Tôi nghe nhiều người nhắc đến bài thơ Bến My Lăng của Yến Lan. Ừ! Sao người ta yêu thích bài thơ này đến thế nhỉ? Nghe nói trước đây, vì thích mà có họa sĩ dựa vào ý thơ đã vẽ cảnh Bến My Lăng của ba tôi rất thơ mộng và tràn trê lảng mạn nữa kia. Còn nghe rằng bức tranh ấy đang ở đâu đó trong nhà của một người thuộc dòng giõi quan lại ở Huế.
Nó là cái bến nào ở quê An Nhơn-Bình Định của tôi vậy?. Bến ấy đẹp và lạ lắm chăng? Sao lại có quá nhiều người tìm về “Bến My Lăng” ấy để chiêm ngưởng vậy? Người ta đọc rồi suy luận, mỗi người tự giải thích theo cách nghĩ của riêng mình, thật thi vị!
 Nhà thơ Thanh Thảo thì nghĩ: “Bến My Lăng- hình như ở trong mơ, dưới ánh trăng bạc xám, ám ảnh trên Thành cổ Đồ Bàn. Có thể là một bến sông của một cô gái người Chàm, của một ông lái đò không tên, không tuổi, quên quá khứ, không nghĩ tới tương lai, ông lái đò của thời khắc hiện tại, của dòng sông trôi chảy. Bến My Lăng ở đâu? Có lẽ bến sông ấy chỉ có trong thơ Yến Lan, trong những tầng sâu nhớ quên của nhà thơ. Đừng giải thích, đừng định vị
“Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu”
 Ở đời đủ giàu như Thạch Sùng, thì cũng không qua được cái trăm năm đong đưa, như đùa, như thật “Chỉ những câu thơ còn xanh”. Yến Lan mãi còn Bến My Lăng của ông, cái bến riêng của linh hồn ông, với tiếng gọi đò tha thiết, tiếng gọi đò như đến từ cõi khác, từ một đời sống khác:
”Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò-thôi, run rẫy cả ngành trăng”
(Trích trong BDNS-21  “Nhà thơ của một bến sông” của Thanh Thảo)
 Còn Từ Quốc Hoài: “Đã chắc chắn rằng “Độc giả Việt Nam biết đến Yến Lan trước hết với Bến My Lăng. Mười bảy tuổi, Yến Lan trình làng một thi phẩm mà chỉ riêng nó thôi đủ làm nên tên tuổi một thi sĩ. Vào năm nhà thơ ra đời (Bính Thìn 1916), cảnh nhật thực, nguyệt thực xảy ra nhiều vùng trên thế giới trong đó có Việt Nam. Cuộc đấu tranh sinh tử xóa bỏ ách nô lệ, giành độc lập  cho xứ sở. Những sự kiện lớn lao ấy có sức chấn động trong ông, làm ông ý thức được tính chất vô thường của cuộc sống, cái đẹp, cái cao cả có thể bị xâm hại cần được bảo vệ.
Bến My Lăng là nỗi niềm khắc khoải về một quyền năng huyền nhiệm, khả dỉ mang lại hạnh phúc cho con người. Bến My Lăng giống như một giấc mơ. Một ông lão lái đò u buồn đợi khách trên một bến sông đầy trăng. Không có khách, ông thả hồn chơi vơi tận “bến trăng cao”, tự làm thanh bạch mình ở cái “bến trăng” trong tâm tưởng ấy. Chàng kỵ mã nhung y hào nhoáng, có vẻ một kiếm sĩ không phải là người khách mà ông lái đò mong đợi.
Ông lão vẫn say trăng đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng… 
“Yến Lan-cốt cách một đời thơ”)
Còn thế hệ trẻ đã nghĩ gì  khi về “Bến My Lăng”:
Trên chương trình Vầng trăng cổ Nhạc lần thứ 6 ở đài  HTV9, người dẫn chương trình đã đưa khán giả đến với bài thơ bằng lời mở đầu:
“Trong nền Văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ tả về trăng, nhưng bài thơ tả về trăng hay nhất là “Bến My Lăng” Khi nói đến Bến My Lăng thì phải nói đến Yến Lan và nói đến Yến Lan thì phải nói về Bến My Lăng “
Cảm nghĩ về “Bến My Lăng” còn nhiều lắm.., những nhận xét mang đậm tính nhân văn và mơ mộng, nhưng tôi không thể đưa hết vào bài viết này.
Đã gợi trong tôi sự tò mò không kém.
