Chương 16

    
gọn lửa giữa sàn nhà vẫn cháy bập bùng. Tôi chợt để ý thấy ngoài ông Cổ, trong góc sàn còn có một người nữa. Người ấy nãy giờ vẫn nằm ngủ, hai bàn chân rộng bè châu những ngón chân khô lớn về phía những cây củi đang cháy. ánh lửa tỏa sáng, chiếu rọi cho tôi thấy người đang nằm ngủ đó cũng là một ông già Châu-ro, có lẽ còn già hơn cả ông Cổ nhưng khỏe mạnh và vạm vỡ lạ thường. Ông già đó chỉ vận có mỗi chiếc khố, để lộ ra một thân hình trần trụi, to ngang, chắc nịch và nâu bóng.
Tôi ngó thoáng thấy một khuôn mặt vuông, râu bạc bó chặt cằm, một bờm tóc dày cũng bạc óng, xõa gần chấm mí đôi vai rộng như vai một con gấu. Lát lát, tôi lại đưa mắt nhìn về phía ông già đó, lấy làm kinh ngạc, vì tôi chưa từng gặp người Châu-ro nào có tướng mạo khác thường như vậy. Lạ thay, mọi tiếng động, tiếng nói cười và cả ánh lửa bừng sáng dường như không làm hề hấn gì đến giấc ngủ của ông. ổng vẫn ngủ ngon. Tiếng ngáy nghe như là tiếng cối xay lúa.
Ông Cổ nói:
- Ông Xà đó, ông Xà lớn tuổi lắm, lớn hơn tao tới trên ba chục tuổi. Đây nè, tuổi của ông Xà nè!
Ông Cổ trỏ cây cột cái giữa nhà. Tôi ngó thấy trên thân cột có không biết bao nhiêu vết dao khứa. Những vết dao đó khía dài từ dưới lên gần mút đầu cột. Giữa lúc tôi bỡ ngỡ chưa biết tại sao cây cột lại bị khứa khấc như vậy, thì ông Cổ bảo:
- ở đây bà con người ta không biết đếm đâu. Bà con tính tuổi theo mùa rẫy. Cứ một năm làm một mùa rẫy là tính một tuổi, khắc một cái khấc lên cây cột. Ông Xà năm nay đã một trăm lẻ ba tuổi. Tự tay ông đã làm gần một trăm mùa rẫy rồi đó!
Nghe ông Cổ nói, tôi lại ngoái dòm ông Xà, hết sức ngạc nhiên và thán phục. Tôi chăm chăm ngó cây cột cái, ước chừng nơi thân cột có tới cả trăm vết dao thiệt. Tôi không ngờ ở trong sóc Châu-ro rừng Hắc-dịch này lại có đời người dài quá là dài, mà người đó còn được mạnh khỏe đến như vậy.
- Quyết à, bữa tao ở ngoài Xà-bang về, nhờ có ông Xà chớ không thì chắc chết rồi. Về tới suối Châu-pha tao té xỉu ở đó. Thời may ông Xà đi đặt bẫy heo gặp, mới cõng tao về. Ông Xà là người trang lứa với cha tao hồi đó, nên ông thương tao lắm, biểu tao ở đây với ổng.
Mấy tháng liền, ông cho tao uống thứ thuốc củ gì đó đào tận rừng sâu, rồi cho tao uống rượu xương cọp. Lần hồi tao mạnh lại. Bây giờ tao khỏe rồi Quyết à, tao không chết nữa đâu!
Tiếng ông Cổ nói, tôi nghe từ tiếng của người chết đi vừa sống lại. Nghe là tiếng reo vui đó, mà hãy còn chút não ruột. Có điều là tôi nghe tiếng ông Cổ nay không giống như hồi ở nhà Bảy Vàng nữa. Cả bàn tay ông đang cầm tay tôi cũng chặt hơn, bàn tay có da thịt, nghe ấm chớ không khô lạnh như hồi trước. Chỉ sau hai năm trở lại sóc nơi nhau chôn rún cắt, ông Cổ bây giờ như sống lại. Tôi thấy ớ nơi ông có nhiều sự đổi khác. Như đôi mắt chẳng hạn. Cái lớp tro ngày trước bao giờ cũng che rợp đôi mắt ấy nay đã tan dần, mỏng vợi, cho nên đôi mắt sáng hơn, phấn chấn hơn. Như ở dáng dấp cử động của ông coi cũng mạnh dạn mau mắn chớ không run run cóm róm như hồi còn ở nhà
... Đêm nay, tôi lại nằm bên cạnh ông như ngày trước.
