Trước đây quán rất đông khách nhưng từ ngày kinh tế khó khăn xe du lịch qua lại không nhiều, chỉ còn bọn trẻ địa phương thỉnh thoảng ra tắm biển, khi mệt nằm dài trên bãi cát trước quán. Đôi lúc họ cũng vào quán mua vài lon nước ngọt, nhưng hình như họ là sinh viên nên không tiêu xài rộng rãi như những du khách, nhất là du khách Việt kiều. Những buổi chiều vắng lặng bà chủ quán chỉ biết buồn buồn thở dài, và cô tiếp viên cũng buồn không kém, hết đứng lại ngồi, phủi bụi bàn ghế ngoài mái hiên, mặc dù chúng vẫn sạch sẽ vì mới được lau chùi.
Ông ta thường tới vào những lúc hoàng hôn, ngồi tại cái bàn ngoài cùng gần bãi cát và chỉ gọi độc nhất một món cà phê sữa. Ông ta ngồi đó nhìn ra biển, trầm lặng đến u buồn, và hầu như không biết đến người xung quanh. Ly cà phê nhiều khi còn nguyên vẹn khi ông ta đứng lên ra về.
Khi ông ta tới lần đầu tiên Liễu tường ông ta cũng chỉ là một du khách như mọi người. Ông ta đi chậm chạp, tay cầm cây gậy ngắn vì đã có tuổi. Thế nhưng khi ông ta trở lại  nhiều lần sau đó thì Liễu biết rằng ông ta chỉ là một người khách địa phương. Kể ra cũng lạ, chỗ này hẻo lánh, không có mấy khách sang trọng như ông ta. Chiếc Toyota đen bóng đậu lại bên đường, người tài xế nhanh nhẹn mở cửa xe đỡ ông ta xuống, cúi đầu khi ông ta nhỏ nhẹ cám ơn, và yên lặng đứng nhìn ông ta ngồi hẳn xuống ghế rồi mới đem xe đi đậu ở một chỗ nào đó, một vài giờ sau mới trở lại đón ông ta về.
Ông ta trở thành thân quen đến độ thấy ông ta là Liễu tự động pha cà phê mang ra, không cần ông ta gọi, và lần nào cũng thế, ông ta chỉ nhỏ nhẹ cám ơn. Ông ta ngồi lâu hơn bất cứ người khách nào nhưng bà chủ cũng như Liễu không bao giờ phiền lòng vì quán vắng, và khi đứng lên ông ta luôn luôn để lại một món tiền cho Liễu, đôi khi nhiều hơn cả giá của ly cà phê.
Một lần thấy ông ta khó khăn cúi lượm cây gậy rơi dưới đất, Liệu chạy lại nhặt dùm, và đỡ ông ta ngồi ngay ngắn lại trên ghế. Ông ta mỉm cười:
Cám ơn cô  nhé. Có tuổi rồi nên làm cái gì cũng khó khăn.
Liễu vội vàng:
Dạ, không có chi.
Được dịp, Liễu hỏi thăm người khách quen nhưng vẫn còn rất xa lạ:
Bác ở gần đây?
Ông ta gật đầu:
Cũng gần, ngay ngoại ô Phan Rang đây thôi.
Lần đầu tiên nghe ông khách nói nhiều, Liễu ngạc nhiên nhận ra giọng nói của ông ta không phải là của người điạ phương:
Quê bác chắc không phải ở vùng này?
Ông ta ngước mắt nhìn Liễu mỉm cười, một tay vẫn vịn đầu gậy, một tay chìa ra chỉ chiếc ghế trống:
Nếu cô không bận, mời cô ngồi.
Liễu cám ơn và rụt rè ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Nụ cười của ông ta thật hiền từ, nhưng giọng nói thoáng buồn:
Quê tôi tuốt ngoài Bắc Ninh. Về thăm một lần đã khá lâu. Chắc là tôi chẳng bao giờ trở lại.
Liễu gật đầu:
Cháu cũng đoán bác là người Bắc. Chắc bác vô đây sau ngày “giải phóng”?
