ời nói đầu: Đối với các cô chú, anh chị đã đi học Nữ Trung Học, Võ Tánh hay Lê Qúy Đôn cũng như trong phong trào Hướng Đạo Nha Trang thì có lẽ không ai không biết đến Thầy Cung Giũ Nguyên, một nhà văn, một giáo sư và một huynh trưởng có tên tuổi. Tôi không là học trò của Thầy, tôi cũng không ở trong hướng đạo Nha Trang, nhưng tôi gọi thầy bằng Tông (Tonton), hay là Bác. Tôi may mắn còn giữ những bức thư của Bác gởi cho tôi từ khi tôi đi ra nước ngoài. Một trong những bức thư đó Bác viết như một câu truyện ngắn với lối văn hài hước dí dỏm và rất thật như khi Bác cháu nói chuyện với nhau. Bác đã qua đời hơn ba năm rồi, bức thư này tôi nhận được hơn 12 năm trước khi Bác mất, tôi nghĩ rằng đến lúc tôi nên chia xẻ với mọi người, như một món quà đầu xuân gởi đến những người có lòng với Thầy Cung Giũ Nguyên. Cũng thật tình cờ, ngày hôm nay tôi đọc được một bài viết về Thầy Cung Giũ Nguyên của tác giả Nguyễn Thành Thống, người đã dịch cuốn tiểu thuyết Le Fils de la Baleine của tác giả Cung Giũ Nguyên sang tiếng Việt, cuốn sách mà Bác có nhắc đến trong bức thư gởi cho tôi. Xin đính kèm theo đây để mọi người cùng đọc. Xin phép anh Nguyễn Thành Thống cho phép NH đăng bài viết của anh ở đây. Xin cám ơn. Nguyệt Hạ ° ° ° Nha Trang, ngày 5 tháng 3, 1996 Con thương mến, Tông thật có lỗi vì để đến hôm nay mới trả lời cho con và Thầy con. Thời gian cuối năm thật là bận rộn, tiếp đến là Tết với khách khứa, với những giao tế bất đắc dĩ, đến thư từ tồn đọng suốt năm cần phải thanh toán được cái nào hay cái ấy. Chưa nói đến công việc khác như giảng dạy cho các sinh viên Đại học Sư phạm Pháp văn. Người nào nghe nói thế chắc hẳn nghĩ đến chuyện bịa đặt vì nghĩ ông già gần chín mươi tuổi mà còn bận rộn được như thế à? Mù lòa, điếc lác, lẩm cẩm, cù lần, mà còn dạy cái gì nữa? Mà sự thật là như vậy đó. Rồi nghe ông ấy làm việc trên máy vi tính (ở đây người ta gọi PC (personal computer) là như vậy, nơi khác còn dùng danh từ: máy điện toán), kể cả cháu Sa ở Úc, cũng chuyên môn tín học cũng phải “kinh hoàng”. Có người khi thấy Tông làm việc, hỏi đã đi học khóa nào chưa mà xử dụng rành như vậy? Làm sao trả lời? Họ có thể tin khi mình nói, trước khi nhập vào thế giới thích thú và hợp thời đại này, Tông nhờ Sa gởi cho một lô sách (thứ sách tiếng Anh khá đắt tiền, có cuốn đến 100 US$, mà năm sáu cuốn như vậy về Computers, Information Systems, DOS encyclopedia, Windows, Word Perfect, Basic, Pascal, Norton Utilities v.v…., thế là Tông đọc say mê, như đọc tiểu thuyết, và đến khi máy về, là Tông đã biết đôi chút để dùng, và vừa dùng, vừa học thêm, học thêm nhờ những Help hay Readme có trong máy, và học thêm nhờ những sai lầm của mình nữa. Nói mình tự học cũng không mấy người tin, nhưng kể ra, những cái gì tào lao Tông biết được đôi chút, là tự mình có thôi… Trong quá khứ, khi Tông được người ta cho một cái xe hơi củ, Tông nạp hồ sơ xin thi bằng lái xe, Ông chánh kỷ sư công chánh, (thời đó thì đó là cơ quan chức năng, nay thì Công An lo việc cấp bằng lái) không cho phép thi, nói một cách khác tha cho Tông