Nhưng không phải nằm trên bộ phản lạnh lẽo nhà Bảy Vàng mà là nằm trên sàn tre bóng, ấm ánh lửa. Tôi với ông Cổ trò chuyện tới khuya. Tôi kể cho ông Cổ nghe từ ngày ông đi, tôi ở lại buồn bã thế nào, rồi bị Bảy Vàng lén đánh ra sao. Ông Cổ nhổm dậy, đưa tay rờ rẫm mặt tôi coi những vết thẹo, nguyền rủa Bảy Vàng. Đó là điều lạ trước kia tôi không nghe ông chửi rủa Bảy Vàng lần nào. Ông Cổ háo hức kể cho tôi nghe nhiều chuyện từ khi ông trở lại sóc. Càng nói ông càng đâm ra hăng hái, lúc ông chợt nằm lúc lại chợt ngồi, hoa tay hoặc đẩy thêm củi vào bếp. Có những chuyện ông nói, tôi nghĩ rất ngạc nhiên, rồi từ chỗ ngạc nhiên tôi đâm ra mê mẩn đến nỗi hết biết buồn ngủ. Ông Cổ bảo tất cả các sóc Châu-ro đều là sóc giải phóng, nghĩa là khỏi có thằng Mỹ-Diệm nào vô đây được, hễ tụi nó vô là bị chết ở ngay ngoài rìa sóc chớ đừng nói đi luông tuồng như trước. Ông cho biết ở xung quanh đây đều có chông bẫy, có cái bẫy cần vọt có thể treo một đứa lơ lửng trên không như chơi, có cái bẫy phóng tám cây lao từ tám phía khó mà né khỏi. Ông Cổ nói sở dĩ hồi nãy tôi đi vô sóc dễ dàng là nhờ có chị Tám Mây, chớ không phải ai cũng đi vô được đâu.
- Vậy mà có lần - ông Cổ kể - Tụi Mỹ-Diệm ùa vô đại, mặc kệ chông bẫy. Ông xà bắn mấy mũi, giết chết và làm bị thương mấy tên. Trời ơi, thằng Quyết mày chưa được thấy cảnh đó đâu. Hết thẩy mọi cây ná trong sóc đều bắn. Tụi tao núp kín lắm. Thằng Mỹ-Diệm không ngó thấy ai hết. Tên bay vù vù. Thằng nào rủi ro bị tên thuốc thì té tại chỗ. Ông Xà đây tẩm tên thuốc giỏi lắm!
Tôi nhóng lên hỏi ông Cổ:
- Còn ông, ông có biết chế thứ thuốc đó không?
Tao cũng biết làm rồi, ông Xà chỉ cho tao làm. Cũng dễ thôi, mà phải chịu khó, phải kiếm cây cồng cộng, vạt lấy mủ... Cây cồng cộng ở trong rừng sâu lắm...
Nói tới đó, ông Cổ dừng lại. Một ánh lửa dọi lên khuôn mặt ông. Tôi không còn nhận ra cái vẻ nhẫn nhục thường có ngày trước trên khuôn mặt đó nữa. Tôi thấy ông Cổ khác, không phải là dữ tợn, nhưng không phải là một ông Cổ lúc nào cũng kiêng nhịn. Từ một ông già luôn cóm róm sợ sệt mới rồi ông nói với tôi những chuyện mà tôi không ngờ người nói chính là ông. Toàn là chuyện sóc Châu-ro của ông đánh giặc. Từ cái bẫy cò ke, cái bẫy phóng lao, cho tới những mũi tên làm độc. Một ông già hiền lành như ông Cổ mà nay còn cầm đi tầm các thứ mủ cây để chế ra thứ thuốc độc tẩm tên, thì tôi, tôi nghĩ sao đây? Tôi có sức khỏe, tôi phải giết lũ người độc ác ấy, phải xin lãnh một cây súng dữ dằn có thể bắn chết một lúc chừng cả chục, cả trăm tên giặc. Cây súng đó là cây súng gì tôi chỉ có nghe đại khái chớ cũng chưa biết, nhưng tôi ham muốn có một cây súng như vậy.
