Mọi thứ giấy tờ đã xong, hai giỏ thực phẩm vừa đủ sức cho hai cánh tay chị. Chị cùng cha chồng lên đường. Các con chị gởi cho ngoại và dì trông nom. Ba ngày ba đêm trên chuyến tàu Thống nhất Sài Gòn - Hà Nội. Chị ngồi rồi đứng. Tiếng xình xịch của tàu lửa cộng thêm sự mỏi mệt của tứ chi tù túng không đi lại được, làm chị muốn nhắm mắt, nhưng tàu đông người quá, lại sợ mấy giỏ đồ thăm nuôi bị cuỗm mất. Ngồi lâu mỏi chân, chị rút chân lên thay đổi thế ngồi. Mấy phút sau, bỏ chân xuống thì đôi dép không cánh mà bay!
Tàu vào ga Hà Nội, đêm đã xuống, ánh sáng heo hắt vàng ố trong sân ga. Cái lạnh cắt da thịt tháng giêng, chị rùng mình nghĩ ngợi, làm sao sống được nơi nầy! Nhìn xe bán bánh bao. Những chiếc bánh trắng nghi ngút khói. Đang lạnh và đói, những tuyến nước bọt trong miệng chị trào ra, nó len lén bò quanh vành môi:
- Tôi mua năm cái.
Sau khi trả tiền, hai cha con tìm chỗ ngồi ăn. Chị đưa chiếc bánh nóng kề môi, hơi nóng tỏa ra, môi chị dần dần ấm lại. Khí trời lạnh quá làm nguội bánh ngay trong giây lát. Chị cắn miếng bánh. Ngậm không nhai được, mùi gì khai nồng quá độ. Có lẽ là mùi khai bột nổi. Ăn không chết đâu, nếu ăn chết sao họ dám bán công khai vậy! Nước miếng làm bánh mềm, chị nuốt vội. Cắn tiếp miếng thứ hai, ngậm phải miếng thịt. Ôi! Tanh sao mà tanh quá! Chị quay sang hỏi cha chồng:
- Ba! Ba ăn thấy sao?  Tanh mùi gì quá con muốn ói...
Ở đây thịt bán theo tem phiếu, theo tiêu chuẩn, thịt đâu ra để làm bánh! Chỉ có cá ế, chợ tan rồi người ta mua gom về làm nhân bánh thôi!
Phút giây nầy chị ao ước có một củ khoai mì thiu nuốt dễ hơn cho đỡ đói. Đã chín giờ tối, chị mặc thêm chiếc áo len, nhưng cũng cảm thấy lạnh như mình chưa mặc gì cả. Gọi xe xích lô đến khách sạn. Khách sạn không còn phòng trống. Người quản lý khách sạn cho biết sau mười hai giờ có người sẽ trả phòng. Ba chồng chị lẩm nhẩm tính, còn ba giờ nữa: " mình đợi vậy!" Ôi! Làm sao chị đợi được! Chị tưởng tượng sẽ hóa đá khi phải ngồi trước thềm khách sạn nầy thêm vài giờ nữa. Chị đang như ngồi trong tủ lạnh. Đôi dép đã mất trên tàu lửa, hai chân chị giẫm trên gạch đá mà tưởng chừng như trên những tảng băng. Ba ngày không rửa mặt súc miệng, không tắm rửa, chị nghe như có con gì ngọ nguậy trong châu thân.
Ba ơi! Hình như Ba có quen người ở Hà Nội nầy, Ba gọi xe cho con tới đó. Con sắp chết cóng đây!
Nhẫn vừa nói, môi đánh bò cáp, hai hàm răng cụng nhau côm cốp, chị rên hừ hừ.
