Chị là con cả của một gia đình có mười bốn người con. Bởi vậy, ngay từ thuở bé, chị đã phải lao động rất vất vả. Mười tuổi chị đã xay được thóc. Cái cần cối xay cao ngang mũi chị được nối với cây luồng ở mái hiên bằng sợi dây thừng to đen và sần sùi. Tối tối, cơm nước xong, bắc nồi cơm rượu lên bếp là chị lại xay thóc. Chị đứng choãi chân, tay hơi với lên một chút và kéo. Cái cối quay ù ù.
Mẹ chị bảo xay thóc phải kéo cho tròn, đừng kéo hình vuông, lâu lắm. Chị vừa quay vừa đếm. Cứ xong độ năm lần một trăm thì hết cối. Lúc ấy, nồi cơm cũng vừa cạn. Suốt từ sáng cho tới khuya, chị làm quần quật: xay thóc, nấu cơm, ủ rượu, nấu rượu, chăn lợn, trồng rau, xay thóc... Từ năm mười tuổi đến năm mười bảy tuổi chị cũng chỉ làm có ngần ấy thứ việc. Lặng lẽ quay như cái cối xay, có khi cả ngày chị chẳng nói câu nào. Năm chị mười tám tuổi, em gái chị lấy chồng rồi sinh con cùng với mẹ. Hôm mẹ chuyển dạ, chị thức suốt đêm. Chị thấy đau đẻ thật là khổ. Mẹ chị mồ hôi túa ra, hai tay túm chặt song cửa sổ trạm y tế, nghiến răng, ghì xuống. Chị thương mẹ lắm. Lúc ấy, chị nghĩ tại sao mẹ lại phải đẻ nữa? Rồi thoáng qua rất nhanh trong đầu chị một nỗi lo sợ: sau này chị cũng phải đau đẻ như thế. Nhưng rồi chị xấu hổ không dám nghĩ tiếp. Hôm sau, chị định xưng tội nhưng lại đắn đo mãi. Không biết nghĩ như thế có phải là có tội hay không?
Chẳng biết nghĩ thế là có tội hay không nhưng mỗi khi nhìn đứa con của người em gái còn đỏ hỏn bọc trong cái tã, đầu đội mũ hoa có cái riềm trước trán, chị lại xúc động. Đứa trẻ vừa đẻ ra, mắt đã to sáng, cái nhìn thì trong veo như Đức Mẹ đồng trinh. Những ngón tay bé xíu, nhăn nheo bị buộc chặt vào trong tã, thi thoảng quẫy ra được, huơ huơ trước mặt chị. Chị thường ngồi ngắm cháu thật lâu. Chị nghĩ đau đẻ chỉ một lúc nhưng lại được đứa con. Từ độ ấy, chị thấy trong người khác hẳn. Có đêm chị mơ thấy mình chửa. Bụng phình to như cái nồi nấu rượu, đi lại rất khó khăn. Thế rồi lúc đang xay thóc, tự nhiên bụng chị xì xì như nồi rượu bị nứt, phả hơi rượu thơm nồng. Chị lấy bát cám trét bụng lại nhưng càng trét nó càng lở. Hơi rượu làm tay chị bỏng rát rồi teo lại, nhăn nheo như tay đứa trẻ mới đẻ. Sáng dậy, chị bực mình lắm. Lúc cho lợn ăn xong, chị tự tát vào má mình một cái. Chỉ tại mình nghĩ bậy nên mới mơ ngủ như thế. Đêm đó, chị ngồi đọc kinh đến một giờ sáng.
Đầu mùa thu năm ấy, xứ đạo Tân An xây lại nhà thờ. Các em chị một buổi đi học, một buổi thay nhau đi làm. Chị nghĩ xây nhà thờ là việc chung, và chị muốn nghỉ vài ngày việc nhà để tham gia. Mẹ chị bảo thế cũng được. Công việc ngoài nhà thờ chẳng nặng nhọc gì. Chỉ gánh đá, gánh gạch, trộn vữa và xách hồ khi thợ gọi. Trước khi đi, mẹ chị nhắc nhở: "Đội thợ xây này là dân ngoại đạo nên phải chừng mực, tuyệt đối không được cười đùa trêu chọc". Nhớ lời mẹ, ra đến nơi là chị lặng lẽ làm. Thế nhưng là phòng thế thôi chứ chẳng thấy ai trêu chọc gì. Quãng độ ba tháng thì nhà thờ xây xong phần thô. Việc hoàn thiện lại do một nhóm thợ khác, giỏi hơn, chuyên trang trí, đảm nhiệm. Một em gái nữa của chị đi lấy chồng. Việc trong nhà dồn lại nhiều hơn.
