26/3, 29/3, …, 30/4: những cột móc như những dấu ấn in sâu vào tâm khảm của hầu hết những người miền Nam VN. – Làm sao quên được? Như lời một vị quan chức đứng đầu bộ máy chính quyền CS (đã qua đời) đã thốt ra sau khi về hưu: - 30/4 - nếu có vạn người vui thì cũng có vạn kẻ buồn. Tôi đã mất tất cả, tình yêu, sự nghiệp, những người thân yêu. Trong đó có người mà tôi quý mến nhất, đó là anh tôi– Giáo sư Nguyễn Lương Hiền, dạy môn triết học tại các trường trung học ở Đà Nẵng gồm Phan Châu Trinh, Bán Công, Sao Mai, Phan Thanh Giản, Bồ Đề, Ánh Sáng, Thọ Nhơn, Kĩ Thuật và các lớp đêm Phan Châu Trinh. Biến cố 29/3, trong hàng ngủ Giáo sư, có một số rất đông, sau khi gạn lọc, được ông nhà nước cho nghỉ dạy kể từ năm 1975. Đội ngủ giáo chức, một số đạp xe thồ, một số đứng chợ trời bán thuốc Tây, một số chọn tàu lửa là nhà để mua đi bán lại, một số xoay qua nghề hàn khung xe đạp, trong đó có anh tôi. Riêng tôi, được xét cho làm GV lưu dung (chữ lưu dung nghĩa là lưu lại vì dung thứ), do đó vẫn ôm lấy nghề đi dạy, cho đến 1980, lúc ấy mới “bức sô”, làm một bước nhảy vọt: xin nghỉ dạy, về làm khung xe đạp theo ông anh luôn. Vĩnh biệt! người “GV nhân dân”. Chào nghề mới, hàn khung xe đạp. Kỉ niệm ơi! Đã 37 năm rồi còn gì!. Đồng, Đài, Đạp. Đó là 3 từ Đ nói lên sự đầy đủ, sung sướng của một giai cấp hưởng tiện nghi trong thể chế Xã hội chủ nghĩa giai đoạn từ khi miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa cho đến khi CSVN tiến vào miền Nam 1975. Hình ảnh người bộ đội miền Bắc vào Nam sau 29/3/1975, đi xe đạp, chở khung xe, mua poupé nhựa treo ở guidon xe, dừng xe ven đường, gạ mua đồng hồ 2 cửa sổ là hình ảnh quen thuộc mà bất cứ người dân nào còn ở lại Vn sau biến cố 75 đều biết. Mặt khác bộ đội còn dò hỏi để mua xe Honda. Một chiếc Vespas thời đó nếu bán, có thể mua được một ngôi nhà. Bối cảnh xã hội Đà Nẵng thời đó có một chiều hướng đi thụt lùi với sự phát triển các phương tiện chuyên dụng kĩ thuật trong đời sống hàng ngày, ti lệ nghịch với mức sống của người dân. Xe Honda, xe hơi ngày càng biến mất. Xe đạp càng ngày càng thịnh hành. Đường phố Đà Nẵng phải nói là giai đoạn năm 1976 trở về sau chỉ có xe đạp. Xe hơi nếu có trên đường thì đích thị là xe dùng cho cán bộ nhà nước mà người tinh mắt có thể nhận thấy ngay: người ngồi trên xe hơi, bỏ hai chân lên ghế. Nếu là phụ nữ thì ngồi trên xe vẫn đội nón. Còn xe Honda thì lác đác vài ba chiếc thoáng qua. Có một tâm trạng đảo chiều cho hai giai cấp trong xã hội VN sau 1975: Khi đã đi xe đạp quen, được lên Honda thì sung sướng biết bao. Ngược lại, đi Honda đã quen, giờ đây phải đi xe đạp thì, gian nan, chán nãn biết chừng nào. Đúng là lên voi, xuống chó. Xuống chó lên voi! Khi bộ máy hành chính đã đi vào hoạt động thì chế độ phân phối được áp dụng qua hình thức tem phiếu. Gạo, có sổ gạo, mỗi nhân khẩu được mua bao nhiêu, nước mắm, đường, muối, …tất tần tật đều phải dùng tem phiếu. Muốn được cấp tem phiếu thì phải có hộ khẩu. Quản lí hộ khẩu nghĩa là quản lí theo kiểu chế tài bằng biện pháp cắt sổ gạo, nếu anh ở chui, bị thu hồi hộ khẩu, bị đưa đi kinh tế mới, …thì không còn chế độ tem phiếu nữa, nghĩa là lúc đó sẽ đói nhăn răng. Trở lại chuyện xe Honda. Đi xe Honda cũng phải có chế độ tem phiếu, nghĩa là được duyệt mua xăng. Nếu không thì...