Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

    
ột cuộc phỏng vấn hiếm hoi và cởi mở với Đức Đạt Lai Lạt Ma và Nhà xuất bản và biên tập viên điều hành của tạp chí DSA (phòng vệ và cảnh báo an ninh), ngài đã nói về chiều dài bao quát đối với tình trạng của Tây Tạng và nó tiến triển như thế nào qua năm tháng, cũng như những trạng huống khả dĩ cho những sự phát triển tương lai. Lòng bi mẫn vô hạn và cảm nhận sâu xa của ngài đối với quê hương và đồng bào của ngài hiện hữu thật rõ ràng trong cuộc phỏng vấn rộng rãi này.

 
DSA: Đang có những báo cáo đáng lo âu về những tu sĩ Tây Tạng đã tự thiêu phản kháng lại sự tàn bạo của Bắc Kinh. Tình trạng hiện tại ra sao ở Tây Tạng và ngài nghĩ nó sẽ được hướng theo cách nào?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Những sự kiện mới đây thật rất đáng buồn. Tuy nhiên chúng là triệu chứng của tất cả những gì mà Bắc Kinh đã làm ở Tây Tạng trong hơn sáu mươi năm qua. Chính sách của Bắc Kinh dao động giữa những thời điểm khoan dung tiếp theo bằng sự kiểm soát và đàn áp tàn nhẫn. Sự tàn bạo đặc biệt tệ hại ở những vùng Kham và Amdo. Trung Cộng xâm chiếm năm 1949 - 50. Từ 1956 về sau đã có một sự đàn áp quân sự và gia tăng cường độ quan trọng. Hàng nghìn người bị bắt giam, nhiều người bị tra tấn và bị giết. Thế hệ ấy gần như đã qua. Trong những năm 1960 có cuộc Cách Mạng Văn Hóa như đã thấy một làn sóng trấn áp mới mà trong ấy các tu viện bị tàn phá và bôi nhọ. Sau cuộc Cách Mạng Văn Hóa - mọi thứ đã trở nên tương đối khá hơn một chút.
Hồ Diệu Bang thực hiện một chính sách mềm dẽo. Suy nghĩ của ông ta thực tiển hơn. Ông thực tế đã xin lỗi những lỗi lầm quá khứ và ngay cả nói rằng họ muốn giảm thiểu dân số người Hán ở Tây Tạng. Tuy nhiên trong giữa những năm 1980, ông Hồ Diệu Bang bị thất sủng. Chen Kuiyan một Bí thư Đảng Ủy cứng rắn đã đến khu tự trị Tây Tạng và một cuộc bán cách mạng văn hóa đã được bắt đầu. Điều này gieo hạt giống cho khủng hoảng năm 2008. Rồi thì đến một bí thư khác Zang Qingli. Ông này tàn bạo và công khai đề cập rằng, "những ai cần bị bắt và bỏ tù sẽ bị bỏ tù. Những ai cần giết, sẽ bị giết." Họ đã giết hại một cách tàn nhẫn những người tị nạn cố gắng vượt thoát đến Ấn Độ và Nepal. Một nhà leo núi người Romani đã quay cảnh lính biên phòng Trung Cộng bắn người tị nạn không vũ khí. Việc học tập những kinh luận cổ truyền của Tây Tạng bị cấm chỉ, chi những sách phiên dịch từ sách vở Trung Hoa mới được đọc. Việc học tập chính trị trong những tu viện và ni viện được tăng cường. Người ta được bảo phê phán Đạt Lai Lạt Ma. Người dân bị thúc ép để đặt hình ảnh của Mao lên bàn thờ của họ. Người ta bị yêu cầu yêu mến một đảng phái đã và đang tiêu diệt tôn giáo của họ - Giáo pháp của họ. Chỉ cán bộ nhà nước có thể áp đặt những nghị định cấm chỉ học sinh và những thẻ chính thức thăm viếng đền chùa. Điều này đã phát sinh phẩn nộ dữ dội và bùng nổ khủng hoảng 2008. Việc đàn áp đã gia tăng cường độ. Những lãnh đạo người Hoa địa phương đã đưa các phóng viên đến Tu viện. Những chùa viện Mahakala theo truyền thống chưng bày những vũ khí và đao kiếm truyền thống. Những thứ này được đưa ra cho phương tiện truyền thông như vũ khí đã được sử dụng bởi những người Tây Tạng và được dùng để biện minh cho sự đàn áp và khổ đau ở Tây Tạng. Đã có một cố gắng có hệ thống để đè nén văn hóa và ngôn ngữ Tây Tạng.
