rời vừa rạng sáng,Tácdăng đã thức dậy bước lên boong tàu. Chàng nhìn trời,dự đoán thời tiết. Nền trời không một vệt mây. Vậy là con đường trở về hòn đảo,quê hương đàn thú của chàng đã trở nên thuận lợi. Chàng đánh thức người lái tàu dậy để chuẩn bị nhổ neo. Nghe tiếng chàng gọi người lái tàu,tất cả số thủy thủ còn lại đều nhắc nhau lên boong. Từ lúc nghe Tácdăng hứa là sẽ không tố giác trước pháp luật về tội đồng lõa với hai tên thủ phạm người Nga,tất cả thủy thủ đều yên tâm. Không đợi ân nhân mình thúc dục,các thủy thủ đều vui vẻ bắt tay vào công việc. Đàn thú được leo lên boong tàu,đi lại tự do. Tất cả đám thủy thủ trên tàu Kinxây vẫn chưa quên được cái chết của đồng bọn dưới nanh vuốt đàn thú. Tácdăng và Mugambi phải thường xuyên giám sát đàn vượn và báo Sêta. Trông thấy cặp mắt trấn áp của Tácdăng và Mugambi,đàn vượn của Acút và báo Sêta cũng mất hết hứng thú nghịch ngợm. Nhờ vậy mà các thủy thủ yên tâm làm việc,đi qua đàn thú với cảm giác an toàn. Chẳng bao lâu sau,tàu Kinxây đã từ biệt cửa sông Ugam, thả mình bồng bềnh trên mặt sóng Đại Tây Dương. Vợ chồng Grâyxtâu nhìn bờ sông Ugam đang khuất dần khỏi tầm mắt. Chẳng có gì lưu luyến với mảnh đất này! Hai người lúc nào cũng nghĩ tới đứa con lưu lạc của mình. Họ cũng chẳng nhớ con tàu Kinxây chạy với tốc độ bao nhiêu. Đối với họ lúc này,ngay cả một con tàu viễn dương hiện đại nhất cũng có tốc độ quá nhỏ. Họ chỉ muốn có mặt tức khắc ở nước Anh để tìm bé Giếch. Mặc dù vợ chồng Tácdăng cảm thấy tàu đi quá chậm,cuối cùng thì ở phía chân trời cũng hiện ra cái hòn đảo lờ mờ,quê hương của Sêta và đàn vượn Acút. Trong buồng ngủ của Pabovich,quả mìn giờ vẫn vang lên tiếng tích tắc đơn điệu. Trên mặt đồng hồ,chiếc kinh nhỏ nhích dần vượt hết con số này tới con số khác. Chẳng bao lâu nữa,giây phút định mệnh của con tàu sẽ tới. Pôtơrôva và Tácdăng đứng trong cabin thuyền trưởng. Trong khi đó,cánh thủy thủ tụ tập ở đầu tàu. Đàn thú đã rủ nhau nằm bên phòng nấu ăn,lim dim mắt ngủ gà ngủ gật. Bốn bề yên tĩnh. Tàu chạy êm và mặt biển cũng yên. Đột nhiên một tiếng nổ dữ dội vang lên. Mái che của các căn buồng tung bay trong không trung. Tàu Kin xây như rung mình rồi chìm đi trong một vùng khói đen đặc. Boong tàu phút chốc trở nên hỗn loạn. Đàn vượn của Acut chạy ngược xuôi,tung tóe. Báo Sêta nhảy chồm chồm,rú lên hoảng hốt. Mugambi run rẩy toàn thân,khuôn mặt nhớn nhác. Chờ cho con tàu trở lại thăng bằng, Tácdăng chạy vội lại với đàn thú. Chàng xoa gáy Sêta, vỗ về đàn vượn cố gắng làm cho cúng hiểu rằng cái phút nguy hiểm đã trôi qua rồi. Tuy vậy, tiếng nổ đã làm cho con tàu bốc cháy. Ngọn lửa dữ dội và tham lam như những chiếc lưỡi khổng lồ liếm hết khung cửa này tới khung cửa khác. Quả mìn đã phá thủng mặt boong. Ngọn lửa ăn dần xuống hầm tàu. Có điều may mắn tới kỳ lạ là tiếng nổ không làm ai bị chết. Nguyên nhân của vụ nổ vẫn còn là một bí ẩn chưa ai khám phá ra. Người duy nhất đón tiếp Paplovich trong đêm qua đã lờ mờ đoán ra nguyên nhân. Nhưng người thủy thủ già đó tự nhủ: Chẳng dại gì mà hé ra chuyện đó. Biết đâu lão sẽ bị trừng trị vì tội để cho lão người Nga đó lên tàu đặt mìn mà không hề khai báo. Đám cháy mỗi lúc một lan rộng. Ngọn lửa bốc cao dần. Tácdăng khám phá ra rằng đây là một chất nổ đặc biệt. Bởi vì chàng không thể dập tắt đám cháy bằng nước lã. Lửa đã trùm lên buồng máy làm cho con tàu dựng lại. Số phận con tàu đã được định đoạt. - Nếu cứ đứng mãi trên tàu thế này thì thật vô nghĩa – Tácdăng nói với người lái tàu - Rõ ràng là chàng biết lúc nào tàu sẽ nổ. Chúng ta không thể cứu chữa được nữa. Tốt nhất là sửa soạn mấy chiếc thuyền con, càng nhanh càng tốt. Phải bơi nhanh vào đất liền. Đúng là không còn cách nào khác. Các thủy thủ vội vã thu nhặt quần áo và những vật dụng cần thiết. Cũng may là lúc này buồng ngủ của thủy thủ vẫn chưa bị bén lửa. Hai chiếc thuyền con được thả xuống nước. Mọi người lặng lẽ bơi thuyền, chở luôn cả đàn thú vào dất liền mà không gặp chút trở ngại nào. Vừa nhận ra mảnh đất quê hương, báo Sêta và đàn vượn nhổm cả hai chân trước mép thuyền, hướng mặt về mép đảo với đôi mắt sung sướng và thèm khát. Thuyền vừa chạm bờ cát, chúng đã nhảy bổ ra khỏi thuyền chạy thẳng vào rừng sâu. Tácdăng mỉm cười nhìn đàn thú khuất dần sau bóng cây. - Chào tạm biệt,các bạn của tôi! - Tácdăng kêu lên thầm thì – Chúng mày đã hết lòng tận tụy giúp tao. Biết đến bao giờ mới gặp lại chúng mày! - Chúng sẽ quay lại phải không?