Ông ta lắc đầu, nụ cười buồn trên môi:
Không. Tôi là “bắc kỳ 54”, gia đình tôi di cư vào Nam khi tôi còn bé tí!
Ồ! Thế ra bác lập nghiệp ở đây hả? Cháu ít thấy người Bắc ở vùng này, bây giờ gia đình bác ra sao?
Liễu nghĩ tới chiếc xe hơi mới tinh, tới người tài xế lễ phép, và đoán là nếu ông ta không phải là một thứ “đại gia” thì cũng là một cán bộ cao cấp vừa hồi hưu, tuy nhiên Liễu ngạc nhiên không hiểu là vùng đất khô cằn này có gì cho ông ta lưu luyến.
Đưa mắt nhìn ra khơi, đôi mắt tinh anh sâu thẳm nhưng lúc nào cũng thoáng buồn, ông ta nhỏ nhẹ:
Chỉ có mình tôi ở đây.
Sao bác lại chọn chỗ này? Sài Gòn hay Hà Nội có phải vui hơn không.
Bất chợt ông ta hỏi:
Cô biết bãi biển Ninh Chữ không?
Dạ, cháu biết.
Giọng của ông ta trầm xuống hầu như đang nhớ tới cái gì rất xa xôi:
Ngày xưa thời VNCH có một duyên đoàn của Hải Quân đóng ở đó. Tôi là lính duyên đoàn, mấy năm rồi mới đổi xuống tàu đi biển.
Liễu thở ra:
Vậy là cháu hiểu rồi. Bác về đây sống vì những kỷ niệm cũ.
Ông ta bật cười:
Nghe cô nói như là đang đọc một truyện tình.
Liễu cũng cười, chống chế:
Hồi học cấp ba cháu cũng giỏi văn lắm. Chỉ tiếc là không có điều kiện theo học đại học. Mà thôi, bác nói tiếp đi. Cháu nói vậy có đúng không?
Cũng đúng một phần. Tôi quả có một mối tình ở nơi này, về đây vì tôi cũng còn rất yêu biển, và cần khí hậu ấm áp để dưỡng bệnh.
Liễu ái ngại:
Bác bệnh gì vậy? Trông bác quả có hơi yếu.
Nhiều thứ lắm. Áp huyết cao, phong thấp, mới đây lại bị “stroke”, may mắn không chết, dù đã gần khỏi nhưng đi đứng vẫn còn khó khăn. Ở bên Mỹ các con tôi đều bận rộn với gia đình riêng nên tôi về bên này để chữa trị.
À, bác là Việt kiều, thảo nào …
Liễu  ngập ngừng không nói tiếp. Ông ta cũng không nói gì thêm, mắt vẫn nhìn xa vắng. Đúng lúc đó người tài xế trở lại. Anh ta cũng đã khá nhiều tuổi, người thấp bé  nhưng còn rất tráng kiện, lúc nào cũng như cái bóng, yên lặng đứng sau lưng ông ta đợi chờ. Ông ta vịn vào cạnh bàn đứng lên:
Cám ơn cô nhiều lắm. Nghe bà chủ gọi cô là cô Liễu, phải không?
Liễu cũng đứng lên:
Dạ. Cháu chào bác. Lần tới bác nói chuyện bên Mỹ cho cháu nghe nhé. Chắc là vui lắm.
Ở đâu cũng có những chuyện vui buồn. Thôi, chào cô nhé.
Người tài xế đỡ nhẹ cánh tay để ông ta đứng vững, nhưng rồi lùi lại phiá sau, để mặc ông ta chậm chạp bước vì hình như ông ta quyết tâm, không muốn ai phải nâng đỡ mình. Liễu nhìn theo bóng dáng ông ta cho đến khi người tài xế mở cửa xe đỡ ông ta lên mới tần ngần xếp lại ghế ngồi, và mang đổ ly cà phê còn gần như nguyên vẹn.