đỗ nước lạnh để chạy hay sao? Muốn được cấp phiếu mua xăng thì phải có lí do. Giáo viên nhân dân (xin lỗi không phải giáo sư) sau khi được phân phối đi dạy lại, nghĩa là được ra quyết định giáo viên lưu dung, được cấp phiếu mua xăng tháng 5 lít. Nếu hết 5 lít thì chịu khó cảm phiền đi bộ! Tôi được hân hạnh có QĐ giáo viên lưu dung, sau này có được phiếu mua xăng. Nhưng chỗ dạy của tôi lại quá xa, cách nhà 7 km. Thôi đành đi xe đạp, lâu lâu độn thêm đi Honda. Động từ độn rất phổ biến thời bấy giờ. Ăn cơm, độn thêm khoai hoặc sắn hay bo bo. Đi xe đạp độn thêm đi Honda, xăng độn thêm dầu hỏa, gạo độn thêm cát để bán tại các cửa hàng mậu dịch Quốc doanh, đi dép su độn thêm giày bít, sáng ăn khoai (khoái ăn sang) lâu lâu độn thêm ăn bánh mì,... Trong hoàn cảnh đó, thằng bạn đã bày thêm cho tôi chêm lỗ rít lơ xe Honda. Lấy một sợi giây đồng (rút từ sợi giây điện), đưa vào lỗ rít lơ trong hệ thống xăng đi qua cát buya ra tơ. Xăng sẽ tiêu thụ ít do lỗ bị nhỏ lại. Thực hiện như thế xăng sẽ tiết kiệm được 1/3 dung lượng tiêu thụ nhưng khó khăn ở chỗ là muốn chạy nhanh thì không được và máy rất mau bị nóng. Nhưng đành vậy. Vã lại đi nhanh mà làm gì trong hoàn cảnh đó! Tuy nhiên, có những khó khăn khác trong việc xử dụng xe Honda. Vấn đề thay thế phụ tùng. Bế tắc! Chỉ việc lốp Honda mòn, nhẳn thín cũng đã là nan giãi. Nhà máy cao su Đà Nẵng giai đoạn đó có nhận đắp lốp Honda. Tôi đã đắp được đôi ba lần. Một hôm đang đi, tôi phát hiện lốp xe bị bay tung mấy mãnh cao su mà nhà máy cao su Đà Nẵng đã đắp lốp xe cho tôi. Một kỉ niệm rất khó quên. Tôi đi Huế đám giỗ mẹ. Tôi rũ ông anh kế tôi, nguyên là sĩ quan Công binh Sài Gòn đi cùng. Hai anh em khi trở vào, đến chân đèo Phú Gia thì bị lủng lốp. Lúc đó trời đã về chiều. Lại dưới chân đèo. Tôi đành thúc thủ dắt bộ. Còn anh tôi, cho ông lẻo đẻo đi theo. Khi chúng tôi đến Lăng Cô thì vừa tối. May là có người quen, tôi đành ăn tối tại đó, ngủ nhờ một đêm. Sáng ngày mai, xe được vá lại và lại lên đường về đến Đà Nẵng. Ông anh dọc đường nói với tôi: « chuyến ni về Đà Nẵng, tau phải cúng tạ mới được! » Khi về Đà Nẵng, tôi kể lại chuyện, mọi người nói: « đúng là liều, lốp xe thì vá chằn vá chịt, vậy mà dám cả gan chở người đi Huế ». Nhưng đành phải chấp nhận vậy chứ biết làm sao, giai đoạn ấy làm gì có lốp, ruột xe Honda. Trong bối cảnh đó, nhu cầu xe đạp tăng mạnh. Nhu cầu đã tăng thì phải có cung. Đó là sự ra đời ồ ạt của những chỗ làm khung xe đạp, cá thể, tổ hợp, quốc doanh, … Anh tôi, sau một thời gian xấc bất xang bang vì bị những