iên Đại tướng mỉm cười nói với Scott: - Tôi sẽ không giới thiệu ông với cô Saib. - ông ta nói - bởi vì tôi tin ông đã gặp rồi. Scott có vẻ ngỡ ngàng trong lúc anh chăm chú nhìn người phụ nữ mặc một chiếc abaya màu đen và mang một tấm pushi che kín mặt. Nàng bị bao vây bởi bốn quân nhân với lưỡi lê chĩa ra ngoài. - Chúng tôi phải cám ơn cô Saib rất nhiều, bởi vì trước hết chính cô ta đã đưa chúng tôi đến gặp ông, chưa kể tấm bưu thiếp của cô ta gửi cho ông Rabin đã giúp ông tìm thấy bản Tuyên ngôn một cách nhanh chóng. Chúng tôi đã cố gắng để cho mọi việc hết sức dễ dàng đối với ông. - Tôi không biết cô Saib. - Scott nói. - Ôi, nào, giáo sư, hay là tôi phải gọi ông là điệp viên Bradley? Tôi khâm phục lòng dũng cảm của ông, nhưng trong khi ông có thể quả quyết không biết cô Saib, chắc chắn ông biết Hannah Kopec. - Viên Đại tướng vừa nói vừa giật tấm mạng của Hannah ra. Scott nhìn Hannah nhưng vẫn không nói gì. - A! Tôi thấy ông còn nhớ cô ta. Hơn nữa, thật hết sức khó quên người đã cố giết ông, phải không? Đôi mắt của Hannah có vẻ van xin Scott. - Thật là đau lòng, vì ông ta đã quên cô. Nhưng tôi e rằng tôi không có bản tính khoan dung như ông ta. Viên Đại tướng chợt quay lại nhìn thiếu tá Saeed đang chạy về phía ông ta. Ông ta thận trọng lắng nghe những lời viên thiếu tá thì thầm vào tai, rồi bắt đầu đập lia lịa chiếc gậy chỉ huy vào đôi ủng cao bằng da. - Anh là một thằng ngốc - Ông ta la lớn và đột nhiên phang chiếc gậy chỉ huy vào mặt viên thiếu tá. Ông ta quay lại và nhìn thẳng vào mặt Scott và nói: - Dường như cuộc xum họp mà tôi đã sắp xếp cho ông và những người bạn của ông phải chờ đợi một lúc nữa, bởi vì mặc dù chúng tôi đã bắt nhốt Đại tá Kratz, tên Do thái và tên phản bội người Kurd đã tẩu thoát. Nhưng chỉ là một vấn đề thời gian trước khi chúng tôi tóm cổ bọn chúng. - Ông đã biết bao lâu rồi? - Hannah trầm tĩnh hỏi. - Cô Kopec, cô đã phạm phải sai lầm mà quá nhiều kẻ thù của chúng tôi đã phạm, - viên Đại tướng trả lời, - vì đánh giá thấp vị Tổng thống vĩ đại của chúng tôi. Ông ấy chi phối mọi việc ở Trung Đông giỏi hơn nhiều so với Gorbachev ở Nga, Thacher ở Anh hoặc Bush ở Mỹ. Tôi tự hỏi có bao nhiêu công dân ở phương Tây còn tin các nước Đồng minh đã thắng cuộc chiến tranh vùng Vịnh? Ngoài ra, cô cũng khá khờ khạo mới xem thường người em họ của ông ấy, Abdul Kanuk, vị đại sứ mới được bổ nhiệm của chúng tôi ở Paris. Có lẽ anh ta không hoàn toàn khờ khạo như thế khi anh ta theo dõi cô suốt quãng đường tới nhà người yêu của cô và đứng trong hốc cửa trong phần còn lại của đêm hôm ấy trước khi theo cô trở về Toà đại sứ, chính anh ta là người đã thông báo cho Đại sứ của chúng tôi ở Geneva về những gì "Cô Saib" có thể làm. Lẽ tất nhiên, chúng tôi cần chắc chắn, nhất là vì Thứ trưởng Ngoại giao của chúng tôi đã nhận thấy hết sức khó chấp nhận một câu chuyện như thế về một trong những nhân viên trung thành nhất của mình. Quả thực là một con người ngây thơ. Vì vậy, khi cô đến Baghdad, bà vợ của Đại sứ đã mời người em trai của cô Saib đến ăn tôi. Nhưng buồn thay, anh ta đã không nhận ra