- Pôtơrôva hỏi chồng - Có thể quay lại, cũng có thể không – Tácdăng trả lời – Anh biết là từ khi chúng phải sống với người lạ trên tàu, chúng rất khó chịu. Anh và Mugambi thì đối với chúng chẳng có gì xa lạ, bởi vì chẳng khác chúng là bao. Nhưng em và đám thủy thủ thì chúng thấy khác biệt quá nhiều. Ngẫm ra cũng phải. Chúng chịu đựng thế nào nổi khi phải sống bên cạnh em và các thủy thủ - Những con mồi mà tạm thời chúng không được phép ăn thịt. Pôtơrôva bật cười: - Em lại nghĩ rằng chúng chạy trốn là vì anh. Anh cứ bắt chúng làm hết điều này điều khác mà chúng không hiểu vì sao phải làm. Chúng đã sống như một lũ trẻ dưới sự giám sát của một bà bảo mẫu nghiêm khắc. Chúng ghét anh đấy. Nếu như chúng quay lại, em tin rằng không phải vào lúc trời tối mà vào lúc chùng ta đã ngủ say,không biết gì. - Nhưng chắc chắn là chúng ăn no rồi mới đến thăm – Tácdăng nói thêm với nụ cười vui vẻ. Đứng trên bờ đảo, Tácdăng và đám thủy thủ quay lại nhìn con tàu đang bốc cháy. Đột nhiên một tiếng nổ vang lên. Tàu Kinxây chúi mũi sâu xuống nước rồi chỉ một vài giấy sau đã biến mất khỏi mặt biển. Vì sao con tàu có tiếng nổ thứ hai? Điều đó rất dễ giải thích. Người lấi tàu nói rằng đó là tiếng nổ của lò hơi khi lửa làm lò hơi bị nứt. Thế còn tiếng nổ đầu tiên? Câu hỏi đó trừ người thủy thủ già không ai đoán nổi. Trở về hòn đảo cũ Công việc đầu tiên của những kẻ đắm tàu là tìm nước uống và dựng trại. Thoắt một cái họ đã thành những kẻ không nhà, họ sẽ phải sống trên hòn đảo vắng này chưa biết đến khi nào. Có thể hằng tuần, có thể hằng năm, Vì đã sống ở đó, Tác dăng biết rõ các nguồn nước ngọt. Chàng dẫn mọi người tới con suối gần nhất để dập tắt cơn khát. Lấy nước về dự trữ, các thuỷ thủ bắt tay vào dựng lều, chế tạo các thứ dụng cụ sinh hoạt. Trong lúc đó, Tác dăng tranh thủ vào rừng săn bắn. Không thể tin cậy được cánh thuỷ thủ Kinxây, Tác dăng phải dặn Mugămbi và cô gái da đen trốn cưới chăm nom Potorôva. Trong số những người đắm tàu, vợ chàng là người chịu nhiều giân truân, cơ cực nhất, Chuyện đắm tàu còn làm Potorôva đau khổ hơn. Bởi cái hi vọng gặp lại con trai của cô bỗng chốc tắt lụi. Suốt hai tuần lễ, mọi người dốc sức vào việc kiến tạo chỗ ở. Một hàng rào vững chắc bao bọc quanh nơi ăn ngủ. Chính giữa khu trại, mọi người dựng 1 cây cột thật cao. Thay cho lá cờ, Tác dăng dùng 1 chiếc áo sơ mi màu đỏ của người lái tàu Kinxây treo lên đỉnh cột. Cuối cùng, sau khi công việc dựng trại đã tương đối hoàn tất, Tác dăng đề xuất kế hoạch đóng thuyền. Kế hoạch đóng thuyền lập tức được mọi người xung quanh hưởng ứng. Nhưng đến khi bắt tay vào việc chưa được bao lâu thì bắt đầu liên tục xảy ra những vụ cãi lộn, xô xát. Nhiều thuỷ thủ không tin và kết quả công việc. Sự thiếu tự tin và những xích mích, thù hằn càng làm cho những khó khăn, trở ngại lâu nay thêm nặng nề, chồng chất. Mỗi ngày Tác dăng một lo lắng hơn trước về cuộc sống của Potorôva. Chàng không dám để vợ sống trong trạn một mình. Mỗi khi phải đi săn kiếm thực phẩm, chàng thường trở về thật nhanh. Thỉnh thoảng Mugămbi có đi săn thay chàng. Nhưng rõ ràng là Mugămbi không sử dụng vũ khí săn bắn một cách hiệu quả như chàng. Đám thuỷ thủ bắt đầu lảng tránh công việc đóng thuyền, Họ thường giả vờ vào rừng đi săn rồi leo lên cây nằm ngủ. Cũng suốt trong thời gian đó, Tác dăng đã nhiều lên tiếng gọi nhưng con báo Sê ta và đàn vượn của Acút không hề lộ diện. Không hiểu vì lý do gì, đàn thú có vẻ như đã di cư đi nơi khác. Vào quãng thời gian đó, ở phía bắc của hòn đảo cũng vừa xuất hiện một khu trại nhỏ. Cách khu trại không xa, một chiếc tàu gắn buồm dã chiến mang tên là Kâury đang thả neo. Mấy hôm trước, trên boong tàu Kâury mới xảy ra một vụ chém giết lẫn nhau. Boong tàu biến thành một bãi chiến trường, Hầu hết các sĩ quan và các thuỷ thủ trung thành của con tàu đã bị giết chết. Con tàu lọt vào tay một nhóm hung thủ thủ tuyệt vọng. Trong số đó nguy hiểm nhất là 2 tên cướp có tên Gút và Morơ Mômum cùng một gã người Trung Quốc có tên là Cốc Thống. Số người còn lại đều là những tên đầu trộm đuôi cướp chuyên hành nghề ở các hải cảng Nam Phi. Gút, Mômum và Cốc Thống là ba tên đầu lĩnh của nhóm côn đồ, chính ba tên đó đã tổ chức cuộc nổi loạn để chiếm đoạt số ngọc trai và đá quý trên tàu Kâury. Cốc Thống đã giết chết thuyền trưởng khi ông ta đang ngủ trong phòng. Trong lúc đó thì Mômun hô hào đồng bọn tấn công các sỹ quan trên tàu. Riêng tên Gút thì coi tất những hành động ấy là việc làm bẩn thỉu. Hắn không nhúng tay vào máu không phải vì sợ lương tâm cắn rứt mà đơn giản chỉ là vì hắn sợ. Bản tính lâu nay của Gút là thế. Mặc dù hèn nhát, nhưng hắn lại rất thích quyền lực oai phong. Hắn thích đóng vai trò kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn. Thậm chí, sau khi viên thuyền trưởng bị sát hại. Hắn đã lột bộ quân phục của ông ta, mặc vào người. Với bộ quân phục ấy, hắn muốn đồng bọn phải thừa nhận uy quyền của hắn. Cốc Thống cũng chẳng phải tay vừa. Thấy Gút mặc quần áo thuyền trưởng. Cốc Thống cũng tức điên lên, Hắn vốn không thích người khác ra lệnh cho mình và tất nhiên không bao giờ chịu phục tùng một tên thuỷ thủ nhãi nhép như Gút. Có điều là tạm thời hắn phải kiên trì, Hắn tự nhắc mình là phải hết sức tỉnh táo trong quan hệ với Gút. Bởi vì trong số những người còn lại của tàu Kâury Gút là kẻ duy nhất biết lái tàu. Không có Gút, tàu Kâury không thể rời bến đỗ, tìm đường tới một hải cảng buôn bán sầm uất nào đó nơi mà hắn hy vọng sẽ tiêu thụ hết số ngọc trai, đá quý vừa chiếm được. Sau hôm nổi loạn, bọn cướp tàu tìm được một khoảng sông có thể nhả neo an toàn. Nhưng ngay buổi chiều hôm đó, chúng trông thấy ở phía Nam hòn đảo có một làn khói đen bốc lên làm nhem nhuốc cả một mảng trời. Hoá ra đó là khói của một chiếc tàu chiến. Khi phát hiện ra điều đó, cả bọn nhìn nhau ngơ ngác. Phải chăng một hạm