đến sinh mạng của họ. Nhiều người cảm thấy ghê tởm khi phải sờ vào một xác chết. Nếu họ không có một sự kính trọng đặc biệt nào đối với các vị Chân Sư, thì họ đã rời khỏi vùng này ngay lập tức mà không hẹn ngày trở lại.
Dầu sao, chúng tôi đã quá mệt mỏi và rất đau lòng, vì đó là cái kinh nghiệm khủng khiếp nhất trong đời chúng tôi. Khi cơn xúc động của những ngày đầu tiên đã lắng dịu, chúng tôi lại bắt tay vào việc một cách hào hứng hăng say. Mùa lễ Phục Sinh đã sắp đến và chúng tôi định kết thúc công việc siêu tầm ở làng này trước khi trở về Ấn Độ. Công việc được hoàn thành rất mau chóng. Cuộc chuẩn bị cuối để trở về trước ngày lễ Phục Sinh, và chúng tôi định dành trọn ngày Chúa Nhật để nghỉ ngơi dưỡng sức.
Khi bước ra cửa để đi tới đền trước lúc bình minh, chúng tôi gặp Chandersen ngồi trong sân quán trọ. Y đứng dậy để đi theo chúng tôi, và nói với Tô Mặc sẽ gặp chúng tôi tại chánh điện. Y đề nghị rằng chúng tôi nên trở về Ấn Độ qua ngã Lhassa, thủ đô Tây Tạng, kế đó qua Mouktinath do truông núi Kandernath trên dãy Tuyết Sơn rồi từ đó, chúng tôi sẽ đi tới Darjeeling.
Về đến làng, chúng tôi thấy mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng chờ chúng tôi lên đường. Một số khá đông dân làng đã đi trước để vạch đường trên các truông núi bị bao phủ dưới một lớp tuyết dày đến ba bốn thước tây. Truông núi mà chúng tôi mà chúng tôi sẽ vượt qua xa cách đến tám mươi cây số và trên một chiều cao độ bốn ngàn thước. Phần lớn vùng này núi non chớn chở khó vượt qua. Dân làng có thói quen vạch một con đường mòn và nện tuyết ém xuống cho chặt một ngày trước khi lên đường. Tuyết được ép chặt trên đường lộ sẽ đông đặc lại khi ban đêm và người ngựa sẽ đi dễ hơn.
Chúng tôi thức dậy rất sớm trước khi trời sáng và nhận thấy rằng mọi chi tiết đã được chăm sóc chu đáo. Dật Sĩ và một người hướng đạo bổn xứ sẽ đi theo chúng tôi. Tất cả dân làng đều tề tựu đông đủ để tiễn đưa chúng tôi lên đường. Chúng tôi lấy làm tiếc mà phải rời khỏi làng, tại đây chúng tôi đã trải qua hai mùa đông tốt đẹp. Dân làng là những người hồn nhiên chất phát và dễ thương. Để tỏ lòng ưu ái, nhiều ngườ trong bọn họ đã tiễn đưa chúng tôi trên bảy tám cây số rồi mới trở về. Khi đó chúng tôi mới từ giã họ một lần cuối cùng và tiếp tục lộ trình trải qua nhiều tháng trên đường trở về Ấn Độ. Nhưng chúng tôi còn phải trải qua nhiều tháng trên đường về trước khi nhìn thấy lại những ngọn núi đầu tiên của dãy Tuyết Sơn.
Theo lộ trình đã định, chúng tôi đi xuống thung lũng Giamanuchu, đi dọc theo một con sông đến truông Tonjnor Jung, rồi đi vòng theo con sông Brahmapoutre để đến Lhassa, thủ đô Tây Tạng.
Khi chúng tôi gần đến Lhassa, thì đã thấy nóc điện Potala, tức cung điện của vị Đạt Ma Lạt Ma, chúa tể xứ Tây Tạng, nhô lên từ đằng xa như một viên ngọc quý duy nhất của thành phố này. Lhassa là thủ phủ chính trị của Tây Tạng, nhưng còn vị lãnh đạo tinh thần tối cao là vị Phật Sống, tức là vị chúa tể cầm quyền cai trị về mặt đạo đức tâm linh từ một trung tâm hyền bí ẩn dấu gọi là Shamballa, hay Bạch Ngọc Cung. Chúng tôi rất mong ước được viếng thăm trung tâm huyền bí và linh thiêng này, mà người ta nói rằng được dấu rất sâu dưới lòng đất ở vùng sa mạc Gobi.
Chúng tôi vào thành phố Lhasa cùng với đoàn người hộ tống. Người ta đưa chúng tôi đến những nhà trọ có chuẩn bị sẵn đủ mọi thứ tiện nghi có thể tìm được. Một đám đông kéo đến trước nhà trọ, đứng hằng giờ để nhìn xem chúng tôi, vì sự hiện diện của người da ở tại đây là một cảnh tượng hiếm có. Chúng tôi được mời đến viếng tu viện Lạt Ma Giáo vào ngày hôm sau lúc mười giờ. Chúng tôi được yêu cầu bày tỏ những điều ước muốn của mình, và mọi người sẽ vui lòng giúp đỡ chúng tôi về mọi mặt.
Bất cứ chúng tôi đi đâu, đều có một nhóm, người đi theo sau lưng. Một lính canh được đặt trước cửa nhà trọ để đuổi những kẻ tò mò, vì dân chúng thủ đô Lhassa có thói quen bước và nhà người lạ mà không báo trước. Sự có mặt của chúng tôi là một điều mới lạ duy nhất trong đời họ, và chúng tôi không thể trách họ về sự tò mò nói trên. Khi một người trong chúng tôi đi ra ngoài một mình, những kẻ tò mò bao vây chung quanh với ý định rõ ràng là để nhìn xem cho tận mắt, sờ mó tận tay để biết chắc rằng y quả là một người thật, và đôi khi sự quan sát ấy tỏ ra quá đỗi sỗ sàng đối với nạn nhân!
Ngày hôm sau chúng tôi thức dậy rất sớm và sửa soạn đi đến tu viện để gặp vị Sư Trưởng. Khi chúng tôi đi gần đến tu viên, vị Sư Trưởng bước ra tiếp đón chúng tôi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy: Cùng đi với Sư Trưởng, lại có cả đức Tuệ Minh và đức bà Mã Ly. Đó là một sự tao ngộ lý thú. Chúng tôi bước vào tu viện và nghỉ lại đó.
Sau những cuộc đàm luận lý thú về Đạo Lý vớ Sư Trưởng, chúng tôi bàn về việc lên đường đi Shamballa.Vị Sư Trưởng hỏi rằng cùng đi với chúng tôi được chăng. Một trong các vị siêu nhân đáp lại rằng người có thể đi không khó nếu người có thể rời xác phàm và trở về nhập xác tùy ý muốn. Dầu sao, nhóm các vị Chân Sư sẽ đi Shamballa ngay tối hôm ấy. Chúng tôi đồng ý rằng các ngài sẽ tựu họp tại nhà trọ của chúng tôi vào lúc xế chiều và Tô Mặc sẽ cùng đi với các ngài. Thật vậy, các ngài đã tựu họp tại đó sau khi chúng tôi trở về nhà trọ. Sau một cuộc nói chuyện ngắn, các ngài bước ra cửa và chúng tôi không còn gặp lại các ngài trong nhiều ngày.
4. Yến Kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma
Trưa ngày hôm sau, chúng tôi được thông báo cho biết rằng đức Đạt Lại Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi tại biệt điện. Vị Sư Trưởng đến ngay chiều hôm đó để đưa cho chúng tôi những chỉ thị về cuộc yết kiến này mà chúng tôi phải chờ đợi tôi được dành cho cái đặc ân này ngay sau khi một sứ giả đem tin tức trở về cho đức Thái Tuế (một danh hiệu của đức Đạt Lai Lạt Ma biết rằng cuộc thăm viếng của Bạch Ngọc Cung (Shamballa) đã diễn ra một cách tốt đẹp. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng được thông báo về những sự diễn biến đã xảy ra trước đây tại một làng, khi mà một ngôi nhà nhỏ tự nhiên mọc lên một cách mầu nhiệm.