việc đi thi, mà chỉ gởi lên bằng lái có đủ dấu và chữ ký. Chuyện kỳ lạ ấy xảy ra, chỉ vì người ta biết trọng lời nói, và biết tin cậy lẫn nhau. Có lẽ ông ấy nghĩ: Thầy ấy có xe, xin thi để lấy bằng lái…chắc hẳn là đã biết lái xe rồi. Quả vậy, từ năm ấy, và suốt gần hai mươi năm cho đến 1975, (khi bánh xe vì thời cuộc đã phải đổi thành bánh tráng), Tông đã lái một mình cái Xì tô mà con chắc đã thấy bóng dáng, đi cùng vào Hậu giang, lên Cao nguyên, mà chưa hề “đụng nhẹ” ai cả, kể cả những chó hay bò qua đường. Chuyện chẳng khác chuyện tiếu lâm là khi trường Đại học Duyên Hải làm lể tốt nghiệp, nhà trường yêu cầu giáo sư Tông mặc áo mão cải lương Hồ quảng, mặc dù giáo sư Tông chẳng phải là tiến sĩ, mà cho đến nay, chẳng ai tố cái trò bịp bợm dài dài ấy, và đến năm con Chuột cống này, cũng vẫn còn bịp được thiên hạ, như ngồi chụp hình trước máy, làm ra có vẻ như thông thạo lắm về tín học và máy vi tính. Tông có biểu ai tin đâu. Nhưng vì con đang học Computer, thì Tông có người nói chuyện được, vì dùng một thứ ngôn ngữ như nhau, và hơn thế nữa nay mai Tông có vấn đề gì không hiểu và tìm trong sách không thấy, Tông sẽ hỏi con. Tông may mắn hiện có một cái 486 DX 66 có cài vào ổ cũng đủ thứ dùng, nhân về phần Tông, chủ yếu là dùng MS-Winword, để soạn văn bản. Như con đoán, máy rất tiện lợi cho công việc của Tông: như soạn sách, sửa đi, sửa lại, rất tiện, nhanh chóng, không tốn và không phí phạm giấy mực, như trước kia dùng typewriter. Một công việc đang làm nữa là chép lại vào đĩa mềm tất cả bản thảo chưa xuất bản, mà số lượng không phải nhỏ, có gần hai mươi cuốn; có người muốn giúp đánh giùm, nhưng Tông không muốn, Tông thích tự làm lấy, vì trong khi đánh lại còn có thể sửa chửa, nếu cần. Như vậy, không chiếm chổ nhiều, và khi nào đưa cho nhà xuất bản, chỉ cần đưa cho họ một copy… Như thế đó, con có thể đoán Tông phải tốn bao nhiêu thì giờ trước máy. Ai không rõ, tưởng chắc ông già giải trí với Games, (phần này để cho mấy cháu nhỏ, cũng như Autocad hay Corel để cho cháu Ly dùng vẽ những họa đồ chuyên môn vì cháu làm Hỏa xa. Tông không cần nâng cấp máy, vì nhu cầu của Tông không đòi hỏi. Tông cũng có một cái máy in khiêm tốn Canon Bubble Jet, tuy chạy chậm, nhưng cũng đáp ứng được nhu cầu… Về Software, Saigon có bán đủ loại, cũng dễ mua thôi. Tông chỉ còn mong ước trong năm nay cài thêm một Multi-media để có thể dùng CD-Rom và những Audio-Video. Tông mừng về ý định của con sẽ viết thư khi có thì giờ, đó là điều vui cho Tông. Trong mấy năm qua, chắc là con có rất nhiều chuyện kể lắm, biết đâu, thư con lại không trở nên dữ liệu qúy hoá để làm đề tài hay khêu gợi đề tài cho một cuốn truyện khác của Tông. Mới rồi đây, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội đã xuất bản bản dịch Le Fils de la Baleine (1), rất tiếc Tông không gởi biếu con được. So với Thái Huyền (2), cuốn sách cũ này có vẻ dễ đọc hơn, nhưng thật ra trong đó cũng có nhiều đoạn cũng đòi hỏi việc dừng lại để nghĩ đến ý nghĩa đã được gói ghém với một bề ngoài phỉnh phờ. Giám đốc nhà xuất bản, trong lời