Một hôm, lễ xong, chị rẽ vào nhà thờ mới. Nghe nói người ta đắp nổi các tích trong kinh thánh đẹp lắm. Đang vơ vẩn, chị bỗng nghe tiếng gọi giật giọng: "Cô gì kia, giúp tôi một tay". Quay lại tiếng gọi, chị thấy một anh thanh niên đứng cạnh cái thùng to. Lẳng lặng đi đến khênh hộ, mắt chị vẫn nhìn xuống đất. "Ấy, cẩn thận kẻo dây ra áo cô đấy". Chị ý tứ giữ lấy vạt áo dài, thầm nghĩ: Giọng anh ta khác quá, nghe ấm mà gần gũi như người quen. Lúc đến nơi, đặt cái thùng xuống đất, liếc vội người thanh niên, chị kịp nhận ra anh ta thật nhiều râu, đã cạo nhưng vẫn xanh rì khắp mặt. Chị vội vã ra về.
Hôm sau, rồi hôm sau nữa, chị muốn kiếm cớ để ra nhà thờ. Chị muốn nhìn xem có đúng mặt anh ta nhiều râu như thế hay không. Nhưng chẳng có cớ gì cả. Thế rồi chị tự trách mình. Nhiều râu thật thì đã sao. Anh ta lại là người ngoại đạo. Mẹ đã dặn. Mình không được để ý. Thực ra thì mình cũng mới nhìn anh ta có một lần chứ có để ý gì đâu. Mình muốn biết xem hôm ấy nhìn có đúng không thôi. Rồi chị tự bảo không được nghĩ nữa. Nhưng khi dọn chuồng lợn, con nái Móng Cái cọ vào chân buồn buồn, chị lại nghĩ đến khuôn mặt đầy râu của anh thợ. Vô lý nhỉ. Người ta có râu làm gì mà lắm thế? Rồi chị lại gạt đi, biết cũng chẳng để làm gì.
Thế rồi nhà thờ cũng kịp khánh thành trước lễ Giáng Sinh. Mọi người háo hức chuẩn bị cho ngày lễ trọng. Chị ủ thêm một nồi rượu mỗi ngày. Hôm hồi công thợ, chị gánh rượu ra nhà thờ. Đám thợ đang ngồi ngay trước tiền sảnh gọi chị: "Thơm quá, cô em ơi, rượu hả?". Chị im lặng nghiêng nón nhưng khẽ liếc tìm khuôn mặt nhiều râu mà chẳng kịp nhìn thấy gì cả. Tự nhiên chị thất vọng rồi mắng mình: Rõ là vớ vẩn. Thế nhưng trong lúc phụ giúp nấu nướng, chị vẫn cố ý tìm. Chị muốn nhìn thấy khuôn mặt ấy, nghe lại giọng nói ấy. Để làm gì thì chị cũng chẳng biết. Cũng như vì sao nhà chị lại nấu rượu. Vì sao các em chị đã đi lấy chồng mà chị thì chưa. Chị thấy cuộc đời này có quá nhiều cái khó hiểu. Có cái diễn ra hằng ngày, cả trong con người chị mà chị cũng không lý giải được.