Chúng tôi cố gắng gây cho ngài một ấn tượng tốt đẹp đến mức tối đa, vì chúng tôi đã xin phép để theo dõi cuộc khắp nơi trong xứ. Chúng tôi được biết rằng vị thống đốc của tỉnh sẽ đến trước giờ trưa và đã thông báo cho biết, do một viên sứ giả đem tin, rằng ngài sẽ giúp đỡ chúng tôi tất cả quyền hạn của ngài. Đó thật là một sự ngạc nhiên bất ngờ. Chúng tôi thức dậy sớm và đi cùng với một nhóm tùy tùng đến yết kiến xã giao vị thống đốc. Người tỏ vẻ rất hài lòng về cử chỉ này và mời chúng tôi cùng đi với người. Khi chúng tôi và vị thống đốc đến nơi, chúng tôi được đưa vào gian phòng dành cho quan khách tại biệt điện. Từ đó, chúng tôi đi thẳng đến một phòng riêng để làm những cuộc lễ đầu tiên để chuẩn bị cho cuộc yết kiến với đức Đạt Lai Lạt Ma.
Khi chúng tôi đến nơi, ba vị Lạt Ma cao cấp đã ngồi trên những chiếc ghế cao có lót nệm dày, trong khi những vị những vị Lạt Ma cấp dưới ngồi dưới đất trong tư thế nhập thiền (Samadhi). Hai vị Lạt Ma mặc áo đỏ đứng trên những chiếc ghế đẩu và điều khiển khúc thánh ca hợp tấu. Vị Sư Trưởng bạn chúng tôi thì ngồi trên chiếc ngai có che lọng theo nghi lễ chờ viên thống đốc đến.
Sân ngoài của tu viện được trang hoàng lịch sự trong dịp này. Những bức tranh tuyệt đẹp trình bày những cảnh tượng thành lập tượng lịch sử diễn ra từ năm 1417 khi đức Tsong Kappa thành lập môn phái Phật Giáo Thống Nhứt ở Tây Tạng, mà Lhassa là trung tâm chính yếu.
Và lúc sau đó, vị thống đốc cùng đoàn tùy tùng bước vào và đi thẳng đến chỗ ngồi của vị Sư Trưởng, vị này cũng đã từ trên ngai bước xuống. Cả hai đều đứng chung một chỗ để tiếp đón chúng tôi đến phòng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma. Tòa sảnh được trang hoàng với những tấm thảm bằng lụa treo trên vách rất lộng lẫy, và với những bàn ghế bằng gỗ quý đánh bóng rất đẹp.
Sau khi được đưa vào phòng khách, chúng tôi quỳ xuống một lúc đức Thái Tuế rồi mới đứng dậy, và chúng tôi được mời ngồi. Vị Sư Trưởng thay mặt chúng tôi để chúc mừng Thái Tuế và trình bày mục đích cuộc viếng thăm của chúng tôi. Đức Thái Tuế đứng dậy và mời chúng tôi bước lại gần. Một vị Lạt Ma hầu cận đưa chúng tôi đến chỗ của mỗi người. Vị Sư Trưởng và viên thống đốc ở hai góc cùng một hàng với chúng tôi. Khi đó, đức Đạt Lai Lạt Ma bước xuống ngai và đứng trước mặt chúng tôi. Ngài cầm lấy một cây quyền trượng (sceptre) do vị quan hầu cận đưa cho ngài, rồi từ từ đi dọc theo hàng của chúng tôi đứng và điểm nhẹ cây quyền trượng lên trán của mỗi người. Kế đó, vị Sư Trưởng làm thông ngôn, ngài chúc mừng chúng tôi đến xứ Tây Tạng. Ngài nói rằng ngài có hân hạnh tiếp đón chúng tôi như những vị khách trong thời gian chúng tôi lưu lại thành phố này. Ngài yêu cầu chúng tôi hãy tự coi mình là những vị khách danh dự của quốc gia và dân chúng Tây Tạng trong thời gian lưu trú hiện tại và bất cứ lúc nào trong tương lai nếu chúng tôi có ý định sẽ trở lại xứ này.
Chúng tôi đưa ra cho ngài nhiều câu hỏi và được biết rằng ngài sẽ trả lời vào ngày hôm sau. Ngài mời chúng tôi đến xem những tài liệu và bia đá cổ được lưu trữ dưới hầm biệt điện. Ngài gọi một vị quan hầu cận và truyền khẩu lịnh mà vị quan ấy thông dịch lại, nhưng chúng tôi hiểu rằng chúng tôi được tự do đi lại khắp nơi trong biệt điện mà không có giới hạn. Kế đó, đức Thái Tuế ban ân huệ cho chúng tôi, bắt tay chúng tôi một cách thân mật, và cho người đưa chúng tôi cùng với vị Sư Trưởng và viên thống đốc về dịch xá an nghỉ. Hai vị này xin phép vào phòng chúng tôi vì họ muốn duyệt xét nhiều vấn đề.
Vị Sư Trưởng nói:
- Có nhiều lý thú đã xảy ra từ khi các bạn đến lưu trú trong làng nhỏ cùng với chúng tôi. Chúng tôi đã xem xét nhiều tấm bia đá cổ trong tu viện và nhận thấy rằng tất cả đều có đề cập đến nền văn minh cổ của xứ Gobi. Chúng tôi tin chắc chắn rằng tất cả các nền văn minh và tín ngưỡng tôn đều xuất xứ từ một nguồn gốc duy nhất. Chúng tôi không biết rõ căn nguyên và thời đại nào đã sáng tạo nên các bia đá ấy đã ghi lại những tư tưởng của một dân tộc đã từng sống cách đây nhiều ngàn năm. Chúng tôi đã có xem phần tóm lược của bản dịch do vị Lạt Ma xứ Kisou Abou dịch lại cho chúng tôi. Chính nhờ nó mà tôi đã đạt tới khúc quanh quan trọng của đời tôi vậy.
Sáng ngày hôm, khi chúng tôi đang đợi vị sư trưởng, một sứ giả đem tin đến cho hay rằng đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi vào lúc hai giờ trưa. Chúng tôi bèn đi tìm vị Sư Trưởng và gặp nguời ở ngoài cửa tòa sảnh đường, vẻ mặt hân hoan và cầm nơi tay một tờ công lệnh cho phép chúng tôi được tự do lưu thông khắp nơi trong xứ. Sau khi đọc tờ thông điệp mà người sứ giả đã đem đến cho chúng tôi, vị Sư Trưởng nói:
- Đây là một thư mời với mục đích chánh thứ trao tặng tờ giấy thông hành cho các ông.
Khi chúng tôi đã tựu họp lại, có người đề nghị với chúng tôi hãy quên đi ngay lại phòng lưu trữ các tài liệu văn khố. Chúng tôi liền đi tới từng nhóm và khi đến nơi, một sự bất ngời làm chúng tôi ngạc nhiên. Tại đó chúng tôi thấy có hằng nghìn những pho tài liệu khắc trên những tấm bảng bằng đồng và bằng gang, và trên những tấm bia bằng đá cẩm thạch trắng trạm trổ rất đẹp. Đó là lần đầu tiên mà chúng tôi có dịp quan sát tận mắt loại tài liệu cổ đó.
Vị Sư Trưởng cho chúng tôi biết rằng ông không được biết rõ các bia đá cổ đó, nhưng người ta có nói cho ông biết rằng nguồn gốc của chúng là ở Ba Tư. Ông mới tình nguyện đi tìm một vị Lạt Ma biết rõ tường tận về những bia đá cổ này. Ông ta bèn bước ra ngoài, và chúng tôi bắt đầu cuộc quan sát. Không một đoàn viên nào trong nhóm chúng tôi biết đọc những chữ cổ khắc trên các bia đá. Chung quanh những bia đá này đều chừa một cái lề, bề rộng chừng năm phân tây, trên lề có khắc hình nổi. Nhiều hình nổi này được khắc bằng vàng ròng cẩn trên đá cẩm thạch, còn những chữ cổ tự cũng cẩn vàng nhưng không khắc cho nổi lên. Những bia đá đều sắp thành từng loạt rất có ngăn nắp quy cũ, và mỗi loạt đều có mang một số thứ tự.
Trong khi chúng tôi đang đắm chìm trong cơn mơ tưởng mông lung, thì vị Sư Trưởng đã về đến nơi cùng với một vị Lạt Ma cao niên, có phận sự coi sóc các văn khố tài liệu. Vị Lạt Ma thuật cho chúng tôi nghe lịch sử các văn bản và tài liệu cổ, và câu chuyện làm cho chúng tôi thích thú say mê, đến nỗi vị Sư Trưởng phải nhắc nhở chúng tôi về cuộc hội kiến với đức Đạt Lai Lạt Ma.
Giờ yết kiến đức Đạt Lai Lạt Ma đã gần đến và chúng tôi tôi phải mặc áo và tràng dự lễ trong dịp này. Khi chúng tôi đến nơi sảnh đường, thì đức Đạt Lai Lạt Ma vừa đi qua dãy hành lang cùng với toán ngự lâm quân bước vào sảnh đường do một cửa lớn. Cách cửa hông vừa mở, chúng tôi lại được đưa vào phòng khách trang hoàng lộng lẫy như đã nói ở trên.
Ở giữa phòng khách, đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi trên một sàn cao có trải nệm thêu chỉ vàng. Ngài mặc áo rộng thêu vàng, với khăn choàng đỏ. Vị Sư Trưởng đưa chúng tôi đến trước mặt ngài và lại đứng cùng một hàng với chúng tôi như trước. Sau những lời chào hỏi chúc mừng, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trên sàn bước xuống và đứng trước mặt chúng tôi với hai bàn tay đưa lên. Chúng tôi bèn quỳ xuống để cho ngài ban ân huệ.
Khi chúng tôi đứng lên, ngài bước tới trước vị trưởng đoàn chúng tôi, ghim một cái cài áo (broche) trên ngực y và nói những lời này do một viên thông ngôn dịch lại:
- Cái ghim cài áo này sẽ bảo đảm cho túc hạ và cả phái đoàn, quyền tự do lưu thông khắp nơi trong xứ tùy ý muốn. Do tờ văn bằng này, quả chân cũng bang cho túc hạ tư cách công dân danh dự của xứ Tây Tạng, và nước chàm quận công vùng sa mạc Gobi.
Kế đó ngài từ từ đi dọc theo hàng ngũ chúng tôi và ghim một cái xiên tương tự nhưng nhỏ hơn lên ngực mỗi người và nói:
- Quý vị hãy đeo cái ghim cài áo này, nó tượng trưng cho lòng ái mộ của quả nhân. Nó sẽ mở rộng cửa cho quý vị khắp nơi trong xứ Tây Tạng, và có giá trị như một tờ giấy thông hành ở bất cứ nơi nào quý vị muốn đến.
Kế đó, ngài cầm lấy cái hộp ống dài đựng tờ văn bằng từ trên tay vị Sư Trưởng và trao cho vị trưởng phái đoàn. Những cái ghim cài áo đều rất đẹp, làm bằng vàng y có cẩn một viên ngọc bích ở giữa. Trên viên ngọc có khắc bằng hình nổi bức chân dung vô cùng linh động và xem rất giống của đức Đạt Lai Lạt Ma. Đức Thái Tuế và các vị Lạt Ma cận thần đều là hiện thân của sự khả ái và lịch sự, và chúng tôi không biết nói gì khác hơn là thốt ra hai tiếng "Cảm ơn".
Kế đó, vị Lạt Ma hầu cận cho biết chúng tôi được mời dự dạ tiệc với Đạt Lai Lạt Ma ngay tối hôm đó tại biệt điện.
Sau bữa tiệc, câu chuyện lại xoay quanh vấn đề về những tấm bia đá cổ lạ kỳ. Đức Đạt Lai Lạt Ma và viên lão thần đảm trách kho tài liệu cổ, do sự trung gian của một viên thông ngôn, thuật lại cho chúng tôi nghe lịch sử của những bia đá cổ mà chúng tôi đã ghi chép cẩn thận và kể lại sau đây.
Những bia đá cổ là do một vị sư Phật giáo tìm ra được trong một cái hầm ở dưới nền đất của một ngôi đền cổ đã điêu tàn ở xứ Ba Tư. Vị sư thuật lại rằng y được hướng dẫn đến nơi chôn giấu những bia đá cổ do bởi những tiếng hát dịu dàng êm ái vọng ra từ ngôi đền cổ, mà y nghe văng vẳng bên tai trong khi tọa thiền. Bài hát rất du dương và giọng hát rất trong trẻo đến nỗi làm cho nhà sư phải chú ý và tò mò. Nhà sư bè đi về hướng từ đó vọng ra tiếng ca và bước vào bên trong các hầm đá của một ngôi đề cổ đã đổ nát. Giọng hát dường như xuất phát từ dưới hầm. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, và không thấy có một lối nào đi xuống phía dưới hầm, nhà sư bèn quyết định tìm ra nguồn gốc xuất phát ra giọng hát.
Nhà sư mới tìm những đồ khí cụ thô sơ và bắt đầu đào xới trong những đống gạch ngói đổ nát. Không bao lâu, y tìm thấy một phiến đá lớn dường như là để lót sàn đá dưới hầm. Y cảm thấy thất vọng vì trong một lúc y tưởng rằng đã bị lạc hướng vì tiếng gió rít lên từng hồi trong những tường xiêu vách đổ của ngôi đền.
Trước khi rời khỏi chỗ ấy, nhà sư bèn ngồi tọa thiền trong một lúc. Trong khi y đang nhập định, thì tiếng hát trở lên trong trẻo hơn và rõ ràng hơn trước, và ra lịnh cho y phải tiếp tục cuộc thăm dò, tìm kiếm. Một sự cố gắng dường như phi phàm giúp cho y chuyển động tấm phiến đá lật qua một bên và khám phá ra một con đường hầm. Khi y chui lọt qua cửa hầm này, thì đường đi được soi sáng dường như bởi một mãnh lực vô hình. Trước mặt nhà sư, chiều một vầng ánh sáng chói lòa. Nhà sư bèn đi theo, ánh sáng đó dìu dắt y đến cửa một hang động lớn, khép chặt bằng những cách cửa bằng đá rất kiên cố. Trong khi y đang ngắm nhìn những cánh cửa đá này, thì cánh cửa rít lên một phiến đá lớn từ từ xoay ngang, để lộ ra một cửa vào, y chui xuyên qua đó. Trong khi y bước qua cửa này, thì giọng hát lại xuất hiện, trong trẻo êm ái dường như người hát đang ngồi ở phía trong. Ánh sáng dừng lại ở chỗ ngoài cửa từ lúc nãy, bấy giờ lại di chuyển vào bên trong động và chiếu sáng khắp nơi. Những tấm bia đá cổ đều dựng đứng nơi đây, trong những khoảng trống đục khoét trên vách tường đá, phủ đầy cát bụi đắp lên đó tự muôn đời.
Nhà sư bèn quan sát vài tấm bia cổ, và liền hiểu ngay sự mỹ lệ và giá trị của những tấm bia này. Y bèn quyết định chờ dịp thổ lộ với ba người tâm phúc tin cậy, để cùng họ tìm cách di chuyển những tấm bia đá ra ngoài và đem cất dấu ở một nơi an toàn. Y bèn rời khỏi hầm, đặt phiến đá lớn lại nguyên chỗ cũ, lấy gạch ngói vụn nát phủ lên như trước, rồi đi tìm những người bạn tâm phúc sẵn lòng tin tưởng câu chuyện y tường thuật và có đủ can đảm cùng phương tiện để cùng y thực hiện kế hoạch.
Sự tìm kiếm này kéo dài đến hơn ba năm. Hầu hết những người mà y thuật chuyện cho nghe đều tưởng rằng y đã loạn trí, hay điên khùng. Sau cùng, trong chuyến hành hương, y gặp ba vị tăng lữ mà y quen biết trong cuộc đi hành hương tương tự trước đây, và thuật lại chuyện mình cho họ nghe. Họ tỏ ra rất hoài nghi. Nhưng vào buổi tối đúng vào lúc chín giờ, trong khi họ đang ngồi quây quần chung quanh một ánh lửa trại, thì giọng hát lại bắt đầu một bài ca nói về đề tài những bia đá cổ. Ngày hôm sau họ chấm dứt cuộc hành hương và bắt đầu cuộc hành trình đi đến ngôi đền cổ, Kể từ đó, giọng kia lại hát mỗi ngày đúng vào lúc chín giờ tối, giọng hát ấy càng nhẹ nhàng khi bốn người du khách đi đường mệt mỏi.