cô. Căn cước giả của cô như các tờ báo lá cải của người Mỹ vẫn thường mô tả, thế là tiêu tan. Cũng các tờ báo đó cứ đặt câu hỏi một cách hết sức tội nghiệp: "Tại sao Mossad không ám sát Tổng thống Saddam". Giá như họ biết được bao nhiêu lần Mossad đã cố gắng và thất bại. Điều mà Kratz không kể cho cô nghe tại trường huấn luyện của cô ở Herzliyath, là cô là điệp viên Mossad thứ mười bảy đã cố thâm nhập vào hàng ngũ của chúng tôi trong năm năm vừa qua, và tất cả bọn họ đều đã trải qua một kết thúc bi thảm như viên đại tá của cô sắp sửa nếm. Và trước hết cái đẹp thực sự của toàn bộ vụ việc này là chúng tôi không cần phải thừa nhận là đã giết chết bất cứ ai trong bọn cô. Cô cũng biết người dân Do thái không muốn chấp nhận, sau Enteble và Eichmann, rằng một chuyện như thế vẫn có thể xảy ra. Tôi có cảm tưởng chắc chắn ông sẽ hiểu rõ lập luận về chuyện đó, ông giáo sư? - Tôi sẽ thương lượng với ông, - Scott nói. - Tôi cảm ông vì đạo đức kiểu phương Tây của ông, ông giáo sư, nhưng tôi e rằng ông không có gì để mà thương lượng. - Chúng tôi sẽ trao trả cô Saib nếu ông thả Hannah. Viên Đại tướng cười phá lên. - Ông giáo sư, ông có một khả năng sắc sảo về những chuyện lố bịch, nhưng tôi không muốn xúc phạm ông với ý nghĩ ông không hiểu tâm trí của người A rập. Xin cho phép tôi giải thích. Ông sẽ bị giết và sẽ không có một ai bình luận bởi vì, như tôi đã giải thích, người phương Tây quá tự cao tự đại, cho nên thậm chí không thừa nhận rằng ông hiện hữu. Trong khi chúng tôi ở phương Đông sẽ giơ tay lên trời và hỏi tại sao Mossad đã bắt cóc một cô thư ký hiền lành vô tội đang trên đường đến Paris, và hiện giờ đang bắt giữ cô ta ở Tel Aviv trái với ý muốn của cô ta. Chúng tôi thậm chí biết cả nơi cô ta bị giam cầm. Chúng tôi đã chuẩn bị nhiều tấm hình hết sức tình cảm để phân phát cho từng tờ báo trong thế giới phương Tây,và một bà mẹ quẫn trí cùng cậu con trai đã được huấn luyện kỹ bởi những công ty có mối quan hệ với quần chúng của chính các ông để đương đấu với giới báo chí phương Tây. Thậm chí, chúng tôi sẽ nhờ tố chức ân xá Quốc tế phản đối bên ngoài các Toà đại sứ của Do thái tên toàn thế giới nhân danh cô ta. Scott xững nhìn viên Đại tướng. - Cô Saib đáng thương sẽ được thả ra trong vòng vài ngày. Còn cả hai người, ông giáo sư và cô Kopec, sẽ kết liễu bằng một cái chết không được thông báo, không được báo trước và không được để tang. Để ngẫm nghĩ rằng cả hai người đã hy sinh tính mạng của mình để đổi lấy một mảnh giấy vụn. Và trong khi chúng tôi sắp xếp vấn đề đó: tôi sẽ lấy lại bản Tuyên ngôn. Bốn quân nhân bước tới trước và chĩa lưỡi lê vào cổ họng Scott, trong lúc viên Đại tướng giật cái ống giấy ra khỏi tay anh. - Ông giáo sư thật là giỏi vì đã đổi được bản tài liệu trong hai phút, - viên Đại tướng vừa nói vừa liếc lên màn ảnh truyền hình. - Nhưng ông có thể tin tưởng rằng chúng tôi vẫn còn giữ ý định đốt bản gốc cho công chúng xem vào ngày 4 tháng 7, và tôi chắc chắn rằng chúng tôi sẽ huỷ hoại danh tiếng mong manh của Tổng thống Clinton cùng với nó. Viên Đại tướng cười vang rồi nói tiếp: - Ông