áp lực tâm lý đè nặng, vì phải tiếp tục tiếp chuyện mấy ông tuyên giáo, mấy ông an ninh trên sở Công an. Cuối cùng anh tôi cũng tự tổ chức cho mình một công việc mới: Làm khung xe đạp. 4 năm đầu tiên, khi anh tôi làm khung xe đạp thì tôi vẫn còn tiếp tục làm “GV nhân dân”, mặc dù những ngày nghỉ dạy, tôi vẫn lợi dụng ra ngồi hàn ống xe đạp, kiếm thêm tiền để tiêu vặt. Phải thừa nhận anh Hền tôi là một người có nghị lực cao, chịu khó, trong những năm đầu, không hiểu anh làm thế nào mà kiếm đủ đồ nghề để trang bị cho cả xưởng hàn khung xe đạp, đầy đủ. Từ những cái búa cho đến cái bàn sắt để làm giá đỡ cho dụng cụ như e tô hay máy khoan lỗ, đến dao cắt, máy hàn hơi (bin hàn), …không thiếu một cái nào, kể cả cái lò bệ anh ra Huế mang vào từ đồ kỉ niệm của bố già. Tôi phục nhất là những dụng cụ anh tự chế tạo lấy để phục vụ cho việc làm khung xe như bộ nòng dùng để vo ống và những cái chày để dùng cho việc vo ống thế nào để ống tròn, không có ti vết, …Tất cả đều do anh suy nghĩ để làm cho được. Mặt khác nhờ mối quan hệ với nhiều người, do đó, anh dễ dàng trong việc mua vật tư, từ hơi hàn (khí oxy, acetylen) cho đến các phụ kiện để làm ra khung xe. Chúng ta lưu ý những năm từ 1976 cho đến 1985, đường phố Đà Nẵng hầu như chỉ còn xe đạp. Xe đạp trở thành phương tiện chính. Do đó nghề hàn khung xe đạp trở thành nghề trọng điểm của thành phố. Đâu đâu cũng làm khung xe đạp, các tiệm trên phố nhan nhãn đều bày bán khung xe, mặc dù trong thực tế, nghề hàn khung xe đạp bị cấm cũng như các tiệm bán khung xe đều được loan báo cấm ngặt. Thế nhưng nói vậy mà không phải vậy. Nghề hàn khung và bán khung xe đạp phổ biến đều khắp, không chỉ tại địa bàn Đà Nẵng mà hầu như trên toàn quốc. Làm khung xe đạp cần có: Bộ ống xe, bộ rắc co, nồi (boite). Các vật liệu này đều được anh tôi chuẩn bị, gọi các nhà buôn cung cấp đầy đủ. Ngoài hơi hàn, còn có sắt cắt nhỏ để dùng làm que hàn, khi hàn mí ống, đồng đạn, cắt thành sợi để hàn các ống khi đưa vào boite, khi hàn qua các rắc co, … Riêng về ống xe đạp, nếu có điều kiện và có thời gian, ta có thể tự làm lấy. Ống xe đạp được làm từ sắt 1 ly 2 hoặc 1,5 li nếu là ống lớn. Các ống nhỏ, có thể làm từ sắt 1 ly. Sắt này lấy ở đâu? Từ sắt phế liệu. Dạo Đà Nẵng khi bộ đội vừa tiếp quản, các bãi sắt phế liệu thường là các bãi thuộc quân sự, cảng. Đó là các thùng chứa hàng, gọi là thùng cô nét thường là của Mỹ để lại. Tha hồ mà khai thác. Bộ đội vào tiếp quản phi trường, cảng Đa Nẵng, cài gì không cần thiết, họ cho bán sạch. Chính từ sắt cô nét mà các người làm khung đã làm không biết bao nhiêu là ống, sản xuất ra hàng vạn, hàng triệu khung xe đạp, kéo dài từ năm 1975 đến 1985, Anh Hiền tôi, dạo đó mua rất nhiều sắt cô nét nuỗi thẳng thành tấm, đem về anh đã có mẫu, đo và cắt theo từng bộ, rồi hoàn thiện thành ống. Khi làm, ta chỉ cần ngồi hàn mí bằng hơi hàn gió đá (Oxy+Acetylen), hàn xong, đun nòng vào, rổi dùng chày