Khi họ đã gần đến ngôi đền cổ điêu tàn, và chuyến hành trình đã sắp kết thúc, thì hình ảnh mảnh mai thanh tú của một đứa trẻ thiếu niên xuất hiện vào lúc một giờ trước lúc giữa trưa và bắt đầu vừa hát vừa hướng dẫn họ đến chỗ ngôi đền. Khi họ đến nơi, thì phiến đá lớn đã bị cậy bật lên. Họ liền đi theo đường hầm đến chỗ động đá. Những cánh cử tự nhiên mở rộng khi họ đến gần, và họ bước vào động. Chỉ một lúc ngắn ngủi cũng đủ cho các vị tăng lữ nhận biết giá trị của bảo vật này. Họ bèn đi đến một làng cách đó độ một trăm cây số để tìm mua lạc đà và đồ lương thực tiếp tế, để chuẩn bị đem các bia đá cổ đến chỗ an toàn.
Họ mua được mười hai con lạc đà và trở lại ngôi đền cổ và gói gém cẩn thận các bia đá cổ chắc chắn cho khỏi bị hư hỏng dọc đường. Kế đó họ mua thêm ba con lạc đà nữa, và bắt đầu một cuộc hành trình lâu dài đến Peshawar, xuyên qua các nước Ba Tư và A Phú Hãn.
Gần đến Peshawar, các vị tăng lữ mới đem cất giấu đồ bảo vật trong một hang núi hẻo lánh; và để đồ vật nằm yên tại đó trong ba năm. Để giữ gìn các bia đá cổ, một trong các vị tăng lữ luôn thay phiên ngồi tọa thiền trước cửa hang núi. Từ Peshawar họ trở các bia đến Lahnda, trong tỉnh Punjab, và lưu trữ tại đó trong mười năm. Kế đó xuyên qua nhiều giai đoạn chậm chạp từ từ và chậm chạp, đồ bảo vật đã được trở đến đây và lưu giữ trong biệt điện của đức Đạt Lai Lạt Ma. Như thế tất cả là bốn chục năm đã trôi qua kể từ khi các bia đá được đem đi từ nơi chôn dấu đầu tiên. Từ biệt điện, người ta còn phải chở đồ vật này đến "Bạch Ngọc Cung" (Shamballa), tức là hiện thời nó vẫn đang di chuyển trên lộ trình, chứ chưa thực sự đến chỗ an toàn chỉ định.
Đến chỗ này của câu chuyện lịch sử, một người trợ tá đem bốn tấm bia đá vào phòng, và đặt lên một bàn gỗ giống như cái bàn mà chúng tôi đang ngồi chung quanh, thành thử chúng tôi nhìn thấy các bia đá tận mắt. Khi kim đồng hồ chỉ đúng chín giờ, giọng hát lại trổi lên những âm điệu nhịp nhàng du dương. Giọng hát vô cùng em dịu, và trong lanh lảnh như đứa trẻ thiếu niên, đại ý nói về Nguồn Gốc thiêng liêng của muôn loài, sự tạo lập vũ trụ và các bầu thế giới do một ý chí thiêng liêng thấm nhuần tất cả vạn vật, cái Nguyên Lý vô biên và vô cùng minh triết cai quản tất cả mọi hình thức trong Vũ Trụ càn khôn, và sự thực hiện Chân Ngã để giúp cho con người có thể thấu đạt cái Nguyên Lý vô biên và hỗn hợp với Thượng Đế.
Những cuộc sưu tầm ráo riết và công phu hơn có lẽ sẽ chứng minh rằng những bia đá cổ này chỉ là những bổn sao được tạo nên để bảo tồn các tài liệu cổ trên các bản chánh nay đã bị thất lạc. Nếu giả thuyết này đúng, thì các bia đá này đã được khắc vào thời kỳ sơ khai của nền văn minh cổ Ấn Độ. Dầu sao, theo chỗ chúng tôi biết, thì thế giới văn minh hiện đại không có tài liệu cổ nào giống như thế. Những bia đá cổ với những tài liệu khắc trên đó vốn xuất xứ từ đâu mà ra, nếu không là từ cái Nguồn Gốc duy nhất?
Bốn tấm bia đá cổ vẫn còn đó, đang được dựng lên ở trước mặt chúng tôi, và mỗi tấm bia đáng giá cả một kho tàng của cải của một ông vua. Câu chuyện tường thuật trên đây có vẻ hơi đi ra ngoài về mục đích chính yếu, nhưng chúng tôi thấy cần phải trình bày một cách vắn tắt tối đa, những chuyện xảy ra ở nhiều nơi cách biệt rất xa, mà người ta đã tìm thấy những tài liệu có liên hệ trực tiếp đến những nền văn minh cổ xưa nhất thế giới. Chúng tôi cũng sẽ nói sơ qua về những nền nghệ thuật và văn hóa của họ, cùng những tư tưởng và động lực đã giúp cho nền văn minh ấy duy trì được sự sinh tồn của họ ở một trình độ rất cao.
Vài nhóm người rất hiếm vẫn tiếp tục thực hành đời sống tâm linh cao cả. Những nhóm người đã một phần nào trở nên những ngọn đuốc soi đường cho nhân loại đang tiến hóa đến một cao điểm mới của lịch sử văn minh thế giới. Hãy còn chờ xe phải chăng những thiếu sót lỗi lầm của một thiểu số, được tăng cường bởi đa số nhân loại, có thể nào lại một lần nữa nhận chìm thế giới và lôi cuốn phần đông loài người vào trong quên lãng trong một thời gian lâu dài.
Tấm mức quan sát của chúng tôi cho thấy rằng hiện tại có tiềm lực chứa đựng tất cả tương lai. Chỉ có những công trình của hiện tại mới tạo nên tương lai. Nếu hiện tại đượ hoàn hảo, thì tương lai cũng không khỏi được hoàn hảo. Không phải là sự hoàn hảo của hiện tại được nối tiếp theo trong tương lai. Chính cái ý thức về sự hoàn hảo hiện tại nó đưa đến cái ý thức của một tương lai toàn vẹn.
Dù chúng tôi đi đến đâu, chúng tôi cũng khám phá những dấu tích của một dân tộc, ở một thời kỳ nhất định nào đó, đã hoàn toàn sống trong hiện tại. Trọn cái tương lai của dân tộc ấy hoàn toàn phù hợp hoàn toàn đúng đắn với những công trình hiện tại của họ, đến nỗi tương lai của họ không là cái nguồn gốc của lời răn: "Các ngươi chớ băn khoăn lo lắng gì về tương lai." Họ áp dụng điều này: "Hãy sống với hiện tại một cách thành thật, rồi tương lai cũng sẽ tốt đẹp an toàn."
Tư tưởng ấy luôn luôn tái xuất hiện trong những phong tục, tập quán, những bài dân ca, và những kinh cầu nguyện của họ.
Chúng tôi cũng nghiên cứu những chuyện huyền thoại về những âm binh vùng "Biển Cát," theo như danh từ của người Trung Hoa thường gọi vùng sa mạc Gobi. Ở nhiều nơi trên sa mạc, người ta nghe có tiếng nói dị kỳ. Nhiều khi chúng tôi nghe trong khoảng không, có tiếng người kêu gọi đúng tên họ chúng tôi. Có khi chúng tôi nghe thất tiếng động ồn ào huyên náo của một đám đông người dường như ở rất gần. Chúng tôi cũng thường nghe tiếng đàn do nhiều loại nhạc khí khác nhau, kèm theo với những giọng hát rất dịu dàng thánh thót. Chúng tôi đã từng nhìn thấy rất nhiều ảo ảnh và nghe tiếng động của những cồn cát di chuyển.
Chúng tôi chắc rằng những tầng lớp không khí ở một chiều cao nhất định nào đó bên trên bãi sa mạc đã trở nên trong suốt đến nỗi vào những lúc mà tất cả những điều kiện bên ngoài đều hoàn toàn hòa hợp với nhau đến mức tối đa, thì nhữn lớp không khí ấy có tác động giống như những "Phòng âm thanh," nó phản chiếu lại những âm ba rung động đã được phát ra trong thời quá khứ. Chúng tôi tin rằng những diễn biến xảy ra từ thời Trung Cổ đã được tái diễn lại được bằng cách đó.
Chúng tôi mắc bận rộn về những công việc đến nỗi mất cả ý thức về ngoại cảnh, và thời gian trôi qua mau như bay. Dưới sự chỉ dẫn của vị Lạt Ma cao niên, chúng tôi sao chép lại các tài liệu cổ trên các bia đá cùng những tài liệu khác nữa.