Năm ấy, chị hai tư tuổi. Hai tư tuổi mà vẫn chưa lấy chồng là đã bắt đầu muộn. Chị không thắc mắc vì sao không có ai đến hỏi mình. Ngày ngày công việc cứ êm ả trôi. Chị chăm chỉ và cần mẫn. Mỗi năm hai con nái cho bốn lứa lợn con. Lợn mẹ khoang đen. Lợn con trắng bạch. Mỗi ngày một nồi rượu, một nồi cơm. Mỗi nồi rượu lấy năm lít. Cơm nấu xong dỡ nguội thì trộn men. Mùa nóng sáu viên. Mùa lạnh tám viên. Ủ hai ngày thì vào nước. Ngâm hai ngày thì nấu... Chị như một cỗ máy thành thạo. Mọi người trong gia đình xem đó là sự phân công rất tự nhiên, không cần thay đổi. Có lúc chị nghĩ rồi mình cũng phải lấy chồng chứ. Nhưng lấy ai thì chị không thể nghĩ được. Chị không có bạn. Trong xứ có dăm bảy người cùng học với chị đến lớp năm giờ đã con cái đề huề. Có một người đi xa, còn một người làm lò vôi bị đá lăn dập chân rồi bị vi trùng uốn ván chết năm ngoái. Lứa con trai lớn tuổi hơn chị trong xứ cũng chẳng còn ai. Lấy sang xứ khác thì xa xôi mà chị cũng chẳng quen biết là mấy. Có lần chị vô tình nghe cha mẹ chị bàn nếu vài năm nữa không có ai hỏi thì cho chị vào nhà thờ giúp việc cho các sơ. Chị nghĩ thế cũng được!
Nô-en năm ấy trời không rét, lại sáng trăng. Từ bé đến giờ chị chưa thấy Giáng Sinh nào lạ như thế. Mười giờ đêm chị tranh thủ về xem mấy đứa em tiếp bạn bè thế nào để còn trở ra nhà thờ cho kịp. Vừa bước vào cổng, chị đã thấy trong nhà có người lạ mặc com-lê đang ngồi nói chuyện với mẹ chị. Chưa kịp đi tạt vào chỗ khuất, chị đã nghe người đó lên tiếng: "Hạo về đấy à?". Ai mà lại biết mình nhỉ? Chị đành phải đi vào nhà. "Nhận ra mình không, mình là Tuân, Tuân Đạt đây". Thì ra Tuân con ông Đạt, trước cùng học với chị. "Nghe nói ở đâu xa lắm cơ mà". Tự nhiên chị lúng túng rồi buột ra một câu trống không. Bởi tại chị không biết xưng hô thế nào. Bây giờ người ta đã là cán bộ, người ta có học, mình không thể một bè một lứa được. Chưa bao giờ chị lúng túng đến như vậy. Những người đàn ông mà chị tiếp xúc chỉ là những người quen trong xứ, không chú bác thì cậu dượng, mà không nữa thì cũng chỉ là những người mua rượu của chị ngoài chợ. Họ chỉ bảo chị đong đầy lên hay tại sao hôm nay rượu sốc thế. Quá lắm họ trêu chị vài câu đại loại lấy anh không về nấu rượu cho anh uống, hay rượu ngon nhỉ, người cũng ngon... Những lúc ấy, chị lặng lẽ làm dấu rồi ngồi xịch sang chỗ khác trong hàng rượu là xong.
Thế nhưng trước một người cùng xứ, cùng học, chị lại ngượng ngập. Tiếng là học cùng nhưng hồi ấy bé quá, lại lâu rồi nên chị chẳng ghi nhận gì. Đại khái là có mấy đứa con trai mặt nhem nhuốc như nhau, áo quần dây đầy mực như nhau. Da đen nhẻm và tóc khét lẹt, cả trai cả gái. Hết lớp năm chị ở nhà. Lứa học với chị rơi rụng dần, duy có Tuân vào học cấp ba, rồi học trung cấp tài chính kế toán trên tỉnh và đi làm ở cơ quan nhà nước. Đấy là chị vừa nghe Tuân nói thế chứ chị có biết gì đâu. Chị ngồi lấy tay di vệt nước trên bàn thành hình tròn rồi méo rồi vuông, im lặng nghe Tuân nói. Một lúc sau, ngẩng lên rót nước cho Tuân, chị chợt nhận thấy mặt Tuân cũng đầy râu, cũng đã cạo sạch nhưng cũng lộ ra đám xanh kéo từ mang tai xuống cằm và cổ. Chị thoáng xúc động. Chị thấy mình thật vô duyên. Từ lúc ấy trở đi, chị không dám nhìn vào mặt Tuân nữa. Tuân hỏi chị đủ thứ chuyện, chị đáp dè dặt. Trò chuyện được một lúc, giọng Tuân nghiêm lại: "Này, mình nói thật lòng, Hạo đừng giận. Phải lấy chồng đi. Phụ nữ không lấy chồng là không ổn đâu". Chị cười, nụ cười không vui cũng chẳng buồn, cũng chẳng phải xã giao vì chị không biết cười xã giao bao giờ cả. Hình như chị xấu hổ. Chưa ai nói một cách thẳng thắn như thế với chị. Ở xứ này, trai gái không tán tỉnh nhau, không bay bướm hoa lá. Họ thinh thích nhau, cha mẹ đi dạm hỏi. Thế là cưới. Thế là thành vợ chồng, sinh con đẻ cái, đứa nọ nối tiếp đứa kia, rất tự nhiên. Chị chưa thấy mình thích ai bao giờ. Đơn giản vì chị bận bịu quá. Suốt ngày lo lỏm công việc. Nhà chị lúc nào cũng sạch sẽ ngăn nắp. Đám vườn nhỏ quanh năm xanh tốt, không một cây cỏ, không một tí đất để không. Vài năm lại đây, người ta bỏ dần cối xay tre để xay máy nhưng nhà chị thì không. Gạo nấu rượu chỉ cần xay lứt. Với lại cái cối bao đời gắn bó nay tự nhiên phá bỏ đi cũng không đành. Thế là tối chị vẫn xay gạo, nấu cơm rượu. Rồi bận bịu cưới em trai, cưới em gái, giúp làm nhà cho em, chăm em gái em dâu sinh nở. Mùa Giáng Sinh này nối mùa Giáng Sinh khác, thời gian lặng lẽ trôi qua. Chị cũng không biết có ai thích mình hay không nhưng nghe những lời Tuân nói, chị biết Tuân thương chị. Có thể với người có học thì tình thương của họ rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, chị không thể biết hết nhưng chị hiểu chị là người đáng thương. Tự nhiên chị thấy Tuân lớn lao vĩ đại như Cha xứ, gần gũi thân thiết như người bạn gái mà chị chưa có bao giờ.
Hai ngày sau, Tuân sang chào chị để lên tỉnh. Lúc ra đến cổng, Tuân nói vọng lại: "Tết mình về Hạo phải lấy chồng đấy nhá!". Tết mình về! Chị thấy lòng xôn xao. Bấy giờ đã vào tháng mười một ta. Hơn một tháng nữa là Tết.
Thế mà đã hơn mười mùa Giáng Sinh nữa đi qua. Chị vẫn thế. Suốt ngày quần quật. Nhưng đêm thì không. Chị thấy đêm dài hơn rất nhiều. Nỗi cô quạnh không hề ý thức như màn sương mỏng mùa thu cứ ngấm dần, ngấm dần khiến người đi đầu trần ngoài đêm thấy mình ướt tóc lúc nào không biết. Đêm không trôi qua bình lặng để sáng ra thấy mình tràn đầy sinh khí. Chị khó ngủ. Chị thấy mình có những thèm khát tội lỗi và bậy bạ. Những thèm khát rất mơ hồ. Cũng phải thôi. Giấc ngủ đến với chị chập chờn đầy mộng mị. Nhưng hình như giấc mơ nào cũng có Tuân. Có lần chị mơ thấy chị và Tuân đi trên cánh đồng toàn rau bắp cải. Tuân quàng tay ôm vào eo chị, kéo mặt chị về phía mình. Khi chị quay lại thì thoắt cái khuôn mặt Tuân biến thành con quỷ râu ria xồm xoàm. Chị hoảng quá, bỏ chạy nhưng những sợi râu trên mặt con quỷ dài ra như cái vòi bạch tuộc quấn lấy chị. Chị ngã dúi dụi xuống luống bắp cải thì lập tức bắp cải không còn là bắp cải nữa mà thành những cái đầu trẻ con đội mũ riềm hoa lòe xòe. Nhân danh Cha và con và Thánh thần. A men! Chị làm dấu liên tục. Quỷ sứ đang hành hạ mình đây. Lạy Chúa, xin người hãy xá tội cho con, những tội lỗi trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Người là đấng sáng láng thấy hết mọi việc. Chúng con cầu xin Người. Chúng con chịu ơn Người. Chúng con thờ phụng Người. Chị lầm rầm cầu nguyện trong bóng tối dày đặc và nặng trĩu. Lòng u uẩn. Sự u uẩn chỉ có từ ngày người bạn học cũ về khuấy lên trong chị những nỗi niềm mới lạ, những ý thức về bản thân và cả những tình cảm rất ngọt ngào với người khác giới. Tuân về, ném một hòn sỏi xuống mặt hồ bình lặng gây nên những xao động. Và thời gian là cơn gió cứ thổi mãi vào vòng sóng đó làm nên những con sóng cồn cào triền miên.