giới thiệu, xem sách ấy là một bông hoa thuộc loại quý hiếm của văn học Việt Nam, và ông mừng sau mấy mươi năm sách ấy, lưu lạc ở xứ người, đã trở về với độc giả tiếng Việt, làm cho ta có thể nghĩ ông mừng như thể thằng Mổ (nhân vật trong tiểu thuyết) sau bốn mươi năm tản cư ở nước ngoài, nay đã “tình nguyện” hay bị cưỡng bách hồi hương vì các trạm tiếp cư phải đóng cửa. Nói đến đây, tông nghĩ ra cảnh con ở trại tỵ nạn năm nào. Cái ảnh con chụp với ông Hoàng Lào, tông nhìn không nhận ra con, vì nét mặt thay đổi hẳn, so với ảnh của con ngồi nơi Tháp Bà; ảnh con gởi sau này, và có lẽ xưa hơn một chút, vì là vào năm 19..., con trong áo cưới đứng bên cạnh chàng, thì có vài nét nhận ra quen hơn, đặc biệt là nụ cười. Thì chuyện đời, biến đổi cũng bình thường thôi, nhưng phải nói sắc đẹp đã không mất đi chút nào (ôi, cái văn nịnh để mượn tiền đó!) Thầy con, qua tấm ảnh ngồi trên sông cho Tông còn yêu đời. Đúng như vậy, có thể nói còn yêu đời hơn xưa, vì có còn bao nhiêu ngày đâu, phải yêu đời mãnh liệt hơn nữa chứ, ít ra cũng phải bằng Ông, người mà bà con ở đây phân bì về hạnh phúc. Thôi con may mắn, là tông cao hứng, đánh cho con bao nhiêu dòng trên. Chúc con mạnh khỏe, học hành tấn tới, làm ăn phát đạt, và nuôi hy vọng một ngày gần đây về thăm lại quê hương đã đổi mới. Bắt tay anh của con. Đừng quên biên thư cho tông. Thương và nhớ, Tông Tác phẩm Cung Giũ Nguyên 1- Le Fils de la Baleine, roman. –DER SOHN DAS WALFISCHS- KẺ THỪA TỰ ÔNG NAM HẢi, tiểu thuyết. 2 - THÁI HUYỀN, tiểu thuyết. – LE BOUJOUM, roman. ------------------------------------------ Vĩnh biệt Thầy Cung Giũ Nguyên Tôi không phải là học trò của thầy. Nhưng tôi vẫn gọi thầy xưng con với thầy vì sự uyên bác và tuổi tác của thầy. Tôi đã từng nghe danh của thầy từ rất lâu, nhưng mãi đến năm 1987 tên của tôi mới được vinh dự đặt bên cạnh tên của thầy khi tôi dịch cuốn Autour de la lune (Bay quanh mặt trăng) của Jules Verne, in ở Nhà xuất bản Tổng Hợp Phú Khánh. Thế rồi mãi đến những năm đầu của thập niên 90 tôi mới được gặp thầy. Câu chuyện như thế này. Đầu năm 1990, lúc đó tôi đang là biên tập viên của Nhà xuất bản Khánh Hòa, tôi được phân công biên tập một cuốn sách dịch của tác giả Cung Giũ Nguyên. Đó là cuốn Le Fils de la Baleine, người dịch là Nguyễn Văn Hùng, tức Cung Giũ Hốt, em ruột của tác giả Cung Giũ Nguyên. Tôi đã đọc nguyên bản tiếng Pháp trước, sau mới đọc đến bản dịch. Tôi thấy khoảng cách giữa nguyên bản với bản dịch quá xa, nên tôi đã yêu cầu người dịch dịch lại, nhưng người dịch không đồng ý và đã rút bản thảo về. Một tuần sau tôi có dịp đến làm việc với một cộng tác viên rất nổi tiếng của Nhà xuất bản Khánh Hòa. Đó là Thầy Cung Giũ Nguyên. Tôi còn nhớ rất rõ. Khi tôi gõ cửa nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang, một ông cụ trông rất khỏe mạnh, ở trần, mặt quần pijama, chân mang vớ. Tôi nghĩ trong đầu cây cổ thụ đây, nhưng tôi thắc mắc vì sao ở trần mà lại mang vớ. Về sau ông cụ mới cho biết: ở trần là để cho mát, nhưng phải mang vớ là để khỏi bị muỗi cắn chân khi ngồi làm