Chợt ông Cổ lại bảo:
- Mà điều mũi tên thuốc là chỉ đùng để giết con cọp, giết tụi Mỹ-Diệm. Còn như con nai con mễn thì mình chỉ dùng mũi tên thường. Con thú nào dữ phải trị bằng mũi tên dữ... Quyết à, tao cho thằng Quyết mày hay, ông Xà đây còn có cây ná bắn voi nữa kia, mày chưa biết cây ná đó đâu!
Tôi nghe nói mà giựt mình. Thiệt là tôi chưa hề nghe có cây ná nào mà lại hạ nổi voi. Nên tôi lại nhổm dậy:
Trời đất, vậy cây ná đó lớn dữ lắm hả ông?
Lớn lắm. ở mấy sóc đây đâu có ai lên nổi cây ná đó. Hôm rồi có mấy anh bộ đội ghé chơi, thử lên ná mà không anh nào lên được. Anh nào cũng chỉ lên được hai phần giây ná là hết hơi, đành buông cho mũi tên rớt xuống đất. Chỉ có ông Xà mới lên nổi cây ná đó thôi. Để mai tao chỉ cho coi cây ná!
Tôi ngả mình nằm xuống sàn như cũ. Một lần nữa tôi thất kinh đưa mắt ngó về phía ông Xà đang nằm ngủ.
Ông già Châu-ro đã sống qua một trăm lẻ ba mùa rẫy đó vẫn cất tiếng ngáy ồ ồ. Ngọn lửa giữa sàn cháy le lói rồi tắt. Nhưng than vẫn đỏ hồng, ấm áp. Ông Cổ đưa tay sờ trán tôi:
- Mát rồi. Thôi cháu ngủ đi, khuya rồi. Mai tao nấu thuốc cho uống là hết dứt thôi!
Tôi cảm thấy trong người dễ chịu. Cơn sốt buổi chiều đã lui. Hình như cơn sốt đã rút lui kể từ lúc tôi bước lên ngôi nhà sàn này, hay nói cho đúng là kể từ lúc tôi gặp chị Tám Mây, gặp ông Cổ. Gặp ông Cổ, tôi vui quá, tôi được nghe nhiều chuyện lạ lùng hay ho quá. Tôi êm ái ngủ thiếp đi trong nỗi vui đó, khi ở phía dưới, bếp lửa vẫn cháy lặng lẽ tỏa hơi nóng ran vào gan bàn chân tôi, truyền hơi ấm khắp cả người tôi.
Trời vừa sáng, tôi tỉnh dậy đã thấy ông Cổ dậy trước tôi từ lâu. Ông đang lúi húi nấu một cái nồi gọ, bắc ngay trên đầu ba cây củi cháy hồi hôm. Từ nồi bay tỏa khắp sàn nhà một mùi thơm ngào ngạt giống như mùi chè.
Thấy tôi đã thức, ông Cổ vui vẻ nói:
- Cháu dậy đi, dậy ăn cái này!
Tôi ngồi dậy đi rửa mặt. Trở vào đã thấy ông Cổ nhấc nồi xuống, múc cho tôi một chén. Thì ra đó là một thứ chè nếp nấu sánh đặc, vàng tươi.
Tôi ngó khắp nơi không thấy ông Xà đâu. Ông Cổ bảo:
- Cháu ăn đi, tao nấu nếp với mật ong rồi hòa thuốc luôn trong đó. Ông Xà đi rừng rồi. Ông đi thăm bẫy, lát nữa ông về chắc thế nào cũng có thịt!