đội nào đó phái người đến hỏi tội chúng? Tất nhiên chẳng tên nào thích ra vành móng ngựa. Bàn bạc một lúc, cả bọn bàn bạc trốn sâu vào rừng, chờ chơ mối tai hoạ qua đi Tên Gút không muốn liều mạng lái tàu ra biển. Hắn đinh ninh là chắc chắn chiếc tàu quân đội đó đang truy tìm bọn hắn. Riêng Cốc Thống thì khẳng định rằng đó chỉ là chuyện thần hồn nát thần tính, có tật giật mình mà thôi. Bởi vì ngoài bọn chúng ra, không ai trên đời biết được có chuyện gì đã xảy ra trên tàu Kâury. Tin chắc như vậy nhưng Cốc Thống không thuyết phục được tên Gút nhút nhát. Có điều Cốc Thống không biết được ý đồ của Gút. Ý thức được tầm quan trọng của mình, người duy nhất biết điều khiển con tàu trên biển, Gút nung nấu một mưu đồ; giành bằng được số ngọc trai về mình. Đối với Gút điều quan trọng là làm cách nào để thủ tiêu được Mômum và Cốc Thống, trở thành đầu lĩnh, toàn quyền chỉ huy con tàu. Vậy thì Gút còn e ngại điều gì nữa? Thật ra, hắn đang chờ cơ hội thuận lợi. Chẳng hạn vào một buổi tối đi săn nào đó, khi gã người tàu và Mômum mải mê săn thú, hắn sẽ tẩu thoát, lẻn xuống chỗ con tàu thả neo. Khi ấy mọi việc sẽ tiếp tục theo dự kiến. Nhưng mấy lần đi săn trôi qua, Gút không thực hiẹn được ý định. Dường như Cốc Thống đã dự cảm được mối đe doạ, Cốc Thống chẳng để mắt tới chuyện săn bắn khi chưa thấy Gút bên cạnh. Một hôm, Cốc Thống rỉ tai với Mômum rằng mình rất nghi Gút có âm mưu phản bội. Mômum vừa nghe đã nổi khùng, lăm le giết Gút ngay tại chỗ. Cốc Thống vội vã can ngăn, vì thực ra Cốc Thống cũng chẳng tìm được bằng chứng về mưu đồ của Gút. Hơn nữa, Cốc Thống cũng không dám giết Gút, bởi vì số phận của cả bọn phụ thuộc vào đôi bàn tay của Gút, tốt nhất là phải cư xử với Gút thật mềm mỏng. Không nên để cho cái thằng cha Thuỵ Điển đó bất mãn. Suy tính như vậy, Cốc Thống bảo Mômum đến gặp Gút để bàn tính chuyện nhổ neo. Vừa nghe, Mômum há mồm nới tới chuyện nhổ neo, Gút lắc đầu quầy quậy, cũng giống như mấy lần trước, Gút hoàn toàn phản đối chuyện ra khơi. Gút cho rằng chiếc tàu tuần tiễu quân đội đó đang rình ở phía bờ Nam của hòn đảo, không để một tên tội phạm nào chạy thoát. Thấy Gút có vẻ lo lắng, sợ hãi, Mômum quay sang trêu chọc và khẳng định chẳng có ai biết chuyện nổi loạn trên con tàu. Không thể khẳng định như thế. Gút lắc đầu phản đối Mômum. Ông ngây thơ quá. Tôi nói với ông với tư cách của một người có học thức. Tôi hiểu mình phải làm gì, không nên làm gì trong mỗi tình huống. Còn ông thì trước sau vẫn suy nghĩ đơn giản như một người vô học, vai u thịt bắp. Này, thế ông đã nghe người ta nói về vô tuyến điện chưa? Vừa nghe Gút chê bai, Mômum chồm lên sờ tay vào chuôi dao găm. - Mày bảo ai là thằng vô học? – Mômum gầm lên... - Ấy là tôi đùa tí thôi, - Gút vội vàng đấu dịu... Trước sau chúng ta vẫn là những người bạn trung thành của nhau. Chúng ta cãi nhau làm gì, trong khi cái thằng già Cốc Thống đang âm mưu chiếm đoạt toàn bộ số ngọc trai. Tôi thề với ông là, nếu lão tìm được một người biết lái tàu, lão sẽ bỏ rơi chúng ta ngay tức khắc. Lúc nào hắn cũng tính chuyện ra khơi. Chắc chắn là hắn đang âm mưu cướp của. Thế vô tuyến điện là cái gì? Mômum cắt lời, hỏi – Vô tuyến điện thì có liên quan gì tới chuyện chúng ta đang phải ẩn náu ở đây? - Chắc chắn là có liên quan đấy. – Gút vừa trả lời vừa gãi đầu bối rối, không biết giải thích cho Mômum thế nào. – Có thể là ông cũng thấy rồi đấy. Tàu thuỷ nào cũng có một chiếc máy liên lạc mà không cần dây điện. Điện thoại không cần dây nữa, người ta gọi là vô tuyến điện. Chiếc máy ấy giúp người ở trên tàu này nói chuyện với người ở tàu khác cách xa nhau hàng chục hải lý. Khi trên tàu Kâury bắn nhau lộn xộn, có đứa đã báo tin về cuộc khởi nghĩa của chúng ta. Chiếc tàu quân đội đó có thể thu được tin tức, Người ta có thể không hề biết tên con tàu nhưng người ta biết thuỷ thủ trên tàu khởi nghĩa và các sỹ quan trên chiếc tàu đã bị giết chết. Vì vậy tôi cho rằng hiện giờ chiếc tàu quân đội đó đang tiến hành kiểm tra tất cả tàu, thuyền trên biển. Chắc chắn là chiếc tàu tuần tiễu ấy đang luẩn quẩn ở vùng cửa biển này. - Nghe Gút nói. Mômum ngồi im như pho tượng, dán mắt và nhìn mồm Gút - Ông là tên đại bịp. Đột nhiên Mômum kết luận - Làm gì có chuyện điện thoại mà lại không cần dây thép. Bịp thế nào được tôi, nếu ngày mai tàu mà không ra khơi, ông sẽ không còn thời gian mà băn khoăn về vô tuyến điện nữa đâu. Bởi vì tôi mới nghe thấy 2 thằng thuỷ thủ bàn với nhau rằng nếu ông cứ khăng khăng không chịu lái tàu, bỏ mặc chúng ở cái chốn ma thiêng nước độc này, chúng sẽ đâm chết ông - Ông hãy hỏi Cốc Thống xem có vô tuyến điện không? - Gút vẫn không chịu lùi bước. - Chắc chắn là Cốc Thống sẽ nói với ông là người ta đã dùng vô tuyến điện từ lâu rồi. Các con tàu cách nhau hàng ngàn dặm vẫn cứ hiểu nhau. Còn 2 cái thằng định giết tôi thì... ông hãy nói với chúng là nếu chúng làm điều đó, chúng cũng không thoát khỏi chốn này. Chỉ có nước ôm ngọc trai mà chìm xuống biển. Ông nên nhớ là, chỉ có tôi mới có khả năng lái con tàu biển đến được một bến cảng nào đó. Đúng thế, chỉ tôi thôi, không còn ai khác. Mômum bực bội quay về tìm Cốc Thống để hỏi về