Tết năm ấy, Tuân không về quê. Anh về nhà bạn gái. Bạn gái anh là dân ngoại đạo, người thành phố, xinh lắm, ăn diện lắm. Chị chỉ nhìn thấy có hai lần. Một lần Tuân đưa về dịp lễ Chầu lượt. Lúc ở trong nhà thờ, chị thấy cô gái lạ cách chị một dãy ghế, mặc quần bò, áo phông đen cho vào quần, môi tô son đỏ chót. Mọi người đứng thì cô ấy đứng, quỳ thì cô ấy quỳ nhưng mắt thì lim dim và môi không hề mấp máy. Nghĩa là không đọc kinh. Khi mọi người lên quyên tiền giúp nhà thờ mua nhạc cụ, chị thấy cô ấy móc tiền trong áo lót ngực đi lên. Lần khác, chị nhìn thấy khi họ về làm lễ cưới ở nhà thờ. Dịp ấy là ra Tết. Họ đi xe máy từ trên tỉnh về. Tuân mặc bộ com-lê, ngực đính bông hồng bạch. Cô dâu mặc váy trắng lòe xòe rất rộng. Đường làng mấp mô, Tuân chạy xe từ từ. Cô dâu một tay ôm eo Tuân, một tay vén váy. Trẻ con reo hò chạy theo hàng đoàn. Hôm ấy, chị trằn trọc mãi không ngủ. Chị vẫn biết rằng Tuân là cái gì đó vời vợi lung linh và thiêng liêng lắm. Chị không thể sờ mó, không thể với tới, càng không thể giữ lấy cho mình. Nhưng chị vẫn buồn. Một phần vì cảm giác mất mát. Cái người hiểu mình, thương mình không còn biết đến mình nữa. Một phần vì cảm thấy chốn thiêng liêng ấy bị một bàn tay phàm tục vấy bẩn. Nhưng biết làm sao, mỗi người một số phận. Chúa đã an bài. Thế nhưng đêm đêm, chị vẫn cầu nguyện cho Tuân hạnh phúc.
Tháng bảy. Nắng và nóng. Từng đợt gió Lào táp khô cây cối. Sờ vào cái gì cũng thấy nóng ran. Trước cái khắc nghiệt của thời tiết, người ta có thể sẽ bao dung, dễ dàng thông cảm với nhau hơn nhưng cũng có thể dữ dằn độc ác hơn. Người Thiên Chúa thường răn mình tránh cái xấu, cái ác. Thế nhưng không phải lúc nào cái ác cũng lộ rõ mình là quỷ Sa Tăng...
Duyên - em gái thứ chín của chị sinh con đầu lòng. Chị đến cháo lão, giặt giũ rồi lại về lo đàn lợn, nồi rượu ở nhà mình. Trời nắng nóng thế này người uống rượu cũng ít đi, chị nấu thưa hơn. Tối hôm đó, chị ở lại nhà Duyên. Thời tiết đã bắt dịu lại. Cả ngày chịu cái nóng hầm hập của gió Lào, lại phải nằm úp bụng trên chõng tre, dưới quạt ba nồi than hừng hực, Duyên thấy người như rang. Thằng bé thì cứ khóc ngằn ngặt, giờ mới ngủ. Sự mỏi mệt khiến cô ngủ thật say, lại thêm trời đã chuyển nồm nên Duyên mê mệt, không biết chuyện tày đình đã xảy ra trong nhà cô, ngay cái gian bếp ngoảnh mặt vào khoảng sân nhỏ này.