Buổi sáng ngày chúng tôi lên đường, thời tiết rất sáng sủa, quan đãng và mọi việc đã sắp đặc sẵn sàng cho chuyến đi bận về của chúng tôi đến Shigarzé. Chúng tôi đã từ giã tất cả những nhân vật hầu cận của đức Đạt Lai Lạt Ma. Một đám đông dân chúng cũng tề tựu trên các đường phố để tiễn đưa chúng tôi. Họ vẫy tay khắp nơi để ra dấu từ giã, hoặc chắp tay cầu nguyện cho chúng tôi được an toàn vô sự. Một phái đoàn đại diện dân chúng đã đi trước chúng tôi nhiều cây số đường trường, và năm chục người tiễn đưa chúng tôi đến tận Shagazé, trên vùng thượng lưu sông Brahmapoutre.
Trong khi chúng tôi đi gần tới thành phố này, tức là thành phố quan trọng thứ nhì của xứ Tây Tạng sau thủ đô Lhassa, chúng tôi nhìn thấy tu viện Tashi Lumpo rất lớn, ở cách hai cây số ngoài thành phố. Một phái đoàn sư sãi của tu viện này đã đi bộ trên năm cây số để tiếp đón chúng tôi và mời chúng tôi an nghỉ tại tu viện trong thời gian lưu trú tại đây.
Khi bước vào tu viện, chúng tôi cảm thấy một niềm an tĩnh thấm nhuần các gian phòng như một sự hiện diện cao cả vô hình. Thật vậy, đó là nơi nghỉ ngơi lý tưởng trước khi bước chân lên đoạn đường sẽ đưa chúng tôi dến hồ Dolma và đến thị trấn Sansrawar.
Sau khi dùng bữa cơm chiều với vị Lạt Ma, chúng tôi bàn luận về những ngôi đền rất đẹp và rải rác khắp nơi trong thành phố. Kế đó câu chuyện xoay qua vấn đề khác biệt giữa các tín ngưỡng và tôn giáo. Một vị Lạt Ma rất cao niên nói:
- Các vị Lạt Ma và đạo sĩ Yogi không cùng chia sẻ những tin tưởng giống nhau. Ngưới Yogi không thể chấp nhận rằng giáo lý của bất cứ một người nào xướng ra là có giá trị quyết định độc đáo. Tất cả mọi người phải đạt tới sự thông suốt trong tự nội tâm của họ. Còn những tu sĩ Lạt Ma giáo thì tuân theo một cách chặt chẽ các giáo lý của đức Phật. Họ nghĩ rằng mỗi người đều đang tiến hóa và cứu cánh sẽ đạt tới quả vị tối cao của Phật. Một người Gia Tô sẽ đạt tới trình độ tâm thức của đấng Chirst. Người Phật tử sẽ đắc quả vị của Phật Thích Ca...
Chúng tôi thấy sáu vị Lạt Ma cầm đầu một nhóm tu sĩ gọi là các Tu Sĩ đi Ta Bà. Nhóm sư sãi ta bà này đi châu du khắp nơi, không tiền bạc chi cả, cũng không bao giờ khất thực. Họ không nhận lãnh đồ vật hay tiền bạc của ai cả. Họ luôn luôn giao tiếp với nhau và với sáu vị Lạt Ma trưởng ở tu viện. Nhóm tu sĩ ta bà này chia làm ba toán, mỗi toán có một vị Lạt Ma cầm đầu, tức là gồm một cơ cấu chỉ huy có chín vị Lạt Ma. Ba vị toán trưởng có thể ở ba xứ khác nhau. Mỗi vị sư sãi đi ta bà luôn tiếp xúc với vị toán trưởng của mình, và vị trưởng toán này giao tiếp thường xuyên với sáu vị Lạt Ma trưởng ở tu viện. Các vị này giao tiếp với nhau bằng một phương pháp mà chúng tôi tạm gọi là chuyển tư tưởng vì thiếu một danh từ chính xác hơn, nhưng chúng tôi biết rằng đó là một thứ mãnh lực tinh tế hơn và chính xác hơn nhiều. Người ta gọi nó là atma, tức là sự giao cảm trực tiếp giữa linh hồn với linh hồn mà không có một vật gì làm trung gian. Chúng tôi đã gặp sáu vị Lạt Ma này và dùng buổi ăn sáng chung với các vị vào ngày hôm sau.
Vị Lạt Ma cho chúng tôi biết rằng người sẽ đi theo chúng tôi đến tận đền Pora tat Sanga khi chúng tôi hoàn thành mọi công việc. Chúng tôi nhận lời, vì vị Lạt Ma này là bạn thiết của vị hướng đạo vừa dẫn đường vừa làm thông ngôn cho chúng tôi. Cả hai người giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu các tài liệu cổ.
Trong khi nói chuyện, vị Lạt Ma già nói một cách tự nhiên:
- Hai người đoàn viên đã từ giã các ông ngày thứ hai vừa rồi, sẽ đến Calcutta ngày hôm nay lúc mười một giờ ba mươi. Nếu các ông muốn tiếp xúc với họ, thì có thể được.
Vị trưởng phái đoàn chúng tơi viết một bức thông điệp gọi hai đoàn viên ấy hãy đến thẳng Darjeeling để lo thu xếp về một công việc cần phải làm, và đợi chúng tôi đến vào ngày hai mươi bốn tháng tám. Y đề ngày trên bức thông điệp, chép một bổn sao để lại, và đưa bổn chánh cho vị Lạt Ma. Vị này đọc xong, xếp tờ giấy lại cẩn thận và để qua một bên. Sau đó, hai đoàn viên đã gặp lại chúng tôi tại Darjeeling ngày hai mươi bốn tháng tám. Họ đưa cho chúng tôi xem một bức thông điệp viết tay được chuyển giao đến tận tay họ sau khi họ đến Calcutta không đầy hai chục phút. Họ đã nghĩ rằng người đem thơ chắc là một thư tín viên được gửi đi từ trước với những chỉ thị rõ rệt. Bây giờ chúng tôi đã có bằng chứng cụ thể về những quyền năng thần giao cách cảm của các vị Lạt Ma Tây Tạng. Nếu họ đã chứng tỏ quyền năng trên địa hạt nầy, chắn hẳn là họ cũng có thể nới rộng quyền năng trên những lãnh vực khác nữa?
Chúng tôi hối hả lên đường đến Pora tat Sanga, vì một số đông khách hành hương sẽ tựu họp lại đó vào mùa này là mùa thuận tiện cho một cuộc hội họp như vậy. Chúng tôi đi ngang qua thị trấn Gyantzé, tại đây chúng tôi được cho biết là sẽ gặp một một vị đệ tử rất đặc biệt, mà người ta gọi là vị "Vị đệ tử cười." Những giọng hát tiếng cười của y làm cho người ta nghe dứt hết mọi cơn sầu khổ, và giúp đỡ khách hành hương vượt qua những đoạn đường gau go khó khăn nhất lộ trình của họ.
Khi chúng tôi bước vào sân tu viện, một người thanh niên lực lưỡng bước đến gần chúng tôi với nhữn lời chào mừng nghinh tiếp. Y cho chúng tôi biết rằng các vị Lạt Ma muốn mời chúng tôi ở lại tu viện trong thời gian lưu trú tại làng này. Chúng tôi nói rằng chúng tôi sẽ lên đường ngay ngày hôm sau, vì chúng tôi phải đi gấp lên truông Phari. Y đáp:
- Chúng tôi biết rằng các bạn định đi tới Pora tat Sanga. Tôi cũng trở về đó sáng ngày mai và rất sung sướng mà được cùng đi với các bạn nếu các bạn cho phép!
Chúng tôi nhận lời. Với một chuỗi cười dài cởi mở, y đưa chúng tôi đến chỗ ngủ, trong gian phòng lớn của tu viện. Sau khi đã xếp đặt cho chúng tôi được có đủ tiện nghi, y chúc chúng tôi nghỉ yên giấc, xin khiếu từ và nói y sẽ gặp lại chúng tôi rất sớm vào sáng ngày hôm sau. Y vừa bước đi vừa hát bằng giọng rất trong. Đó là vị "Đệ Tử Cười." Sáng ngày hôm sau, y đánh thức chúng tôi dậy bằng một giọng hát vang lừng và loan báo rằng bữa điểm tâm đã sẵn sàng.