giáo sư đã biết suốt nhiều năm nay tôi thích thú với trò giết người, nhưng tôi sẽ được một niềm khoái lạc đặc biệt từ cái chết của hai người, vì các cách thích hợp mà các người sẽ theo để từ giã thế giới này. Bọn quân nhân vây quanh Hannah và Scott, ép buộc họ trở vào phòng Hội đồng rồi tiếp tục về phía hành lang ngắn. Viên Đại tướng đi theo họ trong hành lang. Tất cả mọi người dừng lại trước chiếc tủ sắt đang mở cửa. - Cho phép tôi, - Đại tướng Hamil nói, - thông báo cho ông giáo sư một con số thống kê mà ông đã không nhắc đến, khi ông tường thuật với tôi về kỳ công thiết kế lạ lùng này. Có lẽ chỉ vì ông không biết, mặc dù tôi buộc lòng phải thừa nhận rằng ông đã chuẩn bị mọi việc hết sức kỹ lưỡng. Nhưng ông có hiểu được rằng một người bị chết trong một chiếc tủ sắt có kích thước như thế này, với một thể tích chưa đầy 47 mét khối, chỉ có thể hy vọng sống sót trong sáu giờ? Tôi chưa biết khoảng thời gian chính xác mà hai người có thể hy vọng sống sót khi cửng nhau san sẻ số lượng dưỡng khí đó. Nhưng tôi sẽ biết ngay thôi. Ông ta lấy đồng hồ bấm giờ ra khỏi túi, vẫy chiếc gậy chỉ huy của ông ta, và bọn quân nhàn xô mạnh đầu tiên là Hannah và kế đó là Scott vào trong chiếc tủ sắt. Nụ cười vẫn còn ở trên gương mặt của viên Đại tướng, trong lúc hai quân nhân đẩy cánh cửa đồ sộ đóng lại. Tất cả các bóng đèn bắt đầu nháy sang màu đỏ. Viên Đại tướng liền ấn nút đồng hố bấm giờ. Khi chiếc xe hơi ngừng lại, Kratz nghĩ rằng quãng đường họ vừa đi chưa đầy hai cây số. Ông nghe tiếng cửa mở và cảm thấy bị xô đẩy vào cánh tay chứng tỏ ông phải ra khỏi xe. Ông bị đẩy lên ba bậc thềm đá trước khi bước vào một toà nhà và đi dọc theo một hành lang dài. Tiếng bước chân của ông vang dội trên sàn gỗ. Rồi ông được dẫn vào một phòng bên trái, nơi đây ông bị đẩy xuống trên một chiếc ghế, bị trói bằng dây thừng và bịt miệng. Giày và vớ ông được cởi ra. Khi ông nghe tiếng cửa đóng, ông cảm thấy chỉ còn lại một mình. Một thời gian dài trôi qua - anh không rõ là bao lâu - trước khi cửa lại mở. Giọng nói đầu tiên anh nghe được là của Đại tướng Hamil. - Gỡ tấm vải bịt miệng ra, - Ông ta chỉ nói có thế. Kratz có thể nghe tiếng ông ta bước quanh chiếc ghế, nhưng thoạt tiên viên Đại tướng không nói gì. Kratz bắt đầu tập trung tư tưởng. Ông biết viên thuốc có hiệu lực trong hai tiếng đồng hồ, không hơn, và ông tin chắc rằng đã bốn mươi hoặc bốn mươi lăm phút trôi qua, kể từ khi bọn họ lôi ông ra khỏi đại bản doanh của Đảng Baath. - Đại tá Kratz, tôi đã chờ đợi một thời gian mới được cái đặc ân làm quen với ông. Tôi đã từ lâu khâm phục việc làm của ông. Ông đúng là một con người cầu toàn. - Dẹp trò dơ dáy đó đi, - Kratz nói, - vì tôi không khâm phục ông hoặc việc làm của ông đâu. Ông chờ đợi cái tát đầu tiên hoặc một quả đấm vào hàm, nhưng viên Đại tướng chỉ tiếp tục đi vòng quanh chiếc ghế. - Ông sẽ không quá thất vọng, - viên Đại tướng nói - Tôi có cảm tưởng chắc chắn, sau tất cả những gì ông đã nghe về chúng tôi, rằng ông đã tưởng tối thiểu lúc này là điện giựt, có lẽ trấn nước theo kiểu Trung Quốc, thậm chí có thể tra tấn bằng trăn, nhưng tôi e rằng - không giống như Mossad đâu, Đại tá - khi đối phó với hạng người cao cấp như ông, đã từ lâu chúng tôi không dùng tới những phương pháp đơn sơ như thế. Chúng tôi nhận thấy chúng đã lỗi thời, một kiểu cách của quá khứ. Tệ hơn nữa, chúng không đem lại hiệu quả. Người Do thái các ông rất cứng cỏi và được huấn luyện kỹ càng. Các ông ít khi chịu nói, rất ít. Vì vậy chúng tôi phải áp dụng các phương pháp khoa học hơn để đạt được thông tin chúng tôi cần. Nếu vẫn còn trong vòng một giờ, Kratz nghĩ, ông đã đánh giá nó vẫn còn hiệu lực. - Chỉ cần chích một ống PPX, chúng tôi sẽ biết được mọi điều chúng tôi muốn biết, - viên Đại tướng nói tiếp, - và một khi chúng tôi có thông tin mà chúng tôi cần, chúng với chỉ việc giết ông. Như thế có hiệu quả hơn nhiều trong quá khứ, và với tất cả những lời kêu ca về môi trường hiện nay, như thế gọn gàng hơn nhiều. Dù sao đi nữa, tôi phải thú thực, tôi đã quên những phương pháp cũ. Vì vậy ông sẽ hiểu tại sao tôi không thể chống lại việc nhốt cô Kopec và giáo sư Bradley trong chiếc tủ sắt, đặc biệt vì họ đã không gặp nhau quá lâu. Bàn tay của Kratz bị ép ra phía sau, sát vào tay ghế. Ông cảm thấy nhiều ngón tay đang tìm một mạch máu và khi cây kim đâm, ông nao núng. Ông bắt đầu đếm: một, hai, ba, bến, năm, sáu… Ông sắp sửa khám phá ra có phải chăng một trong những nhà hoá học hàng đầu của châu Âu đã tìm được, như bà ta đã bảo, loại thuộc giải đối với thuốc nói thật mới nhất của Iraq, Mossad đã săn tìm nhà cung cấp ở Áo. Kỳ lạ thay, nhiều người vẫn nghĩ không còn có người Do thái ở Áo. Ba mươi bày, ba mươi tám, ba mươi chín… Loại thuốc này vẫn còn ở trong giai đoạn thứ nghiệm và cần được chứng minh trong những điều kiện không phải tại phòng thí nghiệm. Nếu một người có thể hoàn toàn kiểm soát được trí óc của mình trong khi có vẻ như đang bị thôi miên, thì họ biết loại thuốc giải của họ đã thành công, một phút, một phút một, một phút hai, một phút ba… Cuộc thí nghiệm xảy đến khi họ chích mũi kim thứ hai ở bất cứ nơi nào. Rồi mánh khóe tỏ ra không có phản ứng gì, như không viên Đại tướng sẽ nhận thấy ngay tức khắc rằng lần chích ban đầu đã không có được hiệu quả cần thiết. Chương trình đào tạo cho "kinh nghiệm hiện thực" đặc biệt này không phổ biến cho toàn thể các điệp viên, và mặc dù Kratz đã trải qua cuộc thử nghiệm mỗi tháng một lần trong chín tháng vừa rồi, ta chỉ có một cơ hội duy nhất không phải tại phòng thí nghiệm để khám phá ra ta có qua được cuộc thử nghiệm hay không. .… một phút ba mươi bảy, một phút ba mươi tám, một phút ba mươi chín… Mũi tiêm cốt để có tác dụng sau hai phút, và mỗi điệp viên đều đã được dạy bảo trông đợi mũi thứ hai vào một lúc nào đó giữa hai và ba phút. Như vậy cần phải đếm. .… một phút năm mươi sáu, một phút năm mươi bảy… Bỗng nhiên mũi kim thọc vào và rút ra khỏi ngón cái trên bàn chân trái của ông. Kratz ngừng nghiến răng; ngay cả hơi thở của ông vẫn đều đặn. Ông đã thắng giải thưởng Pincushion của Do thái. Mossad vẫn thường châm chọc mọi thứ. Chú thích: (1) pincushion: tấm đệm nhỏ để ghim kim may.