chuyện vô tuyến điện. Trái với dự đoán của Mômum, vừa nghe Mômum hỏi, Cốc Thống đã gật đầu - Đúng là có chuyện đó - Có vô tuyến điện thật? Mômum hỏi lại 1 lần nữa - Có thật. Người ta có thể dùng vô tuyến điện để trò truyện với nhau mà chẳng cần dây thép Mômum thở dài, gãi đầu bối rồi. Quỷ tha ma bắt cái vô tuyến điện ấy đi. Mômum lầm bẩm chửi rủa. Hắn chỉ muốn lên tàu, vĩnh biệt cái hòn đảo độc địa này ngay tức khắc Ước gì chúng ta kiếm được một đứa biết lái tàu. Cốc Thống thì thầm mong ước Một hôm Mômum cùng 2 gã thủy thủ khác ra khỏi trại, đi về phía Nam để săn bắn. Đang đi, chúng nghe thấy có tiếng người lao xao vọng ra từ rừng sâu. Cả 3 giật mình, dừng chân nghe ngóng. Rõ ràng đó không phải là người thuộc con tàu Kâury. Vậy mà lâu nay chúng vẫn nghĩ răng đây là 1 hòn đảo hoang, chưa có người đặt chân tới. Cả 3 đều hoang mang, sau một hồi tranh cãi. Chúng bắt đầu nghĩ vẩn vơ tới hồn ma của các sỹ quan mà chúng mới giết chết. Mômum là kẻ đầu tiên chiến thắng nỗi ám ảnh ma quỷ. Vốn là 1 kẻ táo tợn và tò mò. Mômum gọi 2 tên thuỷ thủ đồng hành đi theo hắn. Cả 3 lom khom tiến về phía có tiếng người. Tới khu rừng đốn. Cả 3 đứng dậy rồi thở phào nhẹ nhõm. Trước mắt chúng là 2 người đàn ông bằng xương bằng thịt đang ngồi dưới một gốc cây, trò chuyện om xòm. Đó chính là Xuâyđơ - người lái tàu Kinxây và Smít - thuỷ thủ trên tàu. Tao nghĩ việc đó làm được Smít ạ- Xuâyđơ nói rất quả quyết. Làm mộc chiếc thuyền độc mộc thì chẳng có gì là khó. Nếu như biển yên, gió thuận thì ta chèo khoảng 1 ngày là tới đất liền. Còn làm 1 con thuyền buồm, chở hết mọi người thì quá ư là vất vả. Cho tới bao giờ mới xong. Bọn chúng nó cũng ớn đến tận cổ rồi. Suốt ngày cứ hùng hục đẽo từ sáng tới tận đêm như những con lừa, Tội quái gì cứ phải phục vụ cái thằng người Anh đấy. Đóng thuyền buồm là việc của nó, chẳng phải việc của chúng ta. Tóm lại là ta phải tự cứu lấy mình, tao nghĩ thế. Đột nhiên Xuâyđơ im bặt. Hắng quay sang nhìn xem Smít có phản ứng gì không? Ngay sau đó hắn lại tiếp tục. - Ước gì ta lôi được người đàn bà đó theo mình. Để em lại chốn này thì là ta có tội. Đúng là Chúa đã quên, không để mắt tới hòn đảo này. Smít giương mắt nhìn Xuâyđơ rồi bật cười: - Chuyện ấy là khó đấy, đừng vội thế, nếu tao giúp mày thì tao sẽ được cái gì? Còn được gì nữa? Tiền. Nếu ta đem được nó về Châu Âu, trở về với thế giới văn minh, nó sẽ phải trả tiền. Xuâyđơ giải thích. Chỉ cần 2 thằng nữa giúp tao, tao sẽ làm được việc đó. Khi nhận tiền, tao sẽ chia đôi với mày. Tao đã chán ngấy cảnh sống này rồi, Càng thoát nhanh càng tốt, mày nghĩ sao? Đồng ý, Smít trả lời. Nhưng 1 mình tao thì không làm được. Bởi vì ngoài mày ra, chẳng còn ai biết lái tàu. Tao sẵn sàng theo mày. Từ trong bụi rậm, Mômum giỏng tai nghe ngóng. Vốn là người lang thang, du thủ du thực. Mômum hiểu ngay những vấn đề mà Xuâyđơ và Smít bàn bạc. Mômum đứng dậy, đi thẳng tới chỗ gốc cây 2 người nói chuyện. Thấy Mômum lù lù xuất hiện, 2 gã thủy thủ của tàu Kinxây trố mắt ra nhìn/ Trước mặt chúng, Mômum hiện ra như 1 bóng ma. Xuâyđơ vội thò tay vào khẩu súng ngắn bên hông. Trông thấy thế Mômum vội xoè 2 bàn tay. có ý muốn lộ thiện chí hoà bình. Tôi đến như một người bạn tốt của cá ông thôi. Mômum lên tiếng ngăn chặn. Tôi đã nghe trộm 2 ông nói chuyện. Các ông đừng sợ, Tôi sẽ không làm lộ chuyện của 2 ông, Nếu các ông giúp tôi, tôi có thể giúp trở lại các ông. Ngay sau đó Mômum quay sang nói với Xuâyđơ. Các ông biết lái tàu, nhưng lại chẳng có chiếc tàu nào cả. Nếu các ông theo chúng tôi, thì chẳng cần phải hỏi gì nữa, chúng tôi có tàu nhưng chẳng ai biết lái. Nếu các ông đi với chúng tôi, các ông có thể làm mọi chuyện tuỳ ý. Có điều là đi đến bến cảng nào thì sau nsày tôi sẽ nói tên. Còn người đàn bà ấy thì các ông cứ việc mang theo. Thậm chí chúng tôi sẽ chẳng đả dộng gì tới người đẹp. Đó là 1 món hàng rất đắt của các ông phải không? Xuâyđơ thấy Mômum nói có lý nên chẳng hỏi gì thêm. Sau đó Mômum đề nghị 2 đứa đến bàn thêm với thằng Cốc Thống. Xuâyđơ và Smít đồng ý đi theo Mômum. Tới gần trại, Mômum bảo 2 gã dừng lại để mình vào tìm Cốc Thống. Mômum nháy mắt ra hiệu cho đồng bọn của mình giám sát 2 vị khách. Trong phút chốc, Xuâyđơ và Smít rơi vào tình huống của 2 tên tù binh tình nguyện. Một lúc sau, Mômum quay ra cùng Cốc Thống, Dọc đường Cốc Thống đã được thông báo dặn dò mọi việc rất cặn kẽ. Vốn là 1 kẻ rất đa nghi nhưng chỉ một lát sau, Cốc Thống đã nhận ra rằng, vì lợi ích chung, Smít và Xuâyđơ có thể hợp tác với hắn để hành động 1 cách vô tư. Hắn không còn nghi ngờ gì nữa. Thậm chí hắn còn nảy ra ý định tìm một cách nào đấy để 2 tên thuỷ thủ lạ mặt phải tuân theo mọi ý muốn của mình. Sau khi chia tay với 2 tên đồng minh mới của tàu Kâury. Xuâyđơ và Smít quay trở về trại với tâm trạng nhẹ nhõm. Vậy là cuối cùng chúng đã có hy vọng thoát khỏi hòn đảo dữ/ Một lúc nào đó không xa. Chúng sẽ thanh thản bước lên tàu, ra khơi. Từ giờ, chúng sẽ không phải bận tâm tới việc đóng thuyền, một công việc mệt mỏi, nhục nhac mà chẳng có gì hứa hẹn tới được đất liền. Chúng chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là bắt cóc người đàn