Chúng tôi từ biệt các vị Lạt Ma, được các vị ban ân huệ trước khi lên đường, và thấy rằng mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi của chúng tôi đến truông núi Phari. Truông này đưa du khách qua khỏi các đỉnh núi Phari và Kang La. Nói chung, đường đi rất cheo leo, nhưng ở những đoạn đường khó đi, thì người đệ tử đi trước dẫn đường vừa hát và vừa cười. Trong những đoạn đường gồ ghề lồi lõm nhất, giọng hát của y vang rền và dường như đưa chúng tôi đi một cách dễ dàng êm ái.
Chúng tôi lên tới đỉnh truông núi vào lúc ba giờ chiều. Trạm nghỉ chân sắp tới của chúng tôi là thị trấn Manha Muni với một ngôi đền rất to lớn như pháo đài. Cũng như ở các nơi khác, tại đây chúng tôi được tiếp đón nồng hậu. Chúng tôi được cho biết rằng người ta không cần giữ chúng tôi ở lại, vì Chân Sư Pouridji đã đi trước chúng tôi đến đền Pora tat Sanga là nơi có rất nhiều đạo sĩ Yogi và tu sĩ các môn khác đã tề tựu rất đông tại đây. Ngày hôm sau, đám người hành hương tựu họp rất sớm vì họ muốn đi sớm để được gặp Chân Sư Pourdji. Họ cũng muốn chiêm ngưỡng ngôi đền Pora tat Sanga là ngôi đền cao nhất thế giới, một tòa kiến trúc mỹ lệ dựng trên một đỉnh núi cao. Tất cả đoàn người hành hương và chúng tôi đều lên đường. Ngọn Everest hùng vĩ nhô lên trước mặt chúng tôi dưới lớp áo tuyết trắng như pha lê và chiếu ánh sáng dịu của bình minh. Nó dường như mời mọc chúng tôi hãy cố gắng tiến thêm vài bước, chỉ vài bước nữa thôi, rồi đưa tay ra trước để nắm manh áo tuyết của nó. Nhưng mỗi khi chúng tôi tiến thêm vài bước, thì khối đá khổng lồ vẫn lọt ra ngoài tầm tay chúng tôi. Chúng tôi đã vượt qua khỏi núi Chomolhari thật là treo leo hiểm trở, nhưng bây giờ chúng tôi đi một cách vô cùng vất vả trên một con đường mà thường khi chúng tôi phải bò trên bốn cẳng! Tuy nhiên, những giọng hát tiếng cười của người đệ tử vẫn đưa chúng tôi đi nhẹ nhàng thoải mái như lướt trên hai cách. Trong cơn hứng khởi, chúng tôi quên cả sự hiểm nguy, và dường như chúng tôi vượt qua những đoạn đường khó khăn một cách dễ dàng nhanh chóng. Chuyến đi ngày hôm ấy không có vẻ gì là lâu lắc hay mệt nhọc đối với chúng tôi, mà dường như chỉ kéo dài trong chốc lát. Những âm ba rung động của thần lực, của sự an tĩnh và điều hòa toát ra từ các ngôi đền luôn luôn hấp dẫn người du khách đến những ngọn núi này. Thật không lạ gì mà thấy rằng dãy núi Tuyết Sơn vẫn gây nguồn cảm hứng tâm linh cho khách lữ hành, và các thi nhân vẫn luôn luôn ca tụng sự huy hoàng hùng vĩ của nó.
Sau cùng, đến chiều tối, chúng tôi đã vượt qua tất cả mọi nỗi khó khăn trên đường mòn và dừng chân trên một khoảng đá bằng phẳng rộng lớn, ai nấy mệt nhoài và thở dốc. Nhiều ngôi đền rải rác xa xa, nhưng đền Pora tat Sanga đẹp như viên ngọc, nhô lên ở một chiều cao bảy trăm thước trên đầu chúng tôi, và chiếu một vầng ánh sáng rực rỡ, soi sáng tất cả các núi đá và đền miếu ở vùng chung quanh.
Đám người hành hương và chúng tôi cùng ngồi quây quần trong một hang đá rộng lớn. Chúng tôi ngạc nhiên mà nhận thấy rằng có cả phụ nữ trong đám hành hương. Không có sự kỳ thị hay phân biệt nam nữ trong những chuyến hành hương, ai muốn đi đều có thể xin gia nhập. Các vị Chân Sư đã từng sống ở tại đây. Chân Sư Niri cũng đã từng đi qua con đường mòn của chúng tôi vừa đi. Hôm nay, nhà đạo sĩ Santi cao cả, khiết bạch và khiêm tốn, đã ngồi tọa thiền tại hang đá này và đang đắm chìm trong cơn đại dịnh.
Chúng tôi hỏi làm sao tìm được nơi ăn chốn ở cho tất cả những người hành hương này? Vị Đệ Tử Cười cất tiếng hát:
- Đừng lo chi vấn đề nhà ở. Tại đây có đầy đủ thức ăn, chỗ ngủ và áo quần cho tất cả mọi người.
Kế đó, người đệ tử lại hát một giọng du dương:
- Xin mời tất cả mọi người hãy an tọa.
Khi chúng tôi vừa ngồi xuống thì những chén thức ăn nóng và bổ dưỡng xuất hiện. Vị đạo sĩ Santi cũng đã xả thiền đứng dậy và bắt đầu chuyền thức ăn cho các du khách, với sự trợ giúp của người đệ tử và các người hành hương khác.
Khi ai nất đều đã ăn uống no lòng, tất cả khách hành hương đều đứng dậy và người ta đưa họ đi từng nhóm nhỏ đến các ngôi đền kế cận để nghỉ lại trong đêm đó.
Vị đệ tử đưa chúng tôi đến một ngôi đền tọa lạc trên một khối đá, ngăn cách chỗ chúng tôi bởi một vách đá dốc đứng chừng hai mươi lăm thước bề cao. Khi đến gần, chúng tôi nhận thấy một cây cột trụ dài, chân trụ chấm đất, còn ngọn thì đỡ lấy các mõn đá de ra phía dưới ngôi đền. Vì cây cột trụ này dường như là phương tiện duy nhất để lên tới ngôi đền, nhóm chúng tôi tựu lại dưới chân trụ để tìm cách trèo lên. Trong một lúc, cái hy vọng duy nhất để có chỗ ngủ là ban đêm dường như tùy thuộc vào khả năng của chúng tôi để trèo lên cây trụ ấy. Nhưng người đệ tử nói:
- Các bạn chớ nên hấp tấp vội vàng.
Kế đó, y cất giọng lớn:
- Hỡi Thượng Đế mến yêu, chúng con sở cậy nơi Ngài để có chỗ trú trong đêm nay.
Ngay khi ấy, tất cả mọi người chung quanh chúng tôi đều giữ im lặng trong một lúc, rồi bằng một giọng đồng thanh hòa tấu rất mãnh liệt, họ thốt lên những lời này:
- Đó là quyền năng của Thượng Đế, AUM...
Trong khoảnh khắc, tất cả chúng tôi đã thấy mình đứng trên mõn đá, và cùng đi với những người hành hương khác đến ngôi đền rải rác chung quanh, được chỉ định cho từng nhóm. Khi đến nơi, chúng tôi không còn giữ lại một dấu vết nào của sự mệt nhọc. Đêm đó chúng tôi ngủ yên giấc như trẻ con. Chúng tôi thầm nghĩ rằng nếu những rung động của thần lực toát ra từ nhóm người đó được sử dụng để san bằng núi non thành bình địa, thì ắt là điều ấy vẫn có thể làm được!
Sáng ngày hôm sau, lúc bốn giờ, giọng hát mạnh mẽ rõ ràng của người đệ tử đánh thức chúng tôi dậy. Y hát:
- Cõi thiên nhiên đã thức dậy. Nhữn người con của thiên nhiên cũng phải thức giấc. Bình minh của một ngày mới đã xuất hiện. Sự tự do của ngày này đang chờ đón các bạn AUM!
Chúng tôi đến gần chỗ mõm đá gie ra ngoài và gác lên đỉnh cột trụ trong ngàu hôm trước. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cột trụ đã thay thế bằng cầu thang rất chắc chắn. Khi xuống cầu thang, chúng tôi tự hỏi không biết có phải chúng tôi đã mơ hay chăng?