việc. Ngay từ đầu tôi đã thoáng thấy cái nét hài hước của ông cụ, một đặc điểm mà ít người nhận ra, vì khi nói đến Cung Giũ Nguyên thì thường người ta nghĩ ngay đến một ông trưởng giả khó tính hút píp xách ba-tông đi giày tây. Ông cụ hỏi tôi: Cái gì vậy? Thưa: Con ở bên Nhà xuất bản muốn gặp thầy. Ông cụ nhìn bộ dạng của tôi rồi phán: Năm phút thôi! Đúng là cao đạo. Nhưng không phải thế. Hôm đó tôi đã được hầu chuyện ông cụ gần hai tiếng đồng hồ. Cuối buổi ông cụ cho tôi biết sở dĩ có cái lệnh năm phút thôi kia là vì ông cụ thấy rằng quỹ thời gian của mình còn ít quá, chứ không rỗi rãi như tôi. Khi biết được danh tính của tôi, ông cụ hỏi: Có phải anh là người đã chê bản dịch của Nguyễn Văn Hùng không? Thưa: Dạ phải. Hỏi tiếp: Chê người khác mà mình có làm được không? Tôi biết mình đã nhảy lên lưng cọp rồi. Vốn có máu hung hăng của bọn trẻ tôi thưa ngay: Dạ thưa, nếu thầy đồng ý thì để con làm thử. Lệnh tiếp: Thế thì về làm đi! Đến lúc này thì tôi mới thấy mình đã lỡ dại rồi. Thì giờ đâu? Cả ngày tôi làm việc và ở lại luôn tại Nhà xuất bản, chiều mới đạp xe đạp mười cây số về Trường Trung Học Phổ Thông Hoàng Hoa Thám Diên Khánh, nơi tôi tạm trú cùng với vợ con tôi; ở đó lúc bấy giờ ban đêm điện đóm không ổn định chút nào. Thế nhưng tôi đã cố gắng tốc hành trong vòng một tháng để dịch cho xong cuốn sách của ông cụ. Và tôi đã dịch tựa sách Le Fils de la Baleine thành Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải thay vì dịch sát chữ là Người Con Trai của Cá Ông. Tôi rất hài lòng về cái tên mới này của bản dịch. Ngoài ra tôi cũng rất khổ công nhưng hài lòng khi chuyển được những câu ca dao miền Trung cũng như những phần trích bài ca bả trạo, mà cụ đã lược dịch sang tiếng Pháp, trở lại tiếng Việt đúng với nguyên bản. Khi đến trình cho cụ bản dịch, cụ bảo hai tuần nữa quay trở lại. Nhưng một tuần sau tôi lại có dịp đến làm việc với cụ. Cụ bảo: Xem xong rồi. Thưa: Có được không ạ? Trả lời: Được. Thưa: In được không ạ? Trả lời: Được chớ! Thế là tôi về lo thủ tục xuất bản. Đối với Nhà xuất bản của chúng tôi thì không có gì khó khăn. Nhưng khi trình lên Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, thì tôi được biết qua Trưởng phòng biên tập, "Hay dở không cần biết sách của Cung Giũ Nguyên không được in ở Nhà xuất bản Khánh Hòa!". Tôi vốn tánh liều mạng nên gửi bản thảo thẳng ra Nhà xuất bản Văn Học Hà Nội. Giám đốc Nhà Xuất bản Văn Học lúc bấy giờ, nhà thơ Lữ Huy Nguyên, không những đã đồng ý cho phép xuất bản mà còn viết lời giới thiệu. Còn một việc hy hữu khác nữa là ở trang bìa 3 tôi có ghi ở đầu trang: VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM. Bên dưới hàng tít này tôi ghi: CUNG GIŨ NGUYÊN. Giám đốc Nhà xuất bản Văn Học vẫn duyệt. Thế có nghĩa là CUNG GIŨ NGUYÊN được công nhận là nhà văn Việt Nam và tác phẩm Kẻ Thừa Tự của Ông Nam Hải được thừa nhận là Văn Học Hiện Đại Việt Nam. Một kết quả ngoài dự định của cụ, vì sau 1975 cụ không được công nhận là nhà văn Việt Nam, trong khi thế giới vẫn công nhận cụ là một nhà văn học giả Việt Nam. Còn một