Lúc ấy độ gần một giờ sáng. Trăng cuối tháng sáng trong. Trời không một gợn mây. Gió hiu hiu thổi như ru, như vỗ về an ủi mọi người đã phải chịu cái nắng nóng suốt cả ngày. Đó là đặc ân của Chúa. Ân sủng đó ban phát cho tất cả. Nhưng với quỷ, đó lại là cơ hội. Con quỷ dữ không ngủ. Nó hậm hực suốt hai tháng nay rồi. Nó thấy bức bách và khó chịu. Trời thì nóng. Đứa trẻ thì hay khóc. Nhưng cái chính là nó thèm. Nó thèm cái món mà suốt hai năm qua hầu như hôm nào nó cũng dùng. Khi biết mọi người đã say giấc, nó nhấc cửa bếp lẻn vào, phăm phăm bước tới cái giường kê sát cửa sổ. Ở đó, có người chị vợ hơn ba mươi tuổi vẫn chưa chồng.
Chị say sưa ngủ. Khuôn mặt sạm lại vì dãi dầu, vì tuổi tác của chị giãn ra, thư thả. Bầu ngực trinh nguyên nhẹ nhàng nâng lên hạ xuống đều đặn theo nhịp thở. Chị thấy mình đang đi ra biển. Bãi cát dài và mịn. Gió biển thổi tung tóc tung áo chị. Gió mơn man trên da thịt. Thật khoan khoái và dễ chịu. Chị thấy người nhẹ bỗng, như bay lên. Chị bay thật. Trên vai chị có đôi cánh như thiên thần chao liệng. Những ngôi nhà nhỏ đi. Những cánh đồng xanh mát rì rào. Và gió thật nhiều. Gió thổi chị lúc một cao. Lâng lâng. Bồng bềnh. Nhưng cảm giác ấy bỗng đứt phựt như khi chị chống cái chày để vét gạo trong cối mà cái chày đột nhiên rơi xuống, dập cả tay chị. Chị thấy mình đau nhói. Chị muốn hét lên thật to nhưng không sao hét được. Người ta bảo hiện tượng ấy là bị mộng đè. Người yếu tim ngày làm việc nặng đêm ngủ thường bị mộng đè. Lúc ấy phải có người lay dậy thì mới tỉnh không thì mệt lắm. Chị láng máng nghĩ là mình bị mộng đè. Rồi chị lấy hết sức vùng dậy. Thì ra... Chúa ơi!
Cảm giác ban đầu là bụng dưới nằng nặng, chương chướng. Ngực thì căng, đau như sắp đến tháng. Rồi người cứ nôn nao. Ngửi mùi gì cũng khó chịu. Mùi rượu. Mùi cơm ủ. Mùi hành tỏi. Chị giấu mọi người trong nhà để ọe. Nhưng chị không giấu được mẹ chị. Người đàn bà mười sáu lần mang thai, mười bốn lần sinh nở. Đêm, bà kéo chị xuống nhà ngang đóng chặt cửa lại. Cuộc hỏi cung bắt đầu:
- Dạo này chị làm sao thế?
- Có sao đâu ạ.
- Có sao là làm sao. Chị không giấu được tôi đâu. Chị đổ đốn ra từ bao giờ thế. Chị nói cho tôi biết, chị với thằng nào?
Thì ra mẹ chị đã biết, đã khẳng định cái điều chị chỉ linh cảm mà chưa dám chắc. Chị tức tưởi khóc. Rồi vỡ òa ra. Đã bao lần chị muốn nói hết với mẹ nỗi đau đớn, tủi nhục này. Nhưng chị không nói được.
- Không nói ra chị không yên với tôi đâu. Ai đời gần bốn mươi tuổi đầu rồi lại khốn nạn như thế. Nhà này nề nếp từ bao đời nay.
Rồi bà khóc. Vừa khóc vừa làm dấu. "Chị rước quỷ về nhà rồi".