Người đệ tử đón chúng tôi dưới chân cầu thang nói:
- Không, các bạn không mơ đâu. Chính Chân Sư Pourdji đã mơ tưởng cái cầu thang trong đêm qua và đã đặt nó tại đây vì sự ích lợi công cộng. Đó là giấc mơ trở thành sự thật đấy.
Trong khoảng khắc mười lăm ngày chúng tôi đã trải qua trong vùng này, mỗi ngày chúng tôi được ăn những thức ăn nóng hổi và bổ dưỡng không hề thấy có ai làm bếp hoặc nấu nướng gì, và được cung cấp thức ăn rất đầy đủ.
Người đệ tử và một người đồng hành bắt đầu trèo lên ngọn núi Pora tat Sanga. Đường đi khởi đầu bằng những nấc thang tam cấp đục trong khối đá. Kế đó, người ta phải đi trên những tấm sàn gỗ bắc ngang để nối liền các khe hở giữa hai vách núi, tạo nên những vực thẳm dưới chân người lữ hành. Có những chỗ khác, người ta phải leo dây, mà một đâu dây được cột chặt với những mô đá đưa ra ở phía trên. Sau hai giờ đồng hồ, những người leo núi vẫn chưa có thể vượt qua mõm đá thứ nhì chiều cao ở một trăm bảy mươi lăm thước cao hơn điểm khởi hành. Khi đó, họ mới nhận thấy rằng họ bắt buộc phải bỏ dở chuyến trèo núi này.
Nhìn thấy họ lưỡng lự và biết rõ vị trí khó khăn của họ, đạo sĩ Santi kêu Tonjnor Jung:
- Tại sao các anh không xuống đi?
Người đệ tử đáp:
- Chúng tôi thử đi xuống nhưng đá trơn quá không xuống được.
Y đã trải qua cái kinh nghiệm thông thường là trèo lên một vách đá hầu như trơn láng còn dễ hơn là xuống!
Khi đó, người đạo sĩ nói đùa:
- Nếu vậy, tại sao các anh không ở nguyên tại chỗ? Chúng tôi sẽ trở lại sáng ngày mai với đồ lương thực, và chắc chắn các anh sẽ có thể trèo lên tới đỉnh!
Kế đó, đạo sĩ yêu cầu hai người leo núi hãy hoàn toàn bình tĩnh, và hướng dẫn họ cẩn trọng trong ba tiếng đồng hồ để cho họ đi xuống được an toàn. Khi họ đã xuống tới đất và gặp lại chúng tôi, người Yogi mỉm cười và nói:
- Như thế là sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ tàn lụi dần.
Hai người thanh niên bèn ngước nhìn lên đỉnh núi với những cặp mắt đầy mong ước. Họ nói:
- Nếu Chân Sư Pourdji đang ở trên đó, chúng tôi thật là không may mà không gặp được ngài. Cuộc trèo núi này thật quá khó khăn đối với chúng tôi.
Người Yogi đáp:
- Các anh đừng lo ngại gì. Một vị cao cả hơn chúng tôi sẽ lo việc ấy. Bây giờ các anh hãy nghỉ ngơi, các anh đã khởi sự một cách tốt đẹp đó.
Chúng tôi bèn tự hỏi trong sự ngạc nhiên, bằng cách nào người ta có thể xây cất một ngôi đền trên chót núi như ngôi đền Pora tat Sanga.
Nhiều giọng nói thốt lên hỏi rằng bao giờ chúng tôi mới có thể gặp được Chân Sư. Người Yogi đáp:
- Chiều nay.
Thật vậy, chân sư Pouridji đã đến gặp chúng tôi trong buổi cơm chiều. Chúng tôi có nhắc đến việc trèo núi của hai người thanh niên bị thất bại. Chân Sư nói rằng hai người đã thành công trong việc trèo núi nhờ bởi mưu toan lần thứ hai mà họ đã làm trong tư tưởng.
Bốn giờ chiều ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều tựu họp trong hang đá ở phía dưới ngôi đền. Đạo sĩ Santi đang ngồi nhập định. Ba người trong nhóm bèn đi tới một tảng đá bằng phẳng và ngồi lên đó trong tư thế tọa thiền. Trong giây lát, tảng đá bay bổng lên trên không và chở ba người lên tới ngôi đền trên đỉnh núi.
Khi đó đạo sĩ Santi nói với người đệ tử và hai người nữa:
- Các anh sẵn sàng chưa?
Họ đáp là sẵn sàng và liền ngồi xuống một bên đạo sĩ trên tảng đá. Tảng đá này liền bắt đầu tự cất mình nhẹ bổng lên và chở cả ba người lên đến trước sân đền. Kế đó, người ta mời chúng tôi đứng chung lại thành một nhóm. Tất cả mọi người đều đứng dậy. Những người đã lên tới đền từ trước bèn bước ra sân và bắt đầu hát thành ngữ AUM. Trong khoảnh khắc, chúng tôi đã thấy mình không còn ở dưới đất nữa mà đã có mặt tại sân đền trên chót núi. Chỉ trong giây lát, tất cả chúng tôi đã tề tựu đông đủ tại ngôi đền cao nhất thế giới.
Khi chúng tôi đã ngồi an tọa, Chân Sư Pouridji cất tiếng nói:
- Nhiều người trong các bạn chưa hề nhìn thấy hiện tượng khinh thân và cho rằng đó là một phép lạ nhiệm mầu. Thật ra, đó không có gì lạ phép lạ cả. Đó chỉ là kết quả của một quyền năng tự nhiên của con người. Chúng tôi được truyền thụ phép ấy do bởi pháp môn Yoga cổ truyền. Trong quá khứ, nhiều người đã từng sử dụng quyền năng đó mà không ai cho là nhiệm mầu hết cả. Đức Phật cũng đã từng viếng thăm nhiều nơi xa xôi hẻo lánh bằng phương tiện khinh thân. Tôi từng thấy hằng nghìn người đã đạt tới kết quả tương tự. Ngoài ra còn có những cách biểu lộ quyền năng cao hơn nhiều so với những gì các bạn sẽ được nhìn thấy. Những sự biểu lộ đó chứng minh sự hiện hữu của một sức mạnh vạn năng. Khi người ta hoàn toàn làm chủ được cái sức mạnh vạn năng đó, người ta có thể sử dụng nó để lấp biển dời non.
Các bạn ca tụng sự tự do, các bạn tuyên dương đức vô úy. Nhưng thay vì các bạn quên mất sự nô lệ, và không còn nhắc đến nó nữa, các bạn vẫn còn nhớ đến nó một cách quá rõ, và chính là sự tự do mà các bạn đã quên. Một pháp môn Yoga thuần túy là một thông điệp tự do cho toàn thể thế giới.
Kế đó Chân Sư Pouridji thuyết giảng về ý nghĩa thần bí của thánh ngữ AUM. Sau khi dứt lời, ngài mời chúng tôi cùng đi theo ngài đến một động đá rất lớn ở dưới lòng đất, tại đây, nhiều vị đạo sĩ Yogi đang ngồi tọa thiền nhập định. Chúng tôi ở lại ngôi đền và trong động đá này chín ngày. Nhiều vị Yogi đã từng sống tại động đá trong nhiều năm, và khi họ rời khỏi nơi vắng vẻ cô liêu, họ thực hiện những công trình tốt đẹp về đạo đức tâm linh giữa những người của dân tộc họ.
Chúng tôi được cho biết rằng sau cuộc hội họp này, nhiều vị Chân Sư sẽ trở về Ấn Độ do con đường đi đến hồ Sansrawar và Mouktinath. Từ Mouktinath chúng tôi có thể đi dễ dàng đến Darjeeling. Đó là một tin lành, và triển vọng được đi chung với các đấng cao cả làm cho chúng tôi rất hãnh diện.
Chúng tôi đi từ động này đến động khác và nói chuyện với nhiều tu sĩ và đạo sĩ Yogi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy nhiều vị trong số đó sống tại đây mùa đông cũng như mùa hè. Chúng tôi hỏi họ có bị lạnh vì tuyết xuống nhiều vào mùa đông hay không. Họ đáp rằng tuyết không rơi xuống vùng chung quanh chỗ họ ở, và vùng này không hề có sương mù hay bão tố.