bà. Mà tốt nhất là bắt cả 2. Bởi vì từ lúc Mômum biết còn có thêm 1 người đàn bà da đen trốn cưới. Mômum cứ nài củ chúng bắt cóc bằng được. Chờ cho Xuâyđơ và Smít đi khuất. Cốc Thống và Mômum quay về trai. 2 đứa mỉm cười với nhau rất hài lòng. Từ nay chúng sẽ chẳng cần tới Gút nữa. Thật là 1 thằng Thuỵ Điển ranh ma, vừa nhát gan vừa bướng bỉnh. 2 đứa rủ nhau đi thẳng tới lều của Gút. Vào giờ này thì chắc chắn Gút đang nằm ngủ thẳng rốn. Trước khi bướ vào lều, Mômum cạo nhẹ ngón tay và lưỡi dao găm để kiểm tra độ sắc. Nhưng Mômum và Cốc Thống đã chậm chân, từ lúc thấy có 1 người đàn ông lạ mặt tới trại, Gút đã để mắt theo dõi. Khi Cốc Thống và Mômum bước vào lều Gút đã ngồi thu mình trong bụi rậm và quan sát, Hắn tin chắc rằng 2 con thú mình người ấy đang đến kết liễu đời hắn. Trong đám thuỷ thủ nổi loạn kiểu này, nếu như là người duy nhất biết lái tàu thì hắn có thể hoàn toàn yên tâm về tính mạng. Nhưng từ lúc 2 thuỷ thủ lạ mặt xuất hiện. Trông thấy vẻ mặt hớn hở của Cốc Thống, hắn biết rằng địa vị của hắn đã hoàn toàn thay đổi. Chờ cho 2 tên hung thủ chán nản bỏ đi. Gút rón rén chui ra khỏi chỗ ẩn náu, chuồn ra bờ sông, chạy tuốt vào rừng rậm. Hắn rất sợ thú rừng, ngay cả tiếng cú rúc cũng làm hắn rợn tóc gáy. Nhưng hắn còn sợ Cốc Thống và Mômum hơn nhiều. Dù sao trong rừng già hắn còn có thể gặp may, chứ lọt vào tay 2 tên đao phủ ấy thì có nghĩa là cuộc đời đã chấm hết. Chính hắn đã tận mắt chứng kiến Cốc Thống bóp cổ 1 người chết lè lưỡi. Những ngón tay lạnh lẽo của Cốc Thống còn đáng sợ hơn chiếc dao găm của Mômum, Vậy thì chạy vào rừng sâu lúc này đâu phải hạ sách. Luật của rừng già Sau bao lần thuyết phục, hứa hẹn ban thưởng. Tác dăng đã làm cho các thuỷ thủ tàu Kinxây yên tâm làm việc. Tất nhiên công việc nặng nhọc nhất cuối cùng vẫn đổ vào đôi vai của Tác dăng và chàng da đen Mugămbi. Ít lâu sau trong khu trại của họ, một chiếc khung thuyền vững chãi đã nổi bật trên mặt đất. Tác dăng đã bắt đầu tíng tới việc dự trữ thực phẩm cho chuyến bơi dài ngày. Một hôm, Xuâyđơ, người lái tàu Kinxây cứ phàn nàn cáu kỉnh vì một chuyện gì đó. Một lát sau, hắn bỏ dở công việc, đi vào rừng. Nối gót sau hắn là Smít, Xuâyđơ nói rằng hắn rất mệt, cần phải nghỉ ngơi, hồi sức. Nểu hắn là người duy nhất biết lái tàu và cũng không muốn để xảy ra chuyện lôi thôi. Tác dăng buộc phải bằng lòng. Ngày hôm sau Xuâyđơ và Smít đã quay về, xúm tay cùng mọi người tiếp tục hoàn thành công việc ghép ván thuyền. Thấy thế Tácdăng rất mừng. Cuối cùng thì chúng cũng biết rằng không thể sống xa mọi người và chúng co vai trò gì trong tập thể. Với tâm trạng thư thái, Tác dăng đã đi sâu vào rừng bắt nai. Xuâyđơ và Smít khi trở về đã nói cho chàng biết khu vực sinh sống của đàn nai. Nghe theo lời chúng, chàng lên đường đi về phía Tây Nam. Chẳng bao lâu sau chàng đã tới khu vực cần săn bắn. Cũng trong quãng thời gian Tácdăng bỏ đi săn, ở phía Bắc khu trại có mấy người đàn ông vừa đi vừa lấm lét nhìn quanh. Chúng bước đi lặng lẽ, cố tránh những khoảng rừng quang đãng. Bộ dạng của chúng đúng là bộ dạng của những kẻ đang theo đuổi một kế hoạch gì đó chẳng có gì trong sạch. Chúng đinh ninh rằng chẳng có ai trông thấy mình. Nhưng thật ra, khi chúng mới đi được vài chục mét đã có một người đàn ông bám theo gót chúng từng bước. Khuôn mặt của người đàn ông này co giật liên tục. Thật khó mà biết anh ta đang căm thù hay sợ hãi. Người đó chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Gút - Người lái tàu trốn chạy. Tại sao Cốc Thống, Mômum và đồng bọn của chúng lại đi về hướng Nam, Gút vò đầu băn khoăn. Cần phải theo dõi xem chúng định làm gì? Gút quyết định, Nếu không nguy hiểm, Gút sẽ phá, không cho chúng thực hiện được ý định. Thật ra lúc đầu Gút nghĩ rằng Cốc Thống và Mômum đang lùng sục mình. Nhưng chỉ lát sau Gút đã đi đến kết luận: Cốc Thống và Mômum đang theo đuổi 1 mục đích khác, không liên quan tới Gút. Từ xưa tới nay. Mômum và gã người Trung Quốc đó chỉ giết những người mà chúng thấy có vẻ có tiền của trong người. Còn Gút lúc này thì chẳng có cái gì mang theo. Tiền cũng không mà ngọc trai cũng không. Rõ ràng Gút không phải là đối tượng quan tâm của chúng. Nhóm người do Cốc Thống dẫn đầu đã dừng lại rồi nấp vào bụi rậm. Phía sau Gút cũng nhẹ nhàng leo lên một ngọn cây cao để ẩn náu và quan sát cho rõ. Vừa ngồi yên vị trên cây, Gút đã trông thấy 1 người lạ mặt leo theo lối mòn, đi về phía bọn Cốc Thống. Trông thấy có người đi tới, Cốc Thống và Mômum bước ra đón tiếp. Gút không biết chúng trao đổi với nhau về chuyện gì, chỉ thấy chúng thì thào với bộ mặt rất nghiêm trọng. Một lát sau, người lạ mặt bỏ đi. Người lạ mặt đó chính là Xuâyđơ. Xuâyđơ quay về khu trại của Tác dăng và tìm Mugămbi - Nhanh lên Mugămbi: Xuâyđơ làm ra vẻ hoảng hốt, lên tiếng gọi. Đàn vượn của ông đang vây bắt Smít. Nếu ông không đến cứu, chúng sẽ đập chết Smít. Ông phải gọi chúng trở lại, đừng để chúng hành hung. Ông có thể kéo Giôn và Sunivan đi theo để đề phòng bất trắc. Đi về phía Nam, khoảng 1 dặm. Tôi ở nhà thôi, Mệt đứt hơi rồi, tôi không còn sức dẫn ông trở lại nữa. Nghe Xuâyđơ thúc dục, Mugămbi rất do dự. Anh ta