0O0
Khi người khách trở lại lần sau đó, Liễu rụt rẻ hỏi thăm và được biết tên ông ta là Nguyễn. Vẫn đôi mắt nhìn xa xôi nhưng ông Nguyễn đã bớt lạnh lùng, mời Liễu ngồi và thân mật nói chuyện đời với Liễu như thể là đã quen biết từ lâu.
“Hồi đó tôi còn trẻ lắm, mới hơn hai mươi tuổi! Người ta cứ nói lính Hải Quân đa tình bay bướm, nhưng tôi chỉ yêu một mình cô ấy, và đến tuổi này nghĩ lại những ngày hoa bướm đó tôi vẫn cảm thấy êm đềm. Cô ấy là nữ sinh, thỉnh thoảng mặc áo dài trắng đến thăm tôi tại đơn vị vì tôi ít khi được ra ngoài. Lúc đó làm gì có cell phone cho chúng tôi hẹn hò, chiều chiều nếu không bận công vụ tôi đứng bên hàng rào doanh trại, lóng ngóng đợi chờ. Hôm nào thấy bóng cô ấy tôi vui như chưa bao giờ vui thế. Gặp nhau cũng chỉ để ngồi với nhau trong câu lạc bộ, thủ thỉ chuyện trò cho đến khi hoàng hôn xuống là cô ấy phải ra về.
Ngày tôi phải đổi xuống tàu biển, tôi cuống quít cầu hôn với cô ấy, và may mà được gia đình cô ấy bằng lòng. Mẹ cô ấy vẫn ngại đời lính tráng, và chiến tranh lúc đó đang khốc liệt, nhưng cũng đành để tôi mang cô ấy về Sài Gòn sống với gia đinh tôi, trong lúc tôi đi biển, lâu lâu mới được về thăm nhà một lần.
Tháng Tư năm 1975 tàu tôi được biệt phái ra Phan Rang ngăn chặn bước tiến của Bắc quân. Pháo từ  xe tăng trên bờ bắn ra trúng đài chỉ huy, một mảnh đạn nhỏ văng trúng đầu tôi, đi vào óc, và vẫn còn nằm trong đó đến bây giờ. Tôi chỉ bị thương nhẹ nhưng mảnh đạn oan nghiệt đó không thể lấy ra vì giải phẫu óc rất nguy hiểm. Lâu lâu tôi vẫn có những cơn đau buốt tưởng như không chịu được nhưng trông tôi vẫn bình thường, và tôi vẫn làm việc như thể là chưa bao giờ bị thương.
Cũng may mắn là dù bị bắn tàu tôi cũng giải cứu được một đơn vị bộ binh, đưa họ về Sài Gòn, và tôi kịp đón gia đinh di tản vào cuối tháng Tư. Lúc đó chúng tôi đã có đứa con trai đầu lòng mới sinh được vài tháng. Cha mẹ tôi không chịu đi theo chúng tôi vì cứ sợ qua Mỹ không biết làm gì để nuôi nhau!
Muời năm sau tôi mới đón được bố mẹ sang, sau khi tôi đã tốt nghiệp một trường cao đẳng chuyên nghiệp, và đi làm cho Cisco, một hãng hi-tech tại thành phố San Jose, California. Tôi may mắn gia nhập công ty từ thuở ban đầu, công ty lớn mạnh và cũng như bao nhiêu nhân viên khác, tôi được tưởng thưởng một số cổ phần, trở nên sung túc, và sớm thành một triệu phú ở nơi xứ lạ quê người. Chúng tôi cũng có thêm hai cháu gái, và cả ba cháu bây giờ đã tốt nghiệp đại học, có gia đình riêng và đều có một cuộc sống trung lưu khá vững vàng.
Thế nhưng trời cho cái này thì lấy đi cái khác cô Liễu à. Cơn đau trong óc càng ngày càng mãnh liệt và xảy ra thường xuyên hơn. Những lúc như vậy tôi chỉ muốn chết. Nhà tôi thương tôi nhưng cũng không biết làm gì hơn là ngồi trước bàn thờ, đọc kinh cứu khổ cứu nạn, mong Phật Bà Quan Thế Âm thương xót tôi mà xoa dịu bớt cơn đau. Có nhiều hôm tôi thiếp đi, khi tỉnh dậy vẫn thấy nhà tôi ngồi im lìm cúi đầu, hai tay chắp trước ngực, cầu nguyện cho tôi suốt đêm thâu.