Tôi bưng chén chè lên húp. Miếng chè mật ong thấm vào đầu lưỡi tối vị ngọt hơi gắt, thứ vị ngọt của bông nhụy kết tụ qua con ong, qua ngày tháng. Còn vị thuốc thì tôi chỉ nghe thoảng mùi thơm của một giống ngải nào đó. Tôi ăn xong chén thứ nhất thấy cả người nóng ran.
Và khi ăn đến chén thứ hai thì mồ hôi toát ướt đầm lưng áo. Thế rồi, khi đặt chén xuống bỗng tôi thấy người la đà nghiêng ngửa như say rượu. Ông Cổ nhớm tới đỡ lấy tôi vừa cười vừa lau mồ hôi chảy tuông có giọt trên mặt trên cổ tôi. Ông nói:
- Thằng Quyết mày chịu thuốc rồi... Thôi cứ nằm xuống nghỉ một chút là khỏi!
Tôi chỉ lơ mơ nghe tiếng ông Cổ nói. Rồi không nghe ông nói nữa. Sức mạnh của thuốc ngải làm cho tôi say lịm đi, dìu dặt, êm ả như một cơn buồn ngủ. Nhưng lát sau, tôi tỉnh dần, tỉnh dần. Cũng rất êm ả, tôi từ từ thoát khỏi cơn say đó và chừng nửa giò sau thì nhẹ nhõm cả người. Tôi lồm cồm định ngồi dậy, nhưng ông Cổ ngăn lại, bảo tôi cứ nằm thêm chút nữa. Tôi đành nằm xuống, bụng luôn nghĩ tới cây ná bắn voi của ông Xà. Tới chừng ông Cổ cho phép tôi ngồi lên, tôi rất khỏe khoắn, đi lại bình thường. Việc đầu tiên là tôi đòi ông Cổ chỉ cho tôi cây ná. Ông Cổ gật đầu, lẳng lặng kéo tay tôi đi xuống bậc thang.
Cây ná bắn voi của ông Xà gác dưới gầm sàn nhà. Mới thoạt nhìn thấy, tôi bàng hoàng đứng sững, trố mắt nhìn. Quả là tôi chưa được trông thấy một cây ná nào to lớn dường đó. Cây ná dài tới hai phần ba chiều dài của sàn nhà. Hệt như chủ, sắc gỗ thân ná nâu bóng, sẫm đậm, mới nhác trông đã thấy nó đòi sức lực, đòi gân cốt. Tôi đứng im, ngước nhìn cây ná lẫm liệt. Và cây ná dường như càng tỏ ra vẻ thách đố tôi. Đây là lần đầu tiên tôi đứng trước một sự thử thách lớn. Phải nói hồi còn ở nhà Bảy Vàng, tôi có tiếng là đứa khỏe, làm được những chuyện nặng có khi vượt quá sức mình, bơi tôi thích làm được cái gì hơi quá sức mình. Đã có lần hai con bò húc nhau, tôi len vào giữa nắm sừng hai con từ từ đẩy chúng ra. Sau khi nhìn kỹ cây ná, tôi chịu là cây ná lớn thiệt, ấy vậy mà bụng tôi vẫn chưa hoàn toàn nghĩ rằng tôi không thể lên cây ná đó được. Tôi rất muốn được tận mắt nhìn thấy ông Xà lên ná. Nên tôi hỏi ông Cổ:
- Ông Xà đi rừng chừng nào về hả ông? Cháu muốn được coi ông Xà lên cây ná này quá!
- Chắc ổng cũng gần về thôi. Được, khi nào ông về tao nói ổng lên ná cho mà coi. Tánh ông Xà dễ lắm, ổng hiền khô thôi.
Tôi nghe nói thì mừng rơn. Thế là từ đó trở đi tôi cứ ngong ngóng đợi ông Xà về. Leo lên sàn nhà rồi, lát sau tôi lại leo xuống, quẩn quanh không rời cây ná ra được. Lúc mặt trời tráng bóng những lá mít trước nhà thì ông Xà về tới. Ông già ấy sáng nay cũng chỉ đóng mỗi chiếc khố, từ ngoài rừng đi lụi đụi về tới sân và liệng xuống giữa sân một con heo rừng máu me ướt đầm lông gáy.
