ỗi khi nói đến Huế, tôi lại nghĩ ngay đến chữ lụt. Ngày còn trẻ thơ, tôi nào biết rằng lụt là thiên tai, là mất mát thương đau! Lụt đối với tôi là những ngày vui được nghỉ học, được nghịch ngợm chơi đùa với nước. Có một năm lụt, tôi lội nước chơi sau vườn và thấy có một chú cá con, chắc từ sông Hương nước tràn lên trôi lạc vào nhà tôi, mắc kẹt trong một vũng nước. Tôi thích quá thò tay xuống tính bắt nó. Nhưng mà chú cá lanh lắm. Tay tôi mới đụng tới mặt nước bên trái là chú bơi qua bên phải. Tôi qua bên phải thì chú quảy đuôi vọt về bên trái. Bao giờ nó cũng nhanh hơn tôi một chút. Cứ như vậy gần nữa tiếng đồng hồ, không bên nào chịu thua bên nào. Tôi mê con cá này quá, nhứt định phải mang nó vô nhà nuôi, nên chạy kiếm một cái tô thiệt to tính rằng phen này sẽ hốt chú lên dễ dàng. Tính là như vậy, nhưng khi ra tới nơi thì… chú đã đi mất rồi. Ý chừng chú biết tôi có vũ khí lợi hại nên bơi đi chỗ khác. Tôi buồn lắm. Mấy ngày sau đó cứ ra chỗ vũng nước cũ chờ chú cá con trở về, hay là có chú cá khác đi lạc vô đây cũng được. Tôi đứng đó thề với cái vũng nuớc với hy vọng là chú cá nếu còn quanh quẩn đâu đây sẽ biết tôi không muốn bắt chú nữa, chỉ muốn chơi cút bắt với chú như hôm nọ mà thôi. Nhưng chú cá con không hề trở lại. Tôi còn quá nhỏ để hiểu rằng khi cá đã ra sông rộng thì còn quay lại ao cạn mà làm chi! Sông Hương ư? Nói tới Huế mà không nói tới sông Huơng thì khác chi nói đến Paris trong một đêm bị cúp điện, hay bóng đá thế giới mà thiếu Ba Tây? Tuy vậy, sông Hương đẹp ở đâu, mơ mộng chỗ nào tôi vẫn còn mù mờ lắm. Với cái kiến thức nhỏ nhoi của tôi, sông Huơng chỉ là một đọan ngắn chảy ngang qua ngôi trường làng. Những buổi chiều tan học tụi tôi đứng sẵn trên bờ chờ những tàu tuần duyên chạy trên sông. Khi tàu chạy ngang trường, những người lính Mỹ trên đó ném xuống sông những trái táo hay cam Mỹ. Tụi tôi bèn ùa xuống sông bơi ra dành giựt nhau. Tôi nhỏ và bơi dỡ ẹt nên chẳng bao giờ dành được trái cam nào cả. Có một thằng bự con và bơi khỏe nhứt, khi nào cũng giành được vài quả, nhưng nó không bao giờ ăn. Sau này tôi mới biết nhà nó nghèo lắm. Những trái cây nó bơi giành được, đem về cho mạ nó đem ra chợ bán phụ thêm vào chi tiêu gia đình. Huế cũng là cái nôi tranh đấu của Phật Giáo. Có một dạo bỗng nhiên nhà nhà đồng lượt khiêng bàn thờ ra đường …tranh đấu, rồi bãi khóa, rồi đình công, bãi thị vv… Không biết người lớn tranh đấu thế nào, chứ lũ con nít tụi tôi thì thích lắm. Dễ hiểu thôi, vì bàn thờ thì phải có chuối, cam, quit cúng Phật chứ. Tụi tôi chỉ chờ chạng vạng tối bèn nhào ra, vái Phật một cái xin phép, xong rồi khiêng hết trái cây trên bàn thờ chạy lại một chỗ kín đáo nào đó hưởng lộc đã đời. Nhưng mà chưa có mục nào vui bằng mục này. Không hiểu bắt nguồn từ đâu và vì chuyện gì mà mỗi nhà đều có một thùng thiết và thanh củi để sẵn trước nhà. Giữa đêm đang ngủ mà nghe tiếng thùng thiết vang lừng từ đầu xóm, tức là có “báo động”, “có chuyện”. Chuyện chi? Không cần biết. Tôi luôn luôn là người đầu tiên trong nhà dành cái thùng để đập một cách hăng say nhất. Thông thuờng thì sáng hôm sau người ta sẽ hỏi lẫn nhau “ Hồi hôm báo động chuyện chi?” Ai mà biết nà!. Huế trong tôi cũng có những người thật đáng nhớ Người đầu tiên tôi nhớ là Thằng Vui Điên. Tôi gọi là “ thằng” theo như mọi người gọi nó, chứ thật ra nó lớn hơn tôi nhiều. Nó khoảng chừng 16, 17 tuổi. Tôi nhớ là thằng Vui Điên không kể trời mưa hay nắng, bao giờ cũng chỉ cái quần đùi màu đen, ở trần trùng trục với tấm thân rắn chắc và đen đúa. Điểm đặc biệt của Vui Điên là nó chạy nhanh lắm. Nó thường đợi có chiếc xe hơi, hay xe gắn máy nào chạy qua là nó hùng hục chạy đua, và hình như bao giờ nó cũng thắng. Thằng Vui Điên