và vo tròn bằng búa giáng xuống. Nói chung quy trình làm khung xe đạp, theo từng bước: Hàn ống, vo ống, cưa theo kích thước, đưa boite (nồi khung xe) vào giá, bỏ các ống vào boite, điều chỉnh cho thẳng (ống cổ khung xe và ống đứng chồng lên nhau). Bắt đầu hàn các ống vào boite bằng đồng. Khi các ống cơ bản của khung xe đã được hàn xong, lấy ra, làm các khâu còn lại, hoàn thiện khung và sau cùng là dũa khung để khi sơn khung, không bị gợn, bị ổ gà, bị đề phô, … Giai đoạn đó, anh làm với 3 người học trò xin học việc, ngày đến làm, đêm ra về nhưng cuối tháng anh tôi vẫn trả tiền tính theo đầu khung. Trung bình mỗi ngày anh tôi hoàn thiện xong 10 khung xe đạp. Cách làm ăn như thế có thể gọi là quy mô so với giai đoạn ấy. Năm 1980, tôi nghỉ dạy và trở về ngỏ ý xin được làm khung xe đạp trực tiếp. Anh chưng hững: “em nghỉ việc là bậy rồi. Anh đã bị nghỉ dạy, đúng ra em nên đeo bám nghề GV với nhà nước, sẽ có lợi về chính trị hơn. Em có thể làm thêm cũng được. Bây giờ lỡ rồi. Thôi! Anh sẽ sắm cho em một bộ hàn hơi để em làm!”. Thế là kể từ đó, có tôi phụ thêm với anh trong việc làm khung xe đạp, và số khung sản xuất tăng thêm từ vài cái. Như vậy có ngày khung xe đạp sản xuất được trên dưới 12 cái. Với số lượng khung xe xuất xưởng như thế thì việc cần là thợ dũa khung hay còn gọi là thợ làm nguội khung. Anh tôi giao cho một người ở trong Thanh Bồ lãnh, ông này giao lại cho đàn em và điều khiển họ phải làm cho xong trong ngày. Dạo đó có một số giáo sư bị mất dạy lúc đầu cũng nhận vể để dũa khung như GS Nguyễn Châu Hóa (cùng dạy triết Phan Châu Trinh), GS Đỗ Nguyên (dạy Sử trường nữ Hồng Đức), GS Tâm dạy Phan Châu Trinh, …nhưng rồi dần dần một số thầy không chịu nỗi thao tác dũa khung, nên bỏ cuộc. Trong khâu phát hành, tiêu thụ khung xe đạp, thì GS Trần Gia Phụng là một đối tác rất đắc lực của anh tôi, anh Phụng, ở đường Hùng Vương, một địa điểm rất sôi động của việc giao dịch mua bán. Anh Phụng và anh Hiền tôi lại là hai người bạn rất thân trong thời gian trước 75 cũng như sau này. Hàng ngày anh Phụng vẫn đến tại nhà anh Hiền để thanh lý các khoản khung đã bán được cũng như nhận thêm. Có khi khung không còn để bán, anh Phụng phải về đích thân mang lên. Ngoài chỗ anh Phụng, còn hai chỗ khác nhận khung của anh Hiền để bán như chỗ anh Bút, chỗ bà Nhuận. Thời kì đó ngoài những chỗ làm khung cá thể, còn có các Hợp tác xã làm khung rất nhiều, như Tổ hợp Hạnh phúc, tổ hợp Đoàn kết. Khi các Hợp tác xã nầy cần khung xe đạp để tặng khách thì họ lại phải về lấy khung của anh tôi. Nói như vậy để thấy rằng chất lượng khung xe đạp của anh tôi rất nổi tiếng. Anh Hiền, ban ngày làm khung xe đạp, ban đêm còn lo dạy các con học. Có những đêm 22, 23 giờ tôi vẫn nghe tiếng anh tôi say sưa dạy các cháu học toán hay Vật lý. Phải nói rằng anh tôi có một trí nhớ quá tuyệt hảo. Đã biết bao nhiêu năm rồi. Vậy mà ông vẫn dạy toán hình hay đại số lớp 11 cho các