mắc mứu khác đó là phần lớn các tác phẩm của cụ được viết bằng tiếng Pháp cho nên nhiều người cho rằng những tác phẩm đó không được xem là thuộc Văn Học Việt Nam. Tôi có đem việc này hỏi ý kiến của cụ thì cụ cho biết tiếng Pháp chỉ là một phương tiện diễn đạt còn nội dung vẫn là bản chất và bản sắc Việt Nam. Phần tôi thì tôi cho rằng nếu sách của cụ mà viết bằng tiếng Anh thì có lẽ Việt Nam ta đã đoạt giải Nobel về Văn Học từ lâu rồi. Tuy đã có giấy phép xuất bản từ năm 1991 nhưng mãi đến năm 1995 cuốn sách mới được in và phát hành. Lý do là vì lúc bấy giờ các cơ sở hợp tác xuất bản mà bây giờ được gọi là các công ty văn hóa không biết Cung Giũ Nguyên là ai cả; người ta lại còn thấy ngại một cuốn tiểu thuyết do một người Việt viết bằng tiếng Pháp lại được dịch trở ngược lại sang tiếng Việt. Một chuyện thấy sao lạ đời, mà lạ đời thì không ai dám mạo hiểm; ôm vào chắc là khó bán ra. Ít ai biết được rằng tác phẩm Le Fils de la Baleine suýt được giải Goncourt của Pháp nếu không có cuộc ganh đua của các Nhà xuất bản ở Pháp. Và học giả nổi tiếng người Pháp Daniel Rops đã từng ca ngợi tác phẩm này. Phần cụ thì sau khi bản dịch được xuất bản cụ đã có lời cám ơn tôi vì theo lời cụ, tôi đã có công đưa thằng Mỗ (nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết) sau bao năm trời phiêu bạt bên Pháp bên Canada về lại Việt Nam. Sau khi bản dịch có mặt để độc giả Việt Nam có thể đọc và biết thêm một tí về tác giả Cung Giũ Nguyên thì thầy tin tưởng khả năng của tôi hơn và thầy đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt. Tôi đã từng nói chuyện với thầy hàng giờ về nhiều vấn đề, và tôi cũng đã từng ngồi hàng giờ nghe thầy nói những suy nghĩ, những công việc thầy đã làm đang làm và sẽ làm. Tôi có thể lục tung tủ sách của thầy, một việc không ai được phép làm ngoài tôi. Thầy đã từng muốn tôi dịch cuốn Le Fils de la Baleine sang tiếng Anh. Tôi có thưa rằng tôi vốn là người cầu toàn cho nên tác phẩm đó phải do chính một dịch giả người Mỹ hoặc người Anh biết tiếng Pháp dịch thì tốt hơn. Gần đây yêu cầu đó đã được đáp ứng. Tôi đã giới thiệu với thầy anh bạn của tôi cũng là thầy dạy Aikido của tôi, Âu Dương Di, một Việt kiều Mỹ biết tiếng Pháp đã từng sống ở Mỹ 30 năm rất quen thuộc với việc viết lách dịch thuật; ngoài ra Âu Dương Di còn là học trò cũ của thầy. Bản dịch đã hoàn thành. Nhưng rất tiếc bản dịch tài hoa và chính xác này chưa được xuất bản trước khi thầy mất. Cũng xin nói thêm tác phẩm Le Fils de la Baleine đã được dịch sang tiếng Đức từ rất sớm. Theo tôi, công trình trước tác của Thầy Cung Giũ Nguyên thật đặc sắc và đa dạng. Le Fils de la Baleine chỉ là một tác phẩm đã được xuất bản, cho nên có ưu thế được nhiều độc giả biết tiếng Pháp thưởng thức. Có thể nói đó là một tác phẩm dễ đọc. Thầy còn có những cuốn tiểu thuyết rất Việt Nam và dễ đọc khác nhưng tiếc là chưa được chuyển sang tiếng Việt. Một cuốn khảo luận đã được xuất bản và rất nổi tiếng nhưng độc giả Việt Nam chưa có dịp đọc, đó là cuốn Volontés d'existence. Những năm sau 1975 thầy đã tốn rất nhiều