Ngần ngừ mấy giây, cha chị gọi xe, hai cha con đến nhà Dì Dượng Hàn ở phố Hàng Buồm. Dì Dượng ở nhà tập thể. Tầng dưới là nhà giữ trẻ, từng trên chia ra làm nhiều phòng, mỗi phòng là một gia đình. Dì duợng có hai người con trai, chỗ ở thật chật chội. Có lẽ ba chị đã từng nghe dượng tả qua, nên ông ngần ngại không muốn đến làm phiền. Riêng Nhẫn thì mừng hết biết, chị được tắm qua loa, được thay bộ đồ đã mặc ba hôm, được có chỗ đặt hai giỏ đồ không sợ ai cuỗm mất mà chị mong mỏi trao đến tay chồng. Dị Dượng nầy tập kết ra Bắc năm 1954. Biết Nhẫn đi thăm nuôi chồng, họ gom thuốc lá thuốc tây trong nhà đem tặng chị. Thấy chị đi chân trần, bà Dì cũng cho chị đôi giày mới, bà đã mua chưa hề mang. Chị sung sướng nhất là tránh được giá buốt ngoài trời. Sáng hôm sau hai cha con ra sân ga mua vé tàu đi Vĩnh Phú.
Nầy, đưa giấy tờ Ba giữ, mầy ngồi đây coi mấy giỏ đồ, để tao vào mua vé. Cẩn thận nghen...! Cha chồng căn dặn trước khi chen vào quày vé.
Sau khi nắm được hai vé tàu trên tay, chen được ra ngoài sân ga cũng đủ đổ mồ hôi hột vì làn sóng người xô đẩy. Kẻ cố chen vô, người cố trở ra. Đến chỗ Nhẫn ngồi đợi, Cha chồng chị phát giác cái bốp của ông đã bị mất rồi. Ông đến gặp công an Ga cớ mất giấy tờ.
...Tiếng còi hụ vào Ga, Nhẫn cuống quít vì thấy người trên tàu đông lúc nhúc, Họ đeo hai bên cửa lên xuống như đàn kiến bò kín lối. Cha chị leo lên tàu qua cửa sổ, người bên trong xô đẩy ông bật ra. Ông nắm được bệ cửa, gồng hai tay, mang hai giỏ đồ, đong đưa người nửa trong nửa ngoài trên thành cửa. Nhẫn đứng chết trân dưới sân Ga. Chị biết trăm phần mình không thể nào lên tàu được. Con Tàu chuyển bánh một cách chậm chạp, rồi dần nhanh. Nhẫn run bần bật khi biết chắc chị bị rớt lại trên sân Ga xa lạ nầy. Bỗng, một cánh vạm vỡ ôm cứng người chị từ phía sau lưng, đưa người chị lên cao. Nhẫn hốt hoảng há hốc mồm. Nhưng khi thấy nhiều cánh tay của những người đứng ngay cửa lên xuống đưa ra, tay kia ôm chặt thanh sắt bệ cửa. Nhẫn lẹ làng chụp ngay cánh tay họ. Người đàn ông dưới đất chạy theo con tàu, tay đưa chị cao hơn ngang với bực cấp để chị có thể bước lên. Họ nhường chỗ cho chị và nghe có tiếng bảo đi tiếp vào bên trong. Chị làm theo như đó là mệnh lệnh! Vào được bên trong toa, chị cũng nghe được lời cha chồng hỏi:
- "Nhẫn! mầy lên được rồi phải không?
- Dạ!"
Nhẫn chưa qua cơn xúc động mạnh, nước mắt chảy ròng, chị cắn chặt môi, nhưng nước mắt từ đâu cứ tuông mãi. Chị muốn cám ơn những người xa lạ ngồi quanh nàng. Cám ơn ai đó đã nhảy xuống Tàu giúp chị mà chị chưa nhìn thấy mặt. Chị nghe nhiều tiếng hỏi lao nhao. Chị không biết nên trả lời ai câu hỏi nào. Chị chỉ nói vỏn vẹn có một câu:
- "Họ bảo chồng tôi đi học tập mười ngày, rồi họ đưa ra tận đây!".
Sau đó chị không nghe ai hỏi gì nữa. Hình như từng ấy lời cũng đủ xác định chị là ai và lý do chị có mặt trên chuyến tàu nầy.