Ba năm trước đây, một tờ báo chính thức của Trung Cộng đã đề cập rằng việc học vấn bằng tiếng Tây Tạng nên chỉ được hạn chế với một môn ngôn ngữ; tất cả những môn khác phải được dạy bằng tiếng Hoa. Các học sinh đã nổi giận và nổ ra những cuộc biểu tình phản kháng. Các nhà giáo và trí thức Tây Tạng đã có những cuộc nói chuyện với nhà cầm quyền Trung Cộng và đề nghị rằng phải cần có thời gian và chuẩn bị để chuyển đổi sang chính sách này. Trung Cộng đã thẳng thừng và nói nó sẽ không được..
Họ thường từ bỏ trong những tuyên bố chính sách của họ bất cứ khi nào thích hợp với họ. Họ tuyên bố một chính sách đặc thù ở Tây Tạng nhưng thường làm ngược lại. Họ thường dùng những phương tiện đa dạng để đàn áp tinh thần vá cá tính Tây Tạng nhưng đã hoàn toàn thất bại.
Bất cứ khi nào người Tây Tạng là đa số, họ thấy đấy như những người ly khai. Họ đang đưa nhiều người Hán di cư đến Tây Tạng. Một số người Tây Tạng thiển cận đang bán đất đai của họ với giá cao. Người Hoa bây giờ đã vượt hơn người Tạng ở khu đô thị trung tâm, thí dụ ở Lhasa ngày nay có dân số khoảng 3,00,000 (?). Trong đây gần như hai phần ba là người Hán. Tình trạng như vậy là tương tự trong những thị trấn khác nhưu Shigaste, v.v... Chỉ ở vùng thôn quê mới có đa số là người Tạng du mục.
Thật bất hạnh, có một chính sách có hệ thống loại trừ văn hóa và ngôn ngữ Tây Tạng và xóa sổ đặc tính Tây Tạng. Chúng tôi có văn tự riêng của chúng tôi. Mẫu tự là Ấn Độ. Cố gắng để xóa bỏ tất cả những thứ ấy là một vấn đề nghiêm trọng. Quốc gia cổ xưa của chúng tôi với một nền văn hóa đặc thù đang chết. Nếu những chính sách đàn áp của Trung Cộng tiếp tục, thì nó sẽ thật sự là một vấn đề nghiêm trọng. Người Tạng là môn nhân của những đạo sư Ấn.
Một cách tự nhiên trong quá khứ, mặc dù những khó khăn về độ cao và khí hậu, hàng nghìn người Tạng từ Tây Tạng đã thường sang Ấn Độ đề hành hương. Không có ai đã đi đến Trung Hoa. Một cách tinh thần, tâm linh và cảm xúc người Tây Tạng gần gũi với Ấn Độ nhiều hơn. Bạn có thể nói rằng dân tộc Tây Tạng, trong thực tế, là sự phòng vệ hàng đầu của Ấn Độ.
Hoàn toàn hợp lý để thực hiện những nổ lực để bảo tồn nền văn hóa hòa bình, từ bi, và bất bạo động của chúng tôi. Ngay cả Trung Hoa ngày nay cũng cần nền văn hóa hòa bình và bất bạo động của chúng tôi. Theo một cuộc thăm dò có khoảng ba trăm triệu người Trung Hoa là Phật tử. Trong số này có khoảng nửa triệu là Phật tử Tây Tạng. Một số người Phật tử Trung Hoa đã hỏi tôi về khái niệm Pháp Vương (Dharma Raja). Phật tử khắp nơi phải nghiên cứu về những phẩm chất của một vị Pháp Vương và thẩm tra xem những ai tự xưng là Pháp Vương có đủ điều kiện không. Bất hạnh thay, Phật tử ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và những quốc gia khác trì tụng kinh điển mà không biết ý nghĩa. Hình thức thuần khiết của Đạo Phật Na Lan Đà đã chỉ được bảo tồn ở Tây Tạng. Sự bảo tồn nền văn hóa này không chỉ quan trọng đối với sáu triệu người Tây Tạng mà cũng cho những người ở Ấn Độ và toàn thể thế giới.