thời giờ và công sức để nhập vào máy vi tính của mình những trước tác trước đây của thầy. Ngoài ra thầy vẫn tiếp tục sáng tác. Chúng ta hãy tưởng tượng một cụ già trên chín mươi ngày đêm vẫn cặm cụi bên máy vi tính thì mới thấy được sức làm việc và gương làm việc của thầy. Đa số những tác phẩm viết sau 1975 là những trước tác viết bằng tiếng Việt, nhưng chưa được xuất bản. Có một số người đã có dịp đọc những tác phẩm này qua hình thức in photocopy lưu hành nội bộ. Nhân đây tôi cũng xin lưu ý. Có thể nói, đại tác phẩm của thầy là cuốn Le Boujoum. Theo thiển ý của tôi thì đây mới là đỉnh cao sự nghiệp của thầy. Đó là một cuốn tiểu thuyết dày hơn sáu trăm trang viết bằng tiếng Pháp sau 1975. Ban đầu thầy đã nhờ một người Pháp đánh máy, nhưng sau mấy mươi trang thì người này đã bỏ cuộc vì đọc không hiểu gì. Sau đó thầy đã tự đánh máy, khi đánh máy xong thầy đã gửi cho tôi một bản với ý muốn nhờ tôi sửa lỗi chính tả và thực tế thầy đã nhờ tôi chuyển sang tiếng Việt. Nhưng rất tiếc vì quá bận công việc, tôi đã không làm được việc này. Về sau chính thầy đã chuyển sang tiếng Việt và tác phẩm có tên là Thái Huyền đã được xuất bản ở Mỹ, nhưng chỉ được một phần. Có lẽ vì không bán được nên việc xuất bản phần hai phải dừng lại. Nguyên bản tiếng Pháp Le Boujoum đã được Cung Giũ Nguyên Center ở Mỹ xuất bản nhưng theo tôi vẫn dưới hình thức lưu hành nội bộ. Tôi đã có lần thổ lộ với thầy không biết mươi năm nữa người ta có thể đọc hiểu cuốn sách của thầy không. Nói lên điều đó tôi muốn liên tưởng đến hai tác phẩm Ulysses và Finnegans Wake của James Joyce, một thần tượng văn học của tôi. Thực tế thì lối viết của James Joyce và của Thầy Cung Giũ Nguyên rất giống nhau. Đương nhiên một bên là mộng một bên là thực có khác nhau nhưng cái thực của thầy được viết như thể là mộng. Thưa thầy, con vẫn tin rằng bây giờ thầy vẫn có thể đọc được những hàng chữ này của con. Hơn hai năm nay con đã quyết tâm giảm bớt lui tới nhà thầy để rồi một năm nay con đã ngưng hẳn việc lui tới nhà thầy. Con đã nói với thầy quyết tâm này rồi. Con là một mẫu người sentimental. Con sẽ rất đau khổ khi đi ngang nhà thầy mà không còn thầy ở đó. Thế nên con phải giảm bớt đi chuyện lui tới này để may ra tình cảm của con đối với thầy sẽ xuống thang từ từ và phần nào, ngõ hầu khi thầy không còn ở nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang đó nữa thì con bớt đau khổ hơn. Hôm nay quả thực con đã thấy suy nghĩ và quyết định của con là đúng. Bài viết hôm nay chỉ có tính chất thời sự chưa phải điều con đã từng hứa với thầy là con sẽ viết một cuốn sách dày về thầy để cho người ta thấy tính chất uyên bác, nhân văn, nhân bản, sâu sắc, tài hoa, và nhất là hài hước trong tác phẩm và trong con người của thầy. Con biết người ta ngộ nhận về thầy nhiều lắm. Thầy cũng biết rằng có rất nhiều tác giả văn hoc tài ba đã không nhận được giải Nobel Văn Học. Bây giờ thì CCC (Chim Cánh Cụt cũng có nghĩa là Chưa Chịu Chết) đã chịu chết. Requiescat In Pace. NGUYỄN THÀNH THỐNG. (Nha Trang ngày 8/11/2008. Sau cơn mưa trời lại sáng.)