đang có nhiệm vụ trông nom 2 người phụ nữ. Anh chưa biết xử trí thế nào thì Potorova vụt chạy ra. Nghe tin có thuỷ thủ bị đàn vượn vây bắt. Potorova giục Mugămbi đi cứu ngay - Đừng để phí thời gian suy nghĩ. Potorova kêu lên, Anh đừng lo cho tôi, chúng tôi chẳng sao đâu. Đã có ông Xuâyđơ ở lại với chúng tôi rồi. Nhanh lên Mugambi. Tiếng Potorova vọng tới bụi rậm ẩn nấp. Nghe tiếng cô, Smít co cổ cười. Mắt dù rất nghi ngờ về kết quả việc làm của mình nhưng nghe lời Potorva, Mugambi vẫn phải lên đường. Nối gót Mugambi là Giôn và Sunivan, khi cả 3 đã khuất hẳn trong rừng sâu, Xuâyđơ đứng dậy nhìn đăm đăm về hướng Bắc. Chỉ nửa phút sau, ở bìa rừng non đã xuất hiện khuôn mặt của Cốc Thống. Trông thấy hắn, Xuâyđơ chạy ra đón Gian Potorova và cô gái da đen vẫn thản nhiên ngồi ở cửa ra vào khu trại, chẳng hề để ý tới những tiếng sột soạt đáng nghi quanh các bụi cây. Chỉ một lát sau hai người đã bị vây bọc bởi 1 tốp đàn ông lạ mặt. - Đứng dậy, đi theo bọn ta. Cốc Thống lớn tiếng quát gọi 2 người đàn bà. Potorova bật dậy đứng, nhìn Xuâyđơ bằng đôi mắt ngạc nhiên, dò hỏi. Trái với mong đợi của cô, Xuâyđơ không hành động gì để chống lại tốp người lạ, Hắn chỉ lùi ra xa rồi tủm tỉm cười. Smít đã đứng bên cạnh. Khi ấy Potorova mới giật mình hiểu ra rằng mình đã trở thành nạn nhân của vụ mưu phản. - Thế này nghĩa là thế nào? Potorova hỏi tên lái tàu. - Có nghĩa là chúng tôi đã kiếm được 1 con tàu và có thể rời đảo. Một thuỷ thủ lên tiếng trả lời. - Thế tại sao các anh lại bảo Mugambi vào rừng? - Chúng tôi không cần hắn. Lên tàu ra khơi chỉ có tôi, cô, Smít và... thêm con bé da đen này nữa thôi - Đi thôi. Cốc Thống ra lệnh lần nữa rồi chụp lấy vai Potorova đẩy đi. Một gã thuỷ thủ người Moro túm tay cố cái da đen lôi đi. Cô gái há hốc mồm định thét lên thì lập tức bị tống 1 nắm giẻ vào tận họng. Lúc này Mugam bi vẫn mải miết chạy về hướng Nam. Hai người thuỷ thủ cũng bám theo gót Mugambi từng bước. Cả 3 vừa chạy vừa quan sát xung quanh. Không hề thấy dấu vết gì của Smít và đàn vượn để lại. Mugambi dừng chân, lên tiếng gọi thật to. Anh bắt chước giọng Tác dăng để gọi đàn vượn. Đáp lại tiếng gọi thống thiết của anh chỉ có tiếng lá rừng xì xào. Mugambi kiên nhẫn đi thêm nửa dặm nữa rồi lại lên tiếng gọi bốn phía. Vẫn không có tiếng đáp lại. Mugambi giật mình hiểu ra là mình có thể bị đánh lừa. Như 1 con thú bị săn đuổi, Mugambi cuống cuồng chạy trở về trại. Về tới nơi anh chàng tội nghiệp này chẳng thấy 2 người đàn bà đâu cả. Gã lái tàu cũng biến đâu mất. Không biết trút nỗi uất ức vào đâu. Mugambi quay sang đấm đá 2 người thuỷ thủ cùng chạy với mình. Anh ta nghĩ rằng chính 2 thuỷ thủ là những kẻ đồng loã, tiếp tay cho bọn lừa đảo. 2 thuỷ thủ vô tội nọ cứ ôm đầu mà thề rằng mình không hề biết chuyện đó. Trong lúc cả 3 đang bối rồi, chưa biết cần phải làm gì thì từ lùm cây trước mặt. Tác dăng đã nhảy xuống tiến về phía họ. Cặp mắt sáng lấp lánh của Tác dăng đã phát hiện ngay ra trong trại có chuyện bất thường. Vừa nghe Mugambi kêu lên, đôi lông mày của Tác dăng đã dớn ngược. Đôi môi chàng run lên vì giận dữ. Xuâyđơ định làm gì mà kéo theo cả Potorova? Không có thuyền thì sao thoát khỏi hòn đảo này? Tại sao gã lái tàu này lại hành động 1 cách mù quáng như vậy? Tác dăng vẫn băn khoăn suy tính. Xuâyđơ không đủ gan làm việc đó nếu như hắn biết rằng không thể thoát khỏi hòn đảo. Nhưng vì sao hắn còn bắt theo cả cô gái da đen? Như vậy còn có một kẻ khác cùng chung tham vọng với hắn. - Chúng ta lên đường. Tác dăng nói với Mugambi. Chỉ còn cách duy nhất là tìm ngay dấu vết. Tác dăng và Mugambi chưa kịp bước thì từ trong rừng sâu nhô ra một bóng người đàn ông lạ mặt. Người đàn ông có dáng người cao ráo nhưng lại vụng về, chậm chạp. Tác dăng và Mugambi không ngờ trên hòn đảo hoang dã này lại có thêm 1 người da trắng tị nạn này nữa. Người đàn ông lạ mặt bình tĩnh tiến tới gần cổng trại. Đó chính là Gút. - Chúng nó bắt cóc người đàn bà của các ông rồi. Gút lên tiếng thông báo. Nếu các ông muốn tìm lại thì hãy theo tôi. Nếu không nhanh thì tàu Kâury sẽ nhổ neo. - Ông là ai? Tác dăng hỏi. Ông biết gì về vụ bắt cóc vợ tôi? - Tôi đã trông thấy 1 tên Trung Quốc và 1 thằng Moro thoả thuận với 2 thuỷ thủ của các ông, chúng nó đã tìm tôi, định giết tôi. Bây giờ tôi cũng muốn trả thù, hãy đi theo tôi. Gút dẫn 4 người của tàu Kinxây chạy xuyên rừng về hướng Bắc. Liệu họ có chậm chân không? Chạy ngang, chạy tắt, chạy đến đứt hơi, họ đã đứng sững nhìn con tàu mà người lạ mặt nhắc tên. Nhưng sự may mắn đã bắt đầu quay lưng lại với Tác dăng: Tàu Kâury đã bắt đầu nhổ neo, đang từ từ xoay mũi rời dòng sông, bơi ra biển rộng. Phải làm gì bây giờ? Khoang ngực khoẻ khoắn của Tác dăng phập phồng vì những hơi thở đau đớn và thất vọng. Chàng có cảm giác như bị 1 nhát đòn cuối cùng lẩmc cơ thể chết lịm. Nếu như trong suốt cuộc đơi chàng có lần nào chàng phải sống những giây phút hoàn toàn tuyệt vọng thì giây phút tuyệt vọng đấy là đây. Chàng nhìn theo con tàu đang chở vợ chàng lướt trên mặt biển bao la, dập dờn sóng trắng, đi về nơi nào chưa biết? Tácdăng nín nặng nhìn con tàu lùi xa dần. Tàu đã bắt đầu đổi hướng. xoay