con mà vẫn không cần tham khảo thêm sách. Ngoài việc dạy dỗ con cái, ông còn một phương cách giáo dục con cái rất uyển chuyển, khi thì rất tiến bộ, nhưng khi nếu cần, ông rất nghiêm khắc. Nếu linh hồn anh tôi có linh hiển, tôi nghĩ anh sẽ vui biết bao khi chứng kiến được các con của mình. Ngày nay các cháu đã có một vị trí rất quan trọng trong cộng đồng xã hội, không phải là vai trò mang tính chính trị nhưng là dưới góc độ chuyên môn. Sự thành đạt của các con anh quả thật là một sự vinh quang hiếm có. Những năm cuối đời của anh tôi, tôi nghĩ là anh rất vui vì công việc đã trôi chảy, nhuần nhuyễn. Sự thu hoạch về kinh tế không còn là mối lo của anh nữa. Nhưng qua sự đăm chiêu, qua vài câu chuyện, tôi nghĩ là anh đang có một tầm nhìn đi xa hơn nữa trong vấn đề làm ăn, bởi vì anh vẫn nghĩ rằng chuyện làm khung xe đạp, một lúc nào đó sẽ không còn hợp thời. Một điều khác, anh tôi rất vui khi có bạn bè đến chơi, các anh Phụng, Viên, Nguyên, vợ chồng anh Tâm, chị Lê, anh Mai, …Anh tôi không uống rượu nhưng mỗi lần đi lên cửa hàng Mậu dịch quốc doanh là anh tìm mua rượu Vin Rhom (của Bulgarie), một loại rượu dưới dạng Cock tail ngọt nhưng nồng độ khá cao để dự trữ, khi bạn đến chơi anh chiêu đãi. Về phần tôi, anh giao cho tôi hoàn toàn tự chủ trong vấn đề làm khung xe đạp. Tôi thích thì tôi nhận đồ rời để gia công làm. Nếu cần, tôi có thể đi chơi hay đi đâu đó, không bị lệ thuộc vào công viêc. Có những khi khung xe đạp cần cho thị trường, tôi nghỉ việc, anh phàn nàn tôi vô lo. Tôi nhớ mãi câu nhận xét của anh: “ban ngày chạy rong, đêm chong đèn ngồi hàn”. Có những lúc tôi gặp được bạn bè học đại học ngày nào, vào Đà Nẵng tìm thăm, tôi vui lắm, thế là mua rượu nếp than dỗm, về uống với thịt gà bắt được từ lãnh sư Lào lạc qua khi tôi chong đèn ngồi hàn. Thế là cả mấy đứa uống say mèm. Sáng ngày mai, tôi dậy không nổi. Thế là tôi lại bị anh cằn nhằn: “Lại uống rượu, không dậy được!”. Anh chỉ cằn nhằn với tôi như vậy thôi, nhưng tôi rất sợ anh. Với tôi, anh không những là một người anh hết lòng lo cho em mà còn là người cha đáng kính. Nếu cha tôi là người bố có công nuôi tôi khôn lớn thì anh tôi là người cha lo cho tôi về mọi mặt, nhất là vấn đề học hành của tôi ngày còn thơ và khi ra trường, đi dạy. Chính anh là người tìm cách lo cho tôi về dạy chỗ gần gia đình anh để có anh bên cạnh, anh sẽ yên tâm hơn. Dưới mắt anh, tôi vẫn là một đứa em út còn dại khờ, chưa đủ bản lĩnh để sống ngoài đời. Còn nhớ ngày tôi cầm quyết định về dạy trường trung học Hòa Vang, anh chở tôi đi trên xe Yamaha đàn ông, bây giờ cảm giác của tôi vẫn còn ghi đậm mùi những lá tre rớt đầy đường bị ung thúi, mùi phân trâu rãi rác trên bờ cỏ hai bên đường. Tôi vẫn nghĩ thầm con đường này, rồi đây ta vẫn đi dạy ngày hai buổi đây sao? Nhưng với anh thì Hòa Vang là một chỗ dạy lý tưởng cho những người mới ra trường như tôi. Và quả thật y như thế, sao này tôi tìm thấy ở ngôi