có một lối kiếm ăn vô cùng độc đáo. Mỗi ngày nó ra đường kiếm một hàng bánh nào đó đợi bà hàng lơ đãng một chút là nó chụp cái bánh chạy. Nó đâu cần chạy đâu xa, chỉ vài bước là nó dừng lại trả cái bánh. Đố bà nào mà dám lầy lại, vì cái bánh đó đã bị nó…nhổ cho một bãi nước miếng rồi. Lấy lại bán cho ai? Một lần tôi theo chị tôi ra chợ. Trong lúc chờ chị mua đồ, tôi đứng tần ngần nhìn hàng bánh bò, thèm thuồng muốn ăn mà không có tiền mua. Lúc đó thằng Vui Điên từ đâu rà tới ra dấu có ý hỏi tôi muốn ăn bánh phải không-(Trời ơi, ai nói nó điên?)- Tôi gật đầu. Nó chạy lại hàng bánh, bất ngờ chụp một miếng, xong chạy lại cho tôi. Chưa kịp cắn miếng nào thì chị tôi về tới thấy tôi lấy miếng bánh của thằng Vui Điên, sợ quá giựt miếng bánh quăng xuống đất. Chị ấy sợ tôi không biết, ăn cái bánh có dính nước miếng của thằng Vui Đìên sẽ bị lây…bệnh điên. Chị trừng mắt mắng nó “ Vui Điên, mi không được chọc em tau” Thằng Vui Điên không biết sợ trời sợ đất nào cả, mà chỉ sợ…con gái. Chị tôi so ra còn nhỏ hơn nó vậy mà chỉ trừng mắt một cái nó tiu nghỉu bỏ đi một mách. Tội nghiệp. Tôi thấy rõ ràng nó giựt miếng bánh xong là chạy một mạch tới cho tôi. Có nhổ chút nước miếng nào đâu? Tôi vừa tiếc cái bánh vừa tội nghiệp Vui Điên. Tôi thấy nó bỏ đi nhưng còn quay đầu lại nhìn tôi như muốn hỏi nó cho tôi cái bánh, và muốn chơi với tôi, tại sao lại đuổi nó đi? Tôi thương thằng Vui điên quá mà không biết phải nói sao! Mụ Trung bán đậu hủ nước đuờng chắc cũng chưa già lắm đâu, chỉ vì cuộc đời tần tảo bán buôn làm nét mặt mụ trở nên cằn cổi và mái tóc sớm điểm sương. Mỗi trưa chúng tôi hay ngồi chờ tà áo dài tím thướt tha của mụ xuất hiện ở đầu xóm với tiếng rao “ Aaiìi đâu hủ”. Cho đến khi xa lìa Huế, tôi mới biết đó là cái độc đáo chỉ có quê tôi mới có những mụ hàng chè, o trứng vịt lộn, già hay trẻ đều đi bán hàng với chiếc áo dài. Gánh đậu hủ mụ Trung một đầu là cái tỉn chứa đậu hủ, còn đầu kia là rổ đựng đầy chén,muỗng, đường, nước rửa chén, vv… Mụ có một cái bệnh gọi là bệnh LIỆU. Bệnh này kỳ lắm, cứ hể thấy ai làm cái gì môt hồi là cũng sẽ bắt chước làm theo, không cưỡng lại được. Hồi đó tôi còn nhỏ nào biết gì, theo mấy đứa bạn tinh nghịch. Sau khi ăn đậu hủ xong tụi tôi đứng lên vừa nhảy vừa la “ nhảy! nhảy!!!” thế là mụ Trung cũng nhảy và la theo “ nhảy!nhảy!!!”. Tội nghiệp mụ. Tụi tôi con nít nhảy mấy cũng không sao, nhưng mụ Trung thì mới nhảy chút xíu đã mệt thở phì phò phải ngồi phệt xuống đất, vậy mà cũng cứ nhấp nhỏm muốn đứng dậy tiếp tục nhảy theo tụi tôi. Một lần có anh ba gai muốn chọc mụ Trung thiệt rắn mắt. Anh ăn đậu hủ xong bỗng đứng dậy làm bộ như đang lấy tiền trong túi quăng ra và nói “Quăng tiền!! Quăng tiền”. Mụ Trung cũng đứng dậy la “ quăng tiền quăng tiền!!!”, và giữa lúc mụ sắp sửa lấy tiền quăng thiệt thì không hiểu sao … bỗng tỉnh lại. Mụ lấy cái đòn gánh phang cho anh ba gai đó một cái nên thân vô lưng, vừa rượt anh ta chạy vừa chửi “ Quăng tiền cái mả cha mi chứ quăng tiền”. Cho nên, Mụ Trung tuy bệnh như vậy, nhưng đừng hòng ai làm hại được mụ. Còn gì nữa? Còn nhiều lắm. Nhưng điều cuối cùng tôi nhớ về Huế là một buổi sáng mưa bay bay, có một thằng bé ôm khư khư trưóc ngực một cái mền, trong đó cuộn vài bộ quần áo tại một nơi đưọc gọi là phi trường Phú Bài. Nó tần ngần nhìn qua cửa kiếng thấy chiếc máy bay đậu ngoài kia dưới con mưa phùn mà lỏng sợ sệt không yên. Chiếc máy bay đó chút nữa thôi sẽ mang nó bay lên bầu trời cao về một miền xa thật xa, và ở nơi thật xa đó sẽ không có Vui điên, hay mụ Trung nữa. Và chắc cũng sẽ hết những ngày lội nước lụt, chơi cút bắt với con cá nhỏ sau vườn. Nó chỉ không ngờ rằng chuyến bay đầu đời đó sẽ kéo dài đến ba mươi năm sau… (ThaiNC)