Tôi bắt đầu vào cuộc tìm hiểu và lắng nghe những người lớn kể. Có lần tôi hỏi nhà thơ, và được ông kể vài nét sơ khai thuần khiết sự ra đời của bài thơ:
“Cuộc sống nghèo khó đã cướp đi sức lực và tuổi trẻ của bà nội tôi. Trước khi mất, bà ốm nặng lắm, không ăn được gì ngoài thứ bánh canh nấu với tôm mua ở chợ. Chợ xa, phải qua một lần đò. Sợ bánh canh nguội mẹ không ăn được, sợ trẻ chăn trâu chặn đánh đổ hết bánh canh về nhà mẹ không có ăn; Vì vậy ba hối hả gọi ông lái đò-chính là cậu của ba, thường neo đậu ở bên kia sông. Tiếng gọi đò của ba: -Đò ơi! ơi đò!. Lần nào cũng vậy, khản cả cổ mà cậu không nghe thấy, bởi hai bờ sông quá rộng, tiếng của ba thì nhỏ, phả đều trên mặt sông thành những làn sóng lăn tăn như ru thêm cho cậu ngủ ngon giấc hơn. Dẫu vậy, ba vẫn phải gọi, tiếng gọi đò tha thiết, như giục dã, như hối hả, nó ăn sâu vào tìm thức của ba. Lớn lên, có thêm chút triếc lý, cộng với thực tế của cuộc sống, ba viết bài thơ này và tiếng gọi đò đã vào thơ:
“Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
 Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”
..
 “Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng”
Tôi hỏi về nghĩa bóng của bài thơ”. Ông cười, mà rằng: “Viết bài thơ này ba muốn nói về cái gọi là hạnh phúc của con người. Đời người ai cũng có quyền ước mơ. Có người mơ về vật chất, tiền tài danh vọng. Có người chỉ mơ được sống trong một gia đình mà niềm vui được chia sẽ. Hoặc ông giải thích hạnh phúc là khi nhu cầu được thỏa mãn, giống như Thằng Bờm nghèo chỉ có cái quạt mo, gặp lúc đói quá, đâu dám mơ gì cao sang, mỹ vị, ba bò chin trâu, nó chỉ mơ có cục xôi đỡ đói lòng.
Còn ông lái đò trên Bến My Lăng quê của thi sĩ, mơ có khách, dù chỉ một người để được làm cái nhiệm vụ đưa sang bờ bên kia sông.
Nếu tất thảy ước mơ nhỏ, lớn thành hiện thực có nghĩa là niềm hạnh phúc đến. Ở bến sông này, người dân sống dưới thời phong kiến khổ lắm, họ không có tiền để qua bên chợ mua sắm nên bến sông lúc nào cũng vắng khách. Ông lái đò đợi hoài đợi mãi mà chẳng thấy một ai. Sự chờ đợi làm ông mỏi mệt, ngủ say. Say đến nỗi quên rằng cái thực của ước mơ đã đến với mình.
“Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
 Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
 
Trong khoảnh khắc chớp nhoáng ấy, ông lái đã không hay biết để đón lấy niềm hạnh phúc nhỏ nhoi kia và giữ lấy nó; ông đã để vuột mất trong tầm tay niềm hạnh phúc mong manh bất chợt đến  mà mình phải chờ đợi “Suốt cả bao trăng”
Đề cập đến cái triết lý của bài thơ, ba tôi dặn thêm: “hạnh phúc không phải lúc nào cũng phụ thuộc bên ngoài. Nó ở bên trong ta. Chỉ có những gì do bàn tay lao động của mình làm nên thì ta mới ý thức được hạnh phúc đáng quí đến thế nào và mới biết trân trọng gìn giữ nó. Ta đừng bao giờ chờ đợi người khác mang hạnh phúc đến cho mình, ít có điều ấy lắm. Mà nếu có thì không thể bền bằng chính bàn tay mình gầy dựng nên. Ông cha ta dạy “Đừng chờ sung rụng” đó thôi.
Gần đây, anh Can con bà chị của thi sĩ - người được ông viết bài tứ tuyệt “Khi chị đi lấy chồng” đã lay động con tim của bao độc giả; có chút vốn chữ Hán, luận ra vì sao nhà thơ đặt tên  bài thơ là “Bến My Lăng”:
Về chữ My Lăng  Nếu viết đúng nguyên chữ là “My –bơ –lăng”. Viết theo chữ Nôm là “My blăng” My=lông mày -> có hình cong.
“Quê ngoại tôi nằm trên khúc sông cong”
“Thuyền ai về đậu khúc sông eo
Blăng: suy từ chữ Nôm có nghĩa là trăng.
Vậy từ chữ “My-bơ-lăng” thành My Lăng. Có thể hiểu là
“Bến sông trăng”
Và chính trên bến sông này, nhà thơ được sinh ra, sẽ không có lần thư hai cho bất cứ ai trên cõi trần.
Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau, trở dạ không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng
(trích Bệnh trăng 1938-1939)
Chẳng thế mà thơ của Yến Lan chứa đầy trăng. Tuổi thơ ông luôn được ánh trăng vàng ngàn đời vây phủ chở che.
Võng mẹ ru hời dưới mái hiên
Hương đồng cỏ nội-mặc, kề bên
Tôi nằm trong vũng ca dao lạnh
Đón những vầng trăng mẹ vớt lên.