trường trung học Hòa Vang Đà Nẵng một cảm giác ấm áp dịu dàng đầy thân tình của những người đồng nghiệp. Các giờ triết học tại các trường tư thục Bồ Đề, Bán Công anh đều giao lại cho tôi dạy, sau khi đã cam kết với Hiệu trưởng là tôi đủ khả năng. Cours triết thì anh soạn sẵn, quay ronéo và phát cho học sinh. Các trường Bồ Đề, Bán Công là những trường rất kén chọn đội ngủ giáo sư, một người mới ra trường như tôi làm sao họ chịu nhận để tôi dạy triết học, một môn mà với học sinh, quá mới mẻ và rất khó hiểu. Thế nhưng bằng sự cố gắng, với tinh thần trách nhiệm, tôi đã dạy học sinh trong hai niên khóa mà không có một lời ta thán hay phàn nàn từ ban Giám hiệu nhà trường. Cuối niên khóa 1974, anh nói với tôi: “Em là GS mới ra trường, còn quá trẻ, mà đã dạy được trong những lớp học trên 100 học sinh. Lớp không bị mất trật tự, học sinh im lặng ngồi nghe giảng bài. Vậy là em đã thành công. Năm tới đây, anh sẽ giao lại các lớp triết tại trường trung học Phan Thanh Giản cho em. Anh cần có thời gian để viết sách. Em hãy cố gắng lên!” Tôi biết anh tôi nói là làm. Không ngờ sau đó là sự kiện 1975… Point final! Do đó, khi tôi xin nghỉ dạy, về làm khung xe đạp cùng anh thì anh rất lo lắng cho công việc của tôi. Vì vậy mà tất cả các khâu từ vật liệu làm cho đến đồ nghề anh đều lo hết cho tôi. Tôi chỉ việc ngồi hàn, làm, hoàn thiện khung xe. Chỉ có công việc kiểm tra lại khung trước khi cho xuất xưởng là anh đảm nhận. 1981, tôi lập gia đình và anh là người lo cho tôi toàn bộ, từ A tới Z. Ngôi nhà hiện nay tôi đang ở, với biết bao ki niệm là do anh mua và giao tôi. Đây là nơi mà anh cùng các học trò trãi qua những tháng ngày làm khung xe đạp. Biết bao nhiêu kỉ niệm buồn vui chất chứa tại đó. Khi đứa con trai đầu tiên chào đời, tôi đặt tên cho nó là Fourche để đánh dấu bước chuyển hướng trong nghề nghiệp cũng như trong nhận thức của tôi, 2 năm sau, tiếp tục đứa con gái thứ, tên là Guidon. Fourche lớn lên, khuôn mặt khôi ngô, sáng sũa, thông minh. Hai bác cháu quyến luyến nhau không rời. Bác ở đâu, làm gì trong nhà, cháu Fourche đều bên cạnh quan sát bác làm. Chỉ tội cho bé Guidon, 2 năm sau chào đời, chưa được bác bế bao nhiêu, đã vội ra đi. Một hai lần bác bế guidon chưa nóng vòng tay, Fourche đã la lên, không chịu, khiến bác phải vội để Guidon xuống. Một điều an ủi cho anh và cho tôi, từ bỏ nghề nhà giáo nhưng những người bạn, đồng nghiệp một thời với mình vẫn còn lui tới. Một số vì liên hệ đặt khung xe, một só vì tình bạn đến chơi, đấu láo. Cũng qua anh, tôi biết được những thế hệ đàn anh của tôi, anh Trần Gia Phụng, anh Lê Long Viên, anh Đỗ Nguyên, anh Nguyễn Châu Hóa, vợ chồng anh Tâm, chị Lê, anh Lê Quang Mai (Mai mập), …trong đó kể cả Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Đại đức Thích Minh Đàm. Thầy Minh Tuấn, Minh Đàm, sau 1975, trở thành những nhà buôn, chuyên cung cấp ống, rắc co, boite xe đạp cho những nơi làm khung xe