Đến ga Ấm Thượng, người chỉ còn lưa thưa, hành khách xuống dần dần từng Ga. Hai cha con mang hành lý xuống tàu, rời Ga rồi theo người hướng dẫn đến nhà tiếp tân được dựng bên bờ sông. Căn nhà tiếp tân làm bằnn quá, sao Bác Sáu cứ lẩn quẩn bên chị, giỏ thức ăn của Bác nằm đây không về nấu ăn, cá thịt ươn hết, chồng con đợi ở nhà. Chị muốn hỏi nhưng còn ngần ngại vì nhớ lại câu chuyện mẹ kể: " Nghe con đi lấy chồng xa, Bác Sáu ôm má khóc nói - "tôi có ý trông con Nhẫn hơi lớn lớn tí nữa sẽ hỏi cưới cho Thằng T., Sao chị gả nó đi xa. Con còn nhỏ, gả sao sớm vậy? " Rồi hai bà cùng khóc! Đắn đo vài giây, chị bạo dạn hỏi:
- Bác Sáu, Bác có đợi ai không?
Thằng T. bảo Bác ra xem con mua bán thứ gì nhà có thể mua về xài thì mua giùm con. Bác muốn ngồi đây chơi với con xem con buôn bán.
Ngày xưa, nhà T. và nhà chị đối diện nhau, ngày Tết Bác Sáu làm mứt chanh đẹp lắm. Bà thường gọi chị qua nhà dạy cách làm. Ngay cả đến ngày giỗ, Bác cũng để dành mâm thức ăn ngon, nhưng chị chưa bao giờ ăn mâm đó mà chỉ cho hai em gái qua thôi. Chị và T. cùng học một lớp.
Ban ngày chị gượng cười gượng nói cho mẹ già an lòng. Có lần chị nghe mẹ nói với em gái: " Chồng nó không về chắc nó điên!". Đêm xuống con đã ngủ, chui vào mùng đắp chăn phủ đầu, chị khóc giọt dài giọt ngắn tha hồ tuông cho vơi sầu muộn.
Rồi có một ngày người đưa thư mang đến cho chị một tin vui. Chị được đi thăm nuôi chồng. Suốt ngày đêm chị miên man suy nghĩ sẽ mua món gì? Cám rang trộn đường - phòng ngừa phù thũng- Muối sả trộn bột ngọt - Trong rừng chắc là cần muối - Mắm ruốc xào sả ớt - Có thể để lâu không hư - Đường - Chắc là thèm ngọt lắm. Thịt chà bông -Món nầy mùi thịt thơm cám dỗ lũ con chị số một.
Ba đứa nhỏ cứ vây quanh chảo thịt, trời nóng bức mà chúng cứ ngồi sát bên lò, mắt thao láo nhìn. Mẹ nó dùng đũa trộn đều cho mau khô, chị lựa miếng nào có dính mỡ gắp cho vào miệng con, đứa khác nhìn chờ đợi, chị gắp miếng nữa cho vô miệng đứa kia, lây đũa trộn trộn, lựa miếng nào xâu xấu cho vào miệng đứa thứ ba. Ba đứa nhỏ chạy ra ngoài chơi mấy phút, nhai xong miếng thịt, mắt liếc liếc rồi cũng chạy vào nhìn chảo thịt thèm thuống. Chị lên tiếng:
- " Để gởi cho Ba chứ con!"
Chúng tản ra xa, nhưng cũng được vài phút thôi, lại trở vô bếp nói:
- "Con coi má làm thôi mà!".
Lòng thương con dào dạt, cũng bởi thiếu thốn nên con mình mới thèm như vậy. Thuở còn bé, cha mẹ mình không giàu có bằng ai, nhưng có bao giờ mình thèm món gì đâu. Bởi được cha mẹ cho ăn uống đầy đủ... Nước mắt chị ràn rụa, nhưng giả đò nói với con: " ngồi trong bếp nóng quá nên chảy nước mắt. Chị lấy đôi đũa sắt khua qua khua lại trên thành lò: " Sao không thấy cục than nào có khói mà làm mắt cay!" Con chị còn bé quá, không hiểu gì cả, tưởng mẹ nói thật. Chảo thịt khô rồi chỉ còn độ nửa lon guigô. Đọc lại bức thư của chồng, đọc mãi đọc hoài. Bức thư bao lần ướt nhão lại khô mà chị vẫn cứ quên không nhớ anh căn dặn những gì. Anh dặn chị mua bánh thuốc lào. Miền Bắc lạnh lắm nên anh quí thứ nầy! Hỏi mấy bà bán thuốc lá cho người ăn trầu -" Đây có bán thuốc lào không? " họ trả lời "không". Đi hết chợ chị không tìm thấy thuốc lào. Từ bé đến lớn chị không thấy ai ở quê chị hút thuốc lào nên không hiểu hình dạng nó ra sao. Chị chỉ thấy thuốc điếu, thuốc gói. Vô Sài Gòn hỏi mấy bà đi thăm nuôi trước, gởi tiền và nhờ mua giùm.