mũi về phương Đông để trành một mỏm núi rồi biến mất về nới vô định. Tác dăng tự nhiên thấy 2 chân mình như bị rút hết xương ống. Chàng khuỵ gối, đưa 2 tay ôm mặt. Khi 5 người đàn ông quay về đến trại thì trời đã tối sẫm, đêm tốt trên đảo như nóng hơn và ngột ngạt hơn những ngày qua. Trên các lùm cây, lá rừng im phăng phắc. Không một ngọn gió, không một tiếng rì rào. Biển như một mặt gương phẳng lặng bao la, không hề gợn lấy 1 con sóng nhỏ. Có lẽ chưa bao giờ Tác dăng thấy Đại Tây Dương im lặng 1 cách tàn nhẫn đến thế. Đứng trên bở đảo, mắt chàng như đã bắt rễ vào mặt biển đêm. Biển không có sóng, nhưng trong lòng chàng nỗi thất vọng u buồn cứ dâng lên từng đợt. Một lúc sau, từ một nơi xa xôi nào đó trong cánh rừng khu trại vọng lên tiếng kếu than vãn của một con báo. Trong tiếng kêu than của con thú có một âm điệu gì đó quen thuộc. Tác dăng giật mình. Chàng quay đầu lên tiếng kêu đáp lại. Chỉ một lát sau, trong bóng tối mập mờ của bờ biển đã hiện ra cái cơ thể vằn vện của chú báo Sêta. Mặt trăng đã khuất trong mây nhưng bầu trời vẫn sáng bởi hàng ngàn vì sao. Con mãnh thú tiến đến lại gần Tác dăng. Mặc dù chia tay đàn thú của mình đã khá lâu rồi, nhưng nghe tiếng kêu lè nhè có vẻ hài lòng của Sêta. Tác dăng biết rằng con thú vẫn còn nhớ chàng. Vừa được vuốt ve mấy cái vào lưng, con báo uể oải ngồi sụp xuống. Tựa hông và chân ông chủ rồi dương mắt lên nhìn bầu trời. Đột nhiên con báo chồm dậy. Có chuyện gì bất thường? Nó vẫn nhô đầu lên cao, có vẻ như nghe ngóng rất căng thẳng rồi gầm lên 1 tiếng. Tiếng gầm đột ngột làm cho mấy người đang ngủ cạnh đó giật mình thức giấc. Tất cả nhổm dậy, chạy lại chỗ Tác dăng. Chỉ riêng Gút, người lái tàu giật lùi trở lại vì lần đầu tiên trông thấy báo Sêta. - Nhìn kìa, Tác dăng kêu lên: Có ánh đèn, đèn tàu. Chắc là tàu Kâury. Nó không đi được vì lặng gió. Chúng ta phải bơi ra tàu. Có thể đến được bằng thuyền độc mộc Nghe Tácdăng kêu gọi nhưng Gút lắc đầu phản đối. - Chúng nó rất nhiều súng ống, Gút nhắc nhở. Chúng ta không thể chiếm được tàu đâu. Ta chỉ có 5 người. - Sáu đấy, Tác dăng trả lời và chỉ tay vào báo Sêta. Khoảng nửa giờ sau nữa, chúng ta sẽ đông hơn, Riêng Sêta phải bằng 20 người đàn ông. Những chiến sỹ mà tôi dẫn về sẽ bổ sung thêm lực lượng. Ta sẽ mạnh bằng hằng trăm người. Tác dăng chạy thẳng vào rừng. Chàng rướn cổ lên tiếng kêu ghê rợn chẳng khác gì tiếng kêu của một con khỉ độc. Ngay lập tức có tiếng đáp vọng lại. Gút thấy ớn lạnh cả cột sống. Chả biết rồi số phận mình được định đoạt sao đây? Liệu Cốc Thống và Mômum có đáng sợ hơn cái thằng cha khổng lồ da trắng này không? Hắn ta vuốt ve con báo như 1 con mèo, mà lại còn biết cả tiếng khỉ nữa. Chỉ một lát sau, đàn vượn của Acút đã xuất hiện. Cây cối rung lên ào ào, Đàn vượn đen làm cho bờ biển như tối hơn. Dưới sự chỉ dẫn của Tác dăng, đàn vượn đạp cỏ mởi lối kéo thuyền. Trong khi đó, cánh đàn ông hì hục đẩy con thuyền nặng nề khỏi vị trí. Gút vẫn cố thuyết phục Tác dăng và mọi người nhưng chẳng ai thèm nghe. Cuối cùng chiếng thuyền đã được hạ thuỷ. Bốn người đàn ông cầm chèo. Mấy con vượn đực siêng năng nhất cũng hăng hái cầm chèo, bắt chước các thuỷ thủ. Con thuyền từ từ rời bờ đảo, hướng thẳng tới phía có ánh đèn. Trong lúc đó thì có chuyện gì đã xảy ra trên tàu không? Khi đó người gác tàu đã ngủ say như chết. Những tên bắt cóc đã tống Potorova và một căn buồng. Rất may là sau vài giây sục sạo. Potorova tìm thấy một khẩu súng ngắn trong ngăn kéo bàn viết. Có khẩu súng trong tay, cô đã không chế được Xuâyđơ, buộc hắn không dám mon mon lại gần, trong khi đó, cô gái da đen vẫn ôm ngực, ngồi thu mình trong góc phòng, cố gắng bỏ ngoài tai lời gạ gẫm của 1 tên thuỷ thủ. Đột nhiên trên boong tàu vang lên một tiếng thét. Sau đó là một tiếng súng nổ. Trong giây lát, boong tàu náo loạn tiếng chân người. Thuỷ thủ tàu Kâury, kẻ cầm dao găm, kẻ cầm súng ngắn, kẻ cầm mái chèo chạy hết lên mặt boong. Nhưng tất cả dường như đã quá muộn. Tác dăng và các chiến hữu của mình đã hoàn toàn làm chủ mặt boong. Đàn thú dữ lập tức tấn công, biến những con sói biển thành những con cừu nhút nhát. Những tên có súng trong tay may mắn chỉ bắn được 1 đến 2 phát là phải cuống cuồng chạy tìm nơi ẩn nấp. Sau bao ngày thoát khỏi sự quản thúc của Tác dăng, đàn thú đã trở nên hung hãn, không còn biết ngần ngại trước máu me và xác chết. Kẻ nào vô phúc rơi vào tay chúng, lập tức bị chúng cắn xé như một đống rẻ rách. Sêta là con thú điên dại chưa từng thấy. Tả xung hữu đột, Sêta quật ngã hết thuỷ thủ này đến thuỷ thủ khác. Một lúc sau Sêta trông thấy Cốc Thống đang chạy vào căn buồng của mình. Cùng với tiếng thét giận giữ, Sêta buông nạn nhân dưới chân, đuổi theo Cốc Thống. Gã ta vừa chạm tay vaà cánh cửa thì Sê ta cũng bập hai bộ vuốt sắc nhọn vào lưng gã. Trong chớp mắt, cổ họng Cốc Thống đã nằm lọt giữa hàm răng thú. Báo Sêta đã đánh dấu chấm hết cho cuộc đời Cốc Thống. Sau khi tiếng súng ngớt dần trên boong tàu. một căn buồng dưới hầm tàu bị đạp tung 2 cánh cửa. Ngưỡng cửa buồng hiện lên thân hình đồ sộ và trần trụi của chàng lực sỹ nước Anh. Bằng một cú nhảy nhanh như con báo. Tác dăng