đạp. Những năm cuối đời của anh vẫn còn là những năm xã hội VN đang còn trong thời kì bao cấp, vẫn còn cả ngày sắp hàng để chờ giãi quyết tem phiếu. Mặc dù chợ vẫn còn đó, buôn bán nhỏ lẽ vẫn còn. Những người có tiền, có điều kiện vẫn có thể sống thoải mái. Và trong hoàn cảnh đó, anh Hiền tôi không đến nỗi sống thiếu thốn và anh đã lo cho vợ con, các em, những người thân ngoài Huế đầy đủ. Năm 1981, anh mua được một chiếc xe Cup 81 cánh én, 90 phân khối. Anh rất vui vì có xe chở vợ con đi đây đi đó, trao đổi hàng hóa, giãi quyết vấn đề bán khung xe đạp. Thỉnh thoảng anh vẫn dùng xe này đi Huế trong việc kỵ giỗ và khi nào anh cũng đèo tôi theo cùng. Tháng ba năm 1984, anh bị một cơn đau đầu dữ dội, thỉnh thoảng bị một vài lần ngất đi, không hay biết gì hết, sau đó lại hồi tỉnh. Và anh lại làm việc, coi thường. Chúng ta lưu ý điều kiện y tế giai đoạn 1984, thời kỳ bao cấp, Việt Nam hoàn toàn bị bế quan tõa cảng. Do đó cơn bệnh của anh vẫn không có điều kiện chăm sóc, mặc khác lại tính bướng bỉnh, coi thường bệnh tật của mình. Hay anh nghĩ rằng nếu nằm xuống lại là tốt hơn? Thời gian tiếp theo sau đó, anh bị mê rồi lại tỉnh, giữa cơn mê và cơn tỉnh rất khó phân biệt. Các bác sĩ là bạn bè quen thân giai đoạn đó như BS Lê Q T, BS. Dg cũng đều bó tay, chỉ biết chích Vitamine C nồng độ cao và uống Paracétamol. Những ngày sau cùng, anh nằm phòng cấp cứu hồi sức thế rồi anh đi luôn vào một chiều tháng tư âm lịch, sau lễ Phật đản. Năm ấy anh chỉ vừa được 51 tuổi. Đám tang anh đầy đủ bạn bè, học trò. Cảm động nhất là những em học sinh. Nhiều em đến bên quan tài anh, ôm lấy, khóc nức nở. Giáo sư thời ấy còn ở lại Việt Nam khá nhiều. Các anh ở trường Phan Châu Trinh, trường Bồ Đề, Bán Công, nữ Hồng Đức, Sao Mai, Hòa Vang đều có mặt đông đủ. Có một số GS từ Huế, nghe tin anh qua đời cũng lặn lội vào thăm như GS Cao Huy Hóa, Giáo sư Nguyễn Châu, dạy triết tại trường Quốc học. Thượng tọa Thích Minh Tuấn, hiệu trưởng liên trường Bồ Đề Đà Nẵng đến thăm, thở dài, than:”Vô thường quá!” Thi hài anh được mang ra Huế, chôn tại nghĩa địa cát trắng của Làng Hiền Lương, cách TP Huế 17 cây số, về phía tay phải, đi sâu vào trong khoảng 3km. Mộ anh được chôn bên cạnh mộ ôn Nội, một nhà nho học cuối mùa. Hai ông cháu nằm bên mép sườn, có độ dốc thoai thoãi của một con suối nhỏ. Ba ngày sau, tôi lên thăm mộ anh, có GS Nguyễn Châu theo cùng. Ngôi mộ anh vẫn còn mới. Cát trắng còn ướt. Những vòng hoa đưa tiển anh vẫn nằm đó, héo tàn. Chiếc chiếu hoa mang theo, khi chôn cất anh xong, vẫn còn… Và anh, dưới lòng đất lạnh, anh có ngột ngạt không, anh có cảm thấy dễ chịu hơn khi sống trên đời với những tháng ngày phải lận đận làm việc lo cho vợ con, gia đình, các em, người thân trong bối cảnh xã hội như thế? Anh ơi! Đã trên phần tư thế kỉ, anh vẫn nằm đó. Những người thân hàng năm vẫn lên thăm anh, thắp nén hương, tưởng nhớ những ngày xa xưa ấy, Có anh Tuấn Nguyễn