Quỷ. Quỷ đã về nhà này. Đúng vậy! Nhưng ai là quỷ? Em rể chị? Chị? Hay đứa con trong bụng chị?... Con! Mình sẽ có con! Một đứa trẻ nhỏ xíu sẽ ra đời, đi lại, lớn lên trong cõi đời này. Không. Chị sẽ không nói gì hết. Chị sẽ có con. Chị sẽ bảo vệ con chị. Chị sẽ nuôi nó lớn lên. Nó không có tội. Nó không phải là quỷ dữ. Chị muốn có nó. Muốn ôm nó vào lòng. Cho nó bú. Nghe nó khóc đêm. Nhìn thấy nó chập chững tập đi, rồi bập bẹ gọi chị bằng mẹ. Chị muốn hình hài chị đang ủ trong người được lớn lên, đi lại giữa cõi đời này. Sự sợ hãi, cảm giác khủng khiếp về cái đêm hôm ấy đã qua. Chỉ còn lại một khát khao cháy bỏng, một ham muốn mãnh liệt: Làm mẹ!
Nhưng chị sẽ nói với mọi người như thế nào đây?
Một buổi trưa, đang ngủ, chị chợt nghe tiếng người khóc, tiếng rì rầm to nhỏ. Linh cảm mách bảo liên quan đến mình, chị rón rén lại gần. Trong bếp, mẹ chị và hai dì. Khuôn mặt mẹ nhàu nhĩ, nghiêm trọng. Cả ba nước mắt dàn dụa. Chị nghe tiếng được tiếng mất. "Con Hạo... đứa bé... không thể... bí mật... nếu không phải tính... Chúa sẽ...". Chị bàng hoàng sửng sốt. Người ta định làm gì con chị thế này. Lạy Chúa, nó còn chưa ra đời. Mồ hôi rịn ra rồi chảy thành dòng trên khuôn mặt khắc khổ nám sạm của chị. Chị thấy đau tức ở bụng rồi nhói lên ngực, rất khó thở. Cảm giác như có bàn tay đang nắm lấy tim chị mà bóp chặt và một tay khác thì tống vào bụng. Tất cả quay cuồng, ngột ngạt. Chị ôm bụng, quỵ xuống. Một ý nghĩ thoáng nhanh trong chị: Đến rồi! Chị sắp có con. Chị sẽ được chăm bẵm vỗ về như đã từng vỗ về những đứa em, đã chăm bẵm đàn cháu đông đúc của mình. Chị lầm rầm cầu nguyện. Rồi sẽ qua, sẽ qua thôi.
Vâng! Tất cả rồi cũng sẽ qua thôi. Những kiếp người lầm than ở chốn trần gian phàm tục và tội lỗi này. Cát bụi sẽ lại trở về với cát bụi. Và những linh hồn nhỏ bé kia sẽ bay lên.
Chị khó đẻ. Nhưng những người đàn bà đã qua nhiều lần sinh nở kia thì không hiểu như thế. Họ bảo chị yên tâm. Cố lên. Họ sẽ đỡ đứa bé ra an toàn. Chị chẳng việc gì phải lo. Họ đẻ nhiều rồi. Tự đỡ cho mình nhiều rồi. Hãy nói ra ai là bố đứa bé. Nào cố lên. Bây giờ mà ra trạm xá thì lộ hết mọi chuyện. Ai đã làm chuyện ấy. Cố lên, nào, bố đứa bé là ai...
Không. Hãy để Chúa trừng trị kẻ có tội. Chị đột ngột vùng dậy, quỳ sụp xuống. "Hãy để con nuôi đứa bé. Nó không có, không có...". Chị không thể nói hết câu. Khuôn mặt tái xám đông cứng lại.
Người ta vội vàng đưa chị lên bệnh viện huyện. Nhưng không kịp nữa rồi...
Trưa hôm sau, xóm Đạo lặng lẽ cúi đầu đưa tiễn hai linh hồn tội lỗi. Đi trước là những lá cờ phướn. Tiếp theo là cỗ xe tang chở quan tài lớn. Theo sát là quan tài nhỏ. Đoàn người lầm lũi đi như sự lầm lũi của họ để qua cái kiếp ngắn ngủi ở chốn trần gian tạm bợ này. Chúa sẽ rộng lòng đón họ về với Người.
..."Hãy để ngày ấy lụi tàn. Ngày mà tôi ra đời và cái đêm người ta nói rằng có một con người được kết thành thai"...
P.T.L

Xem Tiếp: ----