Thời gian qua mau như thoi đưa, và bây giờ chúng tôi đã sắp đến ngày lên đường.
5. Chuyến Đi Trở Về
Sáng ngày chúng tôi lên đường, tất cả đoàn người đều thức dậy vào lúc ba giờ sáng do bởi tiếng hát vang của người "Đệ Tử Cười." Chúng tôi nghĩ là chắc có thể xảy ra chuyện gì khác thường, vì y mời tất cả chúng tôi hội họp lại trong một lúc. Trong khi chúng tôi bước ra ngoài, ánh sáng từ đền Pora tat Sanga toát ra với một ánh hào quang rực rỡ đến nỗi tất cả vùng chung quanh đến chiếu sáng. Người đệ tử đứng ở một góc đền và yêu cầu chúng tôi chiêm ngưỡng cảnh tượng ấy trong im lặng. Chúng tôi thấy hàng trăm bóng người đứng yên, hai tay đưa lên. Cơn im lặng bị gián đoạn bởi những lời kêu gọi:
- Xin chào tất cả các bạn, Chân Sư Pouridji sắp sửa ngâm thánh ca.
Hằng nghìn giọng cất lên phụ họa với giọng ngâm của ngài, và tiếng vang dội lại gây cho người nghe cái cảm giác là còn có hằng nghìn giọng hát khác nữa. Mỗi chữ vang lên rõ ràng trong cơn im lặng của buổi bình minh. Chân Sư nói:
- Có thể nào có một vị Thượng Đế cho người Ấn Độ, một Thượng Đế cho người Trung Hoa, một Thượng Đế cho người Do Thái và một Thượng Đế cho người Gia Tô chăng? Chỉ có một Nguyên Lý duy nhất, đại đồng và thiêng liêng cai quản tất cả muôn loại vạn vật. Cái ánh sáng trung ương của Nguyên Lý ấy gọi là Thượng Đế. Thượng Đế phải là bao gồm hết tất cả. Tất cả đều thấm nhuần sự sống của Thượng Đế. Điều ấy, chắc hẳn không có nghĩa là có một vị Thượng Đế cá nhân, riêng biệt cho một nhóm người nào.
Khi chúng ta nói về Thượng Đế, chúng ta chỉ nói có một đấng Duy Nhất, Ngài là của tất cả, cho tất cả, trong tất cả và xuyên qua tất cả. Nếu người Ấn Độ đặt một tên cho Thượng Đế của họ, và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã có sự phân cách. Nếu người Trung Hoa đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã bị phân chia. Nếu người Do Thái đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã có sự cách biệt. Nếu người Gia Tô đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ cũng đã bị phân chia. Một cái nhà mà nó tự đã chia rẽ cách biệt, thì đã bị tiêu diệt ngay từ trước, và nó phải sụp đổ. Nếu có hợp nhất, nó sẽ sống trường cửu. Các bạn hãy chọn lựa xem nên theo đằng nào. Chia rẽ, cách biệt có nghĩa là phá sản và diệt vong. Hợp nhất trong cái Nguyên Lý Âm Dương có nghĩa là tiến bộ, danh dự và quyền năng. AUM, AUM, AUM.
Tiếng thánh ngữ AUM này dường như vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Chúng tôi có thể nghe tiếng ngân vang của nó vang dội lại trong ít nhất là mười phút, dường như tiếng cồng của ngôi đền điểm giờ khắc trôi qua. Có những lúc, dường như các tảng đá cũng thốt ra tiếng ngân đó. Trong khi những âm hưởng vang dội lại đã tan dần, tất cả những người hành hương đều tề tựu trong hang đá ở phía dưới ngôi đền, và chúng tôi cũng họp chung với họ.
Khi nhóm chúng tôi đã ngồi xuống, đạo sĩ Santi đưa tay lên khỏi đầu, và tất cả mọi người đều đồng thanh cất tiếng ngâm thánh ngữ AUM như trước. Lại một lần nữa, những vách đá phản ảnh lại tiếng vang. Tiếng dội kéo dài cho đến khi chúng tôi đứng dậy, và tất cả đều giữ một lúc im lặng. Kế đó, người đệ tử cất tiếng hát:
- Chúng tôi sẽ từ giã các bạn. Chúng tôi gửi cho các bạn những lời chúc lành sâu đậm nhất, khi chúng tôi phải cách biệt với sự hiện diện khả ái của các bạn. Chúng tôi yêu cầu các bạn hãy dành cho chúng tôi cái danh dự được tiếp đón các bạn một lần nữa. Chúng tôi rất do dự phải chia tay với các bạn. Chúng tôi mong ước các bạn sẽ trở lại và có ngày sẽ tái ngộ với chúng tôi. Cầu xin cho các bạn hãy nhận được những ân huệ tốt đẹp của đấng thiêng liêng.
Câu trả lời đến ngay dường như chỉ thốt ra bởi một người:
- Các bạn thân mến, chúng ta không bao giờ cách biệt nhau dầu các bạn tưởng rằng không gian đào một vực thẳm giữa chúng ta, vì Thượng Đế thấm nhuần tất cả không gian và nối liền với chúng tôi. Chúng tôi cũng không cảm thấy cần thốt ra lời từ giã các bạn không phải là những chuyến đi và đến. Các bạn luôn vẫn ở đây. Biệt ly, thời gian, quên lãng, không hề có. Hiện tại là ở đây, và tương lai là cũng ở đây. Chúng ta có thể ở tại nơi đâu, nếu không phải là tất cả cùng ở nơi Thượng Đế?
Chúng tôi đã đi được một quãng đường dài khi những lời sau này vọng đến tai chúng tôi. Những bước chân dong ruổi trên đường lộ đưa chúng tôi đi xa, nhưng lòng chúng tôi vẫn còn ở Pora tat Sanga. Thật quả là không có sự biệt ly, và chúng tôi không hề cảm thấy rằng đã rời khỏi nơi thánh điện tôn nghiêm đó.
Trên đường về, người đệ tử đưa đường cho chúng tôi vẫn luôn luôn cất tiếng hát vang và cười rất vui vẻ. Cũng như lần trước, giọng hát tiếng cười của y dường như giúp chúng tôi vượt qua dễ dàng tất cả những đoạn đường khó khăn gập ghềnh. Vào lúc hai giờ trưa, chúng tôi đi qua thị trấn Maha Muni, nhưng thay vì dừng chân tại đây để nghỉ ngơi, chúng tôi vẫn tiếp tục đi thêm mười sáu giờ đồng hồ, và vượt qua trên một trăm hai chục cây số. Tuy vậy, chúng tôi không hề cảm thấy mệt nhọc chút nào, và cuộc hành trình vẫn tiếp tục như thế cho đến bờ hồ Sanarawar.
Tại đây, người ta đưa chúng tôi đến nghỉ tại một ngôi đền rất mỹ lệ ở gần bên bờ hồ. Chúng tôi nghỉ ngơi suốt hai ngày trước khi tiếp tục lộ trình đi qua truông núi trên dãy Tuyết Sơn. Địa điểm này phong cảnh u nhã và có vẻ rất thần tiên. Hồ nước phẳng lặng và xanh biếc như viên ngọc nằm giữa một khung cảnh núi non hùng vĩ bao bọc chung quanh. Các loài chim ca hát líu lo trên các cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh hồ. Nhiều vị Chân Sư cùng đi với chúng tôi cư ngụ tại đây.
Chúng tôi tiếp tục lộ trình đến Mouktinath cùng với đạo sĩ Santi. Chúng tôi thường nghe nói về sự cheo leo hiểm trở của truông núi trên dãy Tuyết Sơn. Chuyến du hành kéo dài suốt nhiều ngày, nhưng chúng tôi đi đường một cách dễ dàng suông sẽ và đến Mouktinath đúng ngày giờ đã định. Tại đây, chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của đức Tuệ Minh và nhiều vị siêu nhân khác. Những lời nói không thể nào diễn tả được sự vui mừng vô hạn của chúng tôi trong dịp tái ngộ này. Chúng tôi đã từng đi đến tận những vùng xa xôi cách trở, và đã được dành cho một sự tiếp đãi trọng hậu và khả ái nhất đời. Tuy nhiên, chính tại đây mà chúng tôi mới cảm thấy mình đã thật sự "Trở về nhà."

HẾT


Xem Tiếp: ----