Phần I

Sau khi chiếm trọn miền Nam Việt Nam, ngày 30-4-1975, nhiều chiếc loa phóng thanh được đặt ở nhiều địa điểm suốt ngày loan: " Không được động tới cây kim sợi chỉ của dân". Những binh sĩ, quân cán chính của chế độ cũ học tập ba ngày tại nơi cư trú và sau đó được cấp giấy tờ để trở về cuộc sống dân sự lo làm ăn. Lòng Nhẫn hoang mang, nhưng cũng mong mau tới ngày chồng chị cũng học tập như mọi người rồi sau đó yên tâm kiếm chỗ định cư lập nghiệp, lo cho ba đứa con.
Lệnh của Ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon thông cáo: những Sĩ Quan của chế độ cũ phải trình diện, mang theo tiền bạc lương thực cho mười ngày học tập. Một nỗi nghi ngờ lóe lên trong đầu, nhiều lúc muốn hỏi ý chồng có tin được không? Rồi lại ngần ngại, kẻ biết trước giờ chết đau khổ hơn cái chết đến với họ thật bất ngờ. Chị chỉ đưa ý kiến sẽ đem con về sống với ngoại ở Ninh Hòa. Chồng chị trả lời: " Anh không tính được gì cả cho đến lúc anh ở tù về".
Gom góp hết số tiền còn lại của chị đưa cho chồng. Một túi xách nhỏ, một chiếc mền mỏng, vài bộ đồ, khăn mặt bàn chải đánh răng, một cục xà phòng. Đó là hành trang với lời căn dặn: " Áo quần dơ anh đừng giặt, chừng mười ngày về, em giặt cho".
Vợ chồng chị chia tay không nói với nhau một lời. Anh cầm tay chị bóp mạnh. Anh xoa đầu các con dặn: " Ở nhà nghe lời má!". Một nỗi cảm xúc nghèn nghẹn chận ngay cuống họng, không ai nói được lời gì.
Mười ngày dài chị đếm từng giây phút trong nỗi lo âu với sự nghi ngờ, từng đêm khắc khoải. Chị mong đợi mười ngày định mệnh qua nhanh để biết hậu quả thế nào. Ngày thứ mười chị bồng con đứng đợi, suốt ngày không thiết tha đến bữa ăn, cứ ngóng mắt trông từng chiếc xe trờ tới, chị cứ nghĩ là chồng chị về. Đợi mãi đến cuối ngày, mười một rồi mười hai giờ. Tiếng chuông đồng hồ báo hiệu qua ngày mới, Chị tức giận òa khóc, khóc tức tưởi. " Biết ngày nào gặp nhau, mình sẽ sống như người đàn bà góa bụa ở tuổi hai mươi lăm nầy sao?" Giờ đây đứa con ôm mẹ bú là giây phút hạnh phúc nhất còn lại, giúp chị vơi bớt nỗi cô đơn trong đêm dài thanh vắng.
Phiền muộn vất vả, cho con bú không có món ăn dinh dưỡng, chỉ vài tháng sau, Nhẫn đã thành người đàn bà ốm gầy khô đét. Hai bàn tay bị xà phòng ăn rướm máu, mà ngày nào cũng phải giặt hai thau đồ dày của đàn ông lẫn đàn bà, nước mắt hòa với máu đổ ra trên những đống quần áo dơ. Chị cúi mặt cam chịu sống nơi đây để đợi chờ tin tức, chị mong cánh thư chồng gởi về từ trại giam nào đó, để biết rồi an tâm ra đi.
Ôi! Thật là họa vô đơn chí! Thằng con lớn năm tuổi lại bị bệnh, nó ngủ liên miên suốt ba hôm rồi không dậy được, đầu lúc nào cũng hâm hấp nóng. Cho nó ăn cháo, nó không muốn ăn.