Ấn Độ là một quốc gia dân chủ đông dân nhất thế giới. Ấn Độ sau khi độc lập là một quốc gia ổn định nhất. Hãy xem truyền thống tư tưởng tâm linh và triết lý phong phú của nó,v.v... Ấn Độ đã thích nghi rất tốt đẹp với dân chủ, pháp trị và tự do ngôn luận. Sự hòa hiệp tôn giáo là một truyền thống cổ xưa của đất nước này. Điều này quan trọng rất nhiều với thế giới ngày nay. Hiện nay có nhiều xung đột nhân danh tôn giáo. Truyền thống hòa hiệp tôn giáo hàng nghìn năm của Ấn Độ là rất cần đến.
DSA: Tây Tạng là tháp nước của Á châu. Từ đây Trung Hoa kiểm soát lưu lượng của tất cả những con sông quan trọng của Á châu - một cách đặc biệt những con sông chảy ra phía Nam và Đông Nam Á châu. Ngài có cảm thấy Trung Cộng đã xâm chiếm Tây Tạng bị thúc đẩy bởi tham vọng này để nắm chặc vùng đất cao của Á châu và do thế kiểm soát dòng nước của Á châu không? Ngài có cảm thấy Trung Cộng sẽ thay đổi dòng chảy của sông Brahmaputra không? Chính phủ lưu vong Tây Tạng có bất cứ tin tức cụ thể nào về chương trình của Bắc Kinh đối với việc này không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Trong năm 1961, Altakin, thành viên của Phong Trào Đông Turkistan Độc Lập đã đến Ấn Độ tham dự cuộc gặp gở Á - Phi đã được khởi đầu bởi Jai Prakash Narain[1]. Ông đã gặp tôi sau đó và nói với tôi về những chương trình của Bắc Kinh về việc thay đổi dòng chảy của sông Brahmaputra, trong cái nhìn về sự khan hiếm nước nghiêm trọng ở Bắc Trung Hoa. Vào lúc ấy tôi nghĩ sự tiên đoán của ông ta là phóng đại. Tuy nhiên, bây giờ trong những năm gần đây, sự cảnh báo của ông ta dường như đang biến thành sự thật. Bắc Kinh đang khai thác những tài nguyên phong phú ở Tây Tạng đến tận đáy. Việc xây dựng đường sắt Gormo-Lhasa phục vụ để nhấn mạnh sự khai thác kinh tế ở Tây Tạng. Mục tiêu không chỉ kinh tế, nó là chính trị và quân sự trong bản chất.
Ôn Gia Bảo đã nói mới đây trên đài BBC và tôi trích, "Không có sự cải tổ chính trị thì không thể tiếp tục đổi mới kinh tế và đạt được sự gia tăng những gì chúng ta đã làm được thì chúng ta có thể thất bại. Không có sự cải tổ thảm họa Cách Mạng Văn Hóa có thể xảy ra trở lại. Cải tổ phải tiến về phía trước. Dừng lại hay trở lại là vô ích." Vì vậy Thủ Tướng Trung Hoa và một số nhà trí thức đã cảm thấy rằng Trung Hoa cần cởi mở hơn.
Nguyên tác: Exclusive Interview with His Holiness The Dalai Lama
Ẩn Tâm Lộ ngày 14-4-2012
http://www.dsalert.org/tibet-chinese-bridgehead-or-vulnerability/360-interview-with-his-holiness-the-dalai-lama
[1] Jayaprakash Narayan (11 October 1902 – 8 October 1979), được biết rộng rãi như JP Narayan, Jayaprakash, hay Loknayak, là một nhà hoạt động cho độc lập và lãnh tụ chính trị của Ấn Độ, được nhớ đến như lãnh đạo đối lập với nữ cố thủ tướng indira Gandhi trong những năm 1970 và cho việc kêu gọi một cuộc Cách Mạng Toàn Diện hòa bình.
PDFIn TrangGửi mail

Xem Tiếp: ----