Tôi bỏ việc làm, và nhà tôi cũng vậy, để ở nhà chăm sóc tôi. Tôi được bệnh viện Stanford cho thử nghiệm một thứ thuốc mà họ mới phát minh nhưng chưa rõ hiệu quả ra sao. Tôi tình nguyện vì nghĩ rằng ít ra cũng có chút hy vọng dù không rõ hậu quả của thuốc có gì tai hại hay không. Thuốc làm tôi hết đau nhưng chỉ được vài giờ, và tôi phải uống vài lần mỗi ngày. Mỗi lần uống xong tôi muốn như mê đi, nhưng dù sao cũng giúp tôi sinh hoạt gần như bình thường. Nhà tôi vẫn cầu nguyện, nhưng không còn phải thức suốt đêm như xưa, cho đến một ngày …
Cơn đột qụy đến bất thình lình, không biết có phải vì hậu quả của thuốc hay không, tôi ngã gục ngay lúc sáng sớm, khi vừa ra khỏi giường. May mà nhà tôi gọi được xe cấp cứu, đưa tôi vào bệnh viện điều trị nên tôi sống sót, nhưng cũng phải tập luyện cả năm mới đi lại được như bây giờ. Sau cơn bạo bệnh đó tôi thấy cái chết như gần kề, tôi bỗng nhớ quê hương, nhớ đường biển xưa, nhớ nơi tôi đã có một mối tình vĩnh cửu, nên tìm về chỗ này. Người già sống với dĩ vãng cô ạ. Cô thấy tôi thường ra đây ngắm biển, vì lúc nào tôi cũng tưởng nhớ đến những ngày tháng êm đềm năm xưa.”
Liễu ngắt lời ông Nguyễn:
Bác gái đâu, có về VN với bác không?
Ông Nguyễn lắc đầu:
Không. Nhà tôi ở lại bên đó trông nom đứa cháu ngoại mới sanh vì con gái út của tôi không được khoẻ.
Ồ, thế thì ai chăm sóc bác ở bên này?
Có đứa cháu gái bên vợ, và anh Hiệp, người lái xe cho tôi.
Ngừng lại một phút, ông Nguyễn thở dài nói tiếp:
Tôi cũng đã bình phục gần như xưa, dù chậm chạp nhưng có thể tự chăm sóc vệ sinh cho chính mình. Khi tôi đòi về VN sống, nhà tôi cũng băn khoăn lắm nhưng nhờ có tài chính đầy đủ và lương hưu, nên chúng tôi xoay sở cũng dễ dàng. Vài tháng tôi lại qua Mỹ một lần, thăm con cháu và khám bệnh lại cho nhà tôi yên tâm.
Bác vẫn còn uống thuốc giảm đau mà bệnh viện đang thí nghiệm?
Ông Nguyễn gật đầu:
Biết làm sao bây giờ. Không có thuốc tôi như nguời chết dở. Được ngày nào hay ngày ấy, cô ơi.

0O0
Ông Nguyễn trở thành người bạn vong niên của Liễu. Thoáng thấy bóng chiếc xe hơi là cô vội vã chạy ra, phụ với anh Hiệp mở cửa xe cho ông, và mỗi lần ông ra về, cô theo ra tận xe, quyến luyến đứng nhìn cho đến khi chiếc Toyota khuất bóng. Chiếc bàn nơi ông Nguyễn ngồi lúc nào cũng sạch bóng, và cô muốn dành riêng cho ông, không bao giờ đưa khách lạ tới đó. Ông Nguyễn vẫn tới đó rất đều đặn, vẫn xa vắng nhìn ra biển khơi, thỉnh thoảng nói với Liễu về những bến bờ xa lạ mà ông ta đã có dịp ghé qua hơn một lần. Ông cũng cho Liễu xem tấm hình đứa cháu gái lên mười đang ngồi chơi Piano. Liễu hỏi con bé có biết nói tiếng Việt không, ông lắc đầu, cười tủm tỉm:
Nó chỉ nói được ba tiếng: “Ông”, “Bà” và … “Phở”.