Tôi theo ông Cổ đến bên. Ông Xà nhìn tôi cười hịch hạc. Ông nói bằng tiếng Kinh nghe lơ lớ:
- Con heo nó chết rồi... Cắn sợi giây bẫy treo chân không nổi, nó cắn bỏ cái chân. Cắn gần đứt rời cái chân ra rồi, tui tới đâm nó chết luôn...
Giờ tôi mới chú ý ngó thấy một chân sau của con heo cũng dính đầy máu. Khúc chân đó lặc lìa, chỉ còn chút nữa là đứt hẳn. Con heo đã chết, nhưng coi nó vẫn còn đầy vẻ táo tợn. Lông nó mọc dựng đứng, hoe vàng, như màu nắng. Miệng nó sùi bọt hồng, cặp nanh nhọn hung dữ chìa ra như lúc cũng sẵn sàng chém sả vào kẻ địch. Thú thiệt, tôi đâm nể con heo, mặc dù nó đã chết. Nhưng bởi vì trước đó nó dám có gan vượt chết, liều cắn bỏ lại một chân. Rủi cho nó là ông Xà tới sớm, chớ nếu không thì nó đã thoát. Dẫu còn có ba chân, nó vẫn sống, vẫn được tự do xông xổ nơi rừng bụi.
Ông Cổ lên tiếng:
- Ông Xà ơi, thằng cháu nó muốn được coi ông lên cây ná lắm đó. Lát nữa ông Xà lên ná cho nó coi nghe!
Ông Xà phóng cây mác cắm phập xuống đất, cười khà. Tiếng cười của ông nghe hồn nhiên lạ nghe như tiếng cười của một đứa trẻ. Ông hỏi:
- Thằng cháu hết bịnh chưa, có uống thuốc chưa?
- Nó uống rồi, nó khỏe lại rồi! Ông Cổ đáp thay tôi.
Đâu như hồi khuya, truớc lúc đí rừng, ông Xà đã có nghe ông Cổ kể chuyện về tôi nên bây giờ ông Xà chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên trước sự có mặt của tôi cả. Sau khi hỏi vậy rồi, ông Xà đứng xuôi hai tay, ngắm nghía dòm tôi từ đầu tới chân. Coi bộ ông có vẻ vừa ý với tướng mạo tôi. Mắt ông sáng rực, hồ hởi, rồi bỗng ông bước thình thịch tới trước mặt tôi, vỗ bập đôi bàn tay rộng bè lên vai tôi lắc mạnh và bật cười kha kha:
- Nghe thằng cháu tính đi bộ đội phải không? Tốt, tốt, đi đi. Bộ thằng cháu mày ưng cây ná của tao lắm hả. Nhắm vác nổi đem theo thì tao cho đó, vác đi mà bắn thằng Mỹ-Diệm. Muốn coi tao lên cây ná à, được được...
Vẫn với bước chân đùi đụi, ông Xà mau mắn đi vô sàn nhà. Lịch kịch một lúc, ông vác cây ná khổng lồ đó ra giữa sân, với một ống tên dài có tới một sải tay đeo nơi lưng. Chẳng nói năng lâu lắc, ông già một trăm lẻ ba tuổi thọ ấy từ từ ngồi rùn xuống, duỗi chân trái ra.
Trong cái động tác ngồi hơi khom khom, ông đã đồng thời với tay qua vai mà rút tên. Cánh ná khổng lồ gá mũi tên dài vút ấy bắt đầu bị uốn cong một cách dễ sợ. Cánh tay phải ông Xà kéo giương sợi giây sắt bện đôi, bắp thịt tay nổi cuồn cuộn. Suốt từ lúc đó, tôi thấy ông không thở một hơi nào. Chòm râu bạc của ông vểnh dựng dậy. Tôi có cảm tưởng râu của ông Xà bây giờ sợi nào cũng cứng như thép. Khi tôi nghe ông thở một cái khiến bờm râu rung rung thì cũng là lúc ông đã lên cây ná tới mức. Tôi nghe một tiếng "rắc". Mũi tên đã được cài xong.