Để con ngủ
Con phải ngồi dậy ăn rồi ngủ. Ngủ đói chết sao?
Nó không ngồi dậy được. Công việc nhà không ai phụ giúp. Chị lo bữa trưa cha chồng đi làm về, em chồng đi học về mà cơm chưa nấu. Thế là đành bỏ con nằm một mình. Buổi chiều nó lên cơn sốt. Không có tiền đưa con đi Bác Sĩ, chị bèn thưa với mẹ chồng:
- Má có thuốc nhét đít cho trẻ con không? Cho con một viên, thằng nhỏ nóng quá!
Mẹ chồng chị chuyển lời hỏi ý chồng. Ông ngần ngừ đắn đo mấy phút, xoay lưng, cố lờ như không nghe, rồi quay qua nói với vợ:
- Có! Nhưng để giành cho con con Trúc!
Nhẫn nghe lọt lời ông nói nên mạnh dạn lên tiếng:
- Ba ơi! Cho con xin một viên thuốc giảm nóng cho thằng nhỏ, nó bệnh đã ba hôm rồi. Cháu ngoại Ba đang khỏe mạnh ăn chơi, biết đợi đến lúc nào cho nó bệnh mà dùng?
Mẹ chồng nói:
- Ông đưa cho nó đi!
Suốt đêm, chốc chốc chị đưa tay lên sờ trán con, mắt Nhẫn lờ mờ như có màng sương mỏng, hình ảnh cha già với lời căn dặn:
- Con à! Lúc ông nội con còn sanh tiền có căn dặn con cháu mai sau lập nghiệp thì đi vô theo hướng Nam.
- Sao vậy Ba? Lời Nhẫn hỏi cha.
Từ đây đi ra là miền Trung, ra nữa là miền Bắc, đất đai cằn cỗi, mưa lụt mỗi năm, dân chúng khó làm ăn, lại thêm chiến tranh liên tục, tâm tình con người dần dần biến đổi theo sự khó khăn trong cuộc sống, cách sống của họ không rộng rãi, lúc nào cũng phải thắt lưng buột bụng, có cái gì cũng cho vào ruột tượng cột chặt vào lưng.
Chị ôm chặt con vào lòng, nước mắt chảy dài. Chị tự trách mình đã không nghe lời cha căn dặn. Đưa tay sờ trán con, chị cảm nhận nhiệt độ có phần giảm dần. Ngày hôm sau em gái chị từ Ninh Hòa vào thăm:
- Má nằm mơ, đêm nào cũng thấy chị liên tục suốt mấy đêm liền, Bà sốt ruột bảo em nghĩ bán hàng vô Sài Gòn xem chị ra sao!
- Cháu bệnh nặng nên chưa đưa con về thăm má được.
Trước khi về quê em chị để lại tiền, chị mang con đi chữa bệnh. Đứa bé thuyên giảm dần sau khi chị đem nó đến Bác Sĩ Mẫn, phòng mạch trên đường Nguyễn Tri Phương. Ôi sung sướng nào bằng khi thấy con ăn nói đùa giỡn.
Chị khe khẽ bảo nhỏ với con: " Ráng ăn cháo cho khỏe rồi má dẫn về ngoại ăn me!"
Tiếng ầm ĩ quát tháo dưới nhà cắt đứt niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của mấy mẹ con. Nhẫn vội rời con đứng lên, đầu đập mạnh vào trần nhà cái bốp. Mắt té đôm đốm, đầu óc quay cuồng, vài phút mới định thần được. Mẹ con chị đang ở trên gác xếp chiều cao chỉ bằng người ngồi, vì lật đật chị quên bẵng đi. Vừa đặt chân xuống thang gác, chị nghe tiếng ông cha chưởi:
- Đồ thứ đàn bà hư, không nấu nổi bình nước sôi!
Có lẽ trước đó ông nói nhiều nữa nhưng chị không nghe được, đầu chị còn lùng bùng t!!!13206_2.htm!!! Đã xem 5257 lần.


Nguồn: NinhHoa.com
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 30 tháng 7 năm 2011