Liễu bật cười, và ông Nguyễn cũng cười. 
Cứ như thế, ngày nào Liễu cũng chờ ông khi trời vừa tắt nắng. Thế nhưng hơn tuần nay không thấy ông Nguyễn tới. Liễu băn khoăn nhưng đoán là trái gió trở trời, ông ta đau ốm nên nằm nhà. Mỗi lần nghe tiếng xe hơi ngoài xa lộ là Liễu đưa mắt nhìn. Những chiếc xe vụt qua như bóng thời gian, hơn tháng trời, mới lại thấy chiếc xe Toyota đen bóng. Không đợi cho xe ngừng hẳn, Liễu chạy vụt ra nhưng rồi chợt thấy hụt hẫng vì chỉ có chú Hiệp lái xe, không thấy ông Nguyễn ở băng sau, chỗ ông thường ngồi. 
Hiệp mất hẳn vẻ nhanh nhẹn thường ngày, chập chạp ra khỏi xe, cúi đầu khi gặp ánh mắt dò hỏi của Liễu. Chừng như lâu lắm chú mới khẽ thở dài:
Ông cụ về Mỹ rồi.
Liễu hỏi tới:
Rồi bao giờ trở lại?
Hiệp lắc đầu:
Không trở lại nữa đâu, … ông cụ mất rồi.
Liễu thảng thốt đưa tay che miệng:
Trời!
Hiệp buồn bã:
Hơn tháng trước bỗng dưng những cơn đau càng ngày càng dồn dập. Thuốc uống hầu như liên tục, cuối cùng ông cụ quyết định trở về Mỹ để giải phẫu. Bà cụ đã ngăn cản ông cụ nhiều năm vì sợ nguy hiểm, nhưng cuối cùng cũng đành. Giải phẫu xong ông cụ đi vào hôn mê, và vài ngày sau thì mất.
Liễu đứng thẫn thờ trong lúc Hiệp cố ngăn niềm xúc động, nói như thì thầm:
Ông cụ tốt với tôi lắm, thường cho tôi tiền để tôi gửi về Bắc tặng mẹ tôi. Nguyên tôi là bộ đội phục viên, nghèo không nuôi nổi thân, lang bạt đến tận nơi này, may được người nhà ông cụ mướn lái xe. Ông cụ coi tôi như người nhà, kể chuyện đời mình, tôi cũng chẳng dấu ông cụ, nói cho ông cụ biết là tháng Tư năm 75 tôi là người lái xe tăng tiến quân qua vùng này. Tăng của chúng tôi bắn vào chiếc chiến hạm của VNCH đang ủi bãi vớt người, và có thể tôi là người đã gây ra mảnh đạn oan nghiệt đó trong đầu ông cụ. Tôi thật là ân hận.
Nghe tôi nói thế ông cụ chỉ cười, vỗ vai tôi: “Đâu có phải lỗi tại chú. Chúng mình đều là chiến binh … Chiến tranh ngày đó đã qua rồi.”
Hiệp dụi mắt, móc trong túi quần đưa cho Liễu một phong bì dầy:
Ông cụ để lại di chúc, tặng tôi chiếc xe này để tôi chạy taxi, làm kế sinh nhai. Ông cụ cũng nhờ tôi đưa tặng cô ít tiền, để cô đi học đại học, và cám ơn cô đã bầu bạn với ông cụ những ngày qua.
Liễu đưa tay nhận chiếc phong bì, lòng nặng trĩu u buồn:
Cám ơn chú. Gia đình có đưa ông cụ về an táng tại VN không chú?
Hiệp lắc đầu:
Nói chuyện điện thoại với gia đình bên đó tôi mới được biết là ông cụ đã được hoả táng, tro rắc ngoài biển… Thôi thế cũng là xong.