Trăng đi từ tóc, đi vào máu
Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân,
Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá
Như má yêu môi, đến đến….gần
Tôi đã thành người mắc  “bệnh trăng”
Chiều mây sớm nắng mỗi bâng khuâng
Chỉ riêng báo hiệu niềm vui đến
Khi ứng lòng đêm một ngấn hằng.
“Trích Bệnh trăng”
(Rút trong tập Mưa bay)
TTTN số 16
 Ngày 31 tháng 3 năm 1985, đoàn quay phim nhà báo Thụy Kha về An Nhơn, cùng đi còn có nhà thơ Thanh Thảo, nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ  Nguyễn Trọng Tạo. Gặp Yến Lan ai cũng hỏi về cái bến trong tâm tưởng này.
 Nhà thơ Yến Lan vẽ phát họa lên chiếu rồi giải thích y như trên. Vì thế người yêu thơ đã hiểu vì sao nhà thơ lấy tựa cho bài thơ của mình là “Bến My Lăng”.
 Và bộ phim tư liệu sau đó, mang tên “Yến Lan – Một bến sông trăng”
Bến My Lăng
My Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn râu
Ông không muốn run người ra tiếng địch
chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao
vì đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ rải trăng… trăng
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh
để đêm buồn vây phủ bến My Lăng
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng…
  “Bài thơ khép lại một Bến My Lăng đầy trăng lạnh, và đã bao trăng ông lái buồn đợi khách.
  Bài thơ có sức ám ảnh. Ngôn ngữ thơ nhẹ bổng như được chiếu sáng lung linh bởi ánh trăng huyền ảo. Nhưng cái tình của bài thơ thì rất thật. Chính cái tình ấy đã neo Bến My Lăng vào lòng người ngay từ khi mới ra đời.” TQH
Nhiều người còn cho rằng, có một khía cạnh nữa, làm người yêu thơ và nhất là người Bình Định mê say bài thơ. Đó là do cái - âm thanh mà nhà thơ đã đưa vào thơ đầy kịch tính mang đậm màu nhân văn - Âm thanh đó chính là tiếng gọi đò tha thiết của chàng kỵ mã trong một đêm đầy trăng.
  Theo sự hiểu biết rất hạn hẹp của tôi thì trong giai đoạn từ 1930 đến 1945 có hai bài thơ chứa đựng những âm thanh.
Bài thứ nhất chứa những âm thanh dồn dập “hối hả”, những âm thanh như oán trách, những âm thanh làm run rẫy cả ngành trăng. Đó là tiếng gọi đò mãi mãi vang vọng trên “Bến My Lăng” của nhà thơ:
“chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
 sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”.
Bài thứ hai là những âm thanh não nùng của hàng trăm con quạ, giữa đêm khuya đang ngủ, bỗng có tiếng động đã thức dậy cất tiếng kêu hoảng loạn, ầm ỹ. Những con quạ này, đập cánh ào ào trong đêm tối “bóng lẫn đêm khuya tiếng rộn ràng”. Tiếng quạ kêu thật rùng rợn, thật ấn tượng. Đó là tiếng quạ trong “Đêm thu nghe quạ kêu” của bác Quách Tấn. Cái tiếng của cả một bầy quạ kêu từ bờ tre trên sông Côn nằm trên chặng đường từ An-Vinh đi về Phú Phong đã gây cho bác Quách Tấn một ấn tượng mạnh mẽ làm cho cả đời ông nhớ mãi. Chỉ nghe tiếng quạ kêu mà bác đã viết một bài thơ đường rất nổi tiếng nọ.  Nhưng, nếu so sánh tiếng quạ kêu của bác Tấn với tiếng gọi đò của Chàng Kỵ Mã áo xanh của nhà thơ Yến Lan thì nhiều người ưa tiếng gọi đò của Yến Lan hơn. Nó thể hiện sự độc đáo mà nhà thơ Yến Lan đã gieo vào lòng người đọc, khiến họ nhớ mãi về cái bến hoang tưởng trong hư vô của thị trấn An Nhơn không dứt, khiến họ liên tưởng đến tiếng ếch kêu đã làm Tú Xương giật mình ngỡ là tiếng gọi đò trước đây
“Đêm nghe tiếng ếch bên tai
 Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
  Tất thảy những điều đó đã khơi dậy một niềm tự hào về mảnh đất của quê hương Bình Định ở nơi sâu, tận đáy lòng nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Liễn, bằng 2 câu đối dưới dạng 4 câu thơ viết tặng nhà thơ Yến Lan
Bến My Lăng, bến ấy ở đâu?
Trời tĩnh mịch, trăng rơi vàng, thuyền đợi khách
Đất Bình Định đất này lạ nhỉ!
Rượu ân tình, hoa tư tưởng - xứ lên men./.

Xem Tiếp: ----