chộp lấy cổ Xuâyđơ bằng đôi bàn tay cứng như thép. Gã thuỷ thủ cố gắng gỡ tay Tác dăng nhưng bộ kìm sắt trên cổ hắn ngày càng xiết chặt. Potorova buông súng, chạy tới túm lấy tay Tác dăng với hy vọng ngăn chặn một cái chết mà theo cô là bẩn thỉu và không cần thiết. Nhưng Tác dăng lắc đầu, trừng mắt nhìn vợ: - Không. Tác dăng kêu lên, Nếu em lại tha cho nó lần nữa. Cả anh lẫn em sẽ tiếp tục chịu những hậu quả không lường trước được, phải thế này thì nói mới không còn làm hại ai được nữa. Vừa dứt lời, Tác dăng đã nghiến răng, xiết chặt các ngón tay vào cổ Xuâyđơ rồi nâng bổng hắn lên khỏi mặt đất. Xuâyđơ chới với, giãy dụa mấy cái rồi ngoẹo cổ sang bên, bất động. Chàng liền phủi tay lấy lệ rồi chạy lên mặt boong. Chạy theo lưng chàng là Potorova và cô gái da đen. Cuộc chiến trên boong tàu đã đến hồi kết thúc. Smít, Mômun và hai tên thuỷ thủ người Moro vẫn còn sống sót, bởi vì chúng kịp âẩ náu trong gian buồn dành cho tập thể thuỷ thủ. Cả bọn chúi trong góc buồng, run như cầy sấy. Tác dăng nhìn vào buồng qua kẽ cửa quan sát. Chàng phì cười, bỏ đi. Chàng thấy không cần vội vàng làm gì. Chờ cho mặt trời lên, Tác dăng mới gọi đám tù bình ra khỏi buồng rồi ra lệnh cho chúng bắt tay vào dọn dẹp con tàu. Mặc dù rất ghê sợ nhưng chúng vẫn không còn lựa chọn nào khác. Boong tàu loang lổ vết máu và rải rác những thi thể rách rưới. Buổi sáng hôm đó gió rất thuận. Tàu Kâury căng buồm quay lại đảo. Tác dăng cần quay lại đảo để bắt Gút lên tàu và tạm biệt đàn thú. Báo Sêta và đàn vượn Acút dường như chỉ chờ có thế. Tàu vừa vào gần bờ, chúng đã nhảy bổ xuống, chạy mất hút vào rừng sâu. Tất nhiên chúng không biết rằng Tác dăng trả chúng về rừng và cuộc chia tay sẽ không có ngày gặp lại. Vốn là con vượn thông minh nhất đàn, Acút là con thú duy nhất linh cảm được cuộc chia tay quan trọng của Tác dăng. Nó cứ đứng trên bờ nhìn Tác dăng trên con thuyền bơi trở lại tàu. Tác dăng cũng cảm thấy bùi ngùi. Trên boong tàu, chàng cầm tay Potorova nhìn trở lại bờ đảo. Hai người nhìn mãi, cho tới khi bóng dáng đơn độc của con vượn thuỷ chung khuất dần dưới những con sóng trập trùng của Đại Tây Dương. Ba ngày sau, tàu Kâury gặp chiếc thuyền Sâuơt. Nhờ chiếc thuyền này. Tác dăng liên lạc được với Luân Đôn. Qua điện tín, vợ chồng Tác dăng ôm nhau sung sướng đến nghẹn ngào. Hoá ra đứa con trai yêu dầu của họ vẫn khoẻ mạnh trong dinh thự dòng họ Grâyxtâu. Họ bắt đầu vỡ lẽ mọi chuyện dấn tới cuộc phiêu lưu tìm kiếm bé Giếch của mình. Vì sợ giữa thanh thiên bạch nhật, người ta dễ phát hiện thấy, Rôcốp không dám đưa ngay đứa bé lên tàu Kinxây. Hắn gửi đứa bé trong câu lạc bộ các nhà thám tử và định tới khi trời tối sẽ đưa ra tàu. Nhưng bạn hắn – Páplôvich lâu nay vốn là kẻ tráo trở. Khao khát một khoản tiền chuộc đứa bé. Paplôvich đã tiết lộ cho mụ chủ câu lạc bộ biết nguồn gốc của đứa trẻ. Khi biết có món hời, mụ chủ hứa sẽ chăm sóc cho đứa trẻ cẩn thận. Còn Páplôvích thì tính rằng nếu Rôcốp có biết được mưu đồ của mình thì cũng là sự đã rồi, Rôcốp sẽ không làm gì được nữa. Thấy có đứa trẻ trên tàu, Rôcốp chắc mẩm đó là con trai Tác dăng. Tàu Kinxây nhổ neo. Vài ngày sau, mụ chủ câu lạc bộ thám tử không chịu được nữa. Dòng họ Grâyxtâu nổi tiếng giàu sang. Mụ không thể chờ Paplovich trở về. Khao khát món tiền thưởng lớn, mụ tiến hành liên lạc với viên luật sư đại diện của dòng họ Grâyxtâu để bàn bạc về việc trả lại đứa bé. Exmêranda - người nhũ mẫu da đen đã tới câu lạc bộ để xác nhận xem đứa bé có thực sự là con trai của vợ chồng Grâyxtâu hay không? Kết quả, người chủ câu lạc bộ nhận được 1 khoản tiền lớn và mười ngày sau vụ bắt cóc. Giếch. chàng huân tước Grâytâu tương lai đã trở lại dinh thự của mình. Thế là một âm mưu đen tối, có lẽ là âm mưu bẩn thỉu nhất của Rôcốp đã bị phá bỏ do sự phản bội của chính thằng bạn thân nhất và duy nhất của Rôcốp. Cái chết của Rôcốp làm vợ chồng huân tước Grâyxtâu trút được một mối đe doạ. Mặc dùg 2 vợ chồng chưa biết rõ số phận Paplovic, nhưng ít nhất họ cũng có thể đoán rằng Paplovic không thể thoát khỏi hàm răng của mãnh thú. rằng sớm hay muộn, tên tội phạm đó cũng nối gót hắn về chầu Thượng Đế Vào một ngày đẹp trời, trong dinh thự dòng họ Grâyxtâu diễn ra một lễ ăn mừng náo nhiệt. Những người phục vụ nổ súng chào mừng 2 vợ chồng. Tác dăng từ cầu tầu Sâuơt đặt chân lên mảnh đất Anh Quốc. Bước sau vợ chồng Tác dăng là Mugambi và cô gái da đen- người mà Mugambi tìm thâấ trong chiếc thuyền độc mộc ven sông. Cô gái trốn cưới đó nói rằng cô không thích sống ở nước Anh, nhưng cũng không muốn quay về bộ lạc – nơi mà cô sẽ bị cưỡng bức lấy một người đàn ông thô lỗ. Trước tình thế khó xử ấy, Tác dăng suy nghĩ một lát rồi đề xuất một phương án hết sức hợp lý, hợp tình: Mugambi và cô gái có thể đến cai quản một vùng đất ở Oadiri hộ cho Tác dăng. Hai người có thể đi đến đó bất cứ lúc nào và có thể ở đó tuỳ theo ý mình. Oadiri - mảnh đất mến thương mà Tác dăng đã gắn bó một thời. Biết đâu trên cái mảnh đất mến khách, hữu tình đó, đôi trai gái da đen sẽ tìm được một cuộc sống tràn trề tình yêu, một cuộc sống thanh bình và thơ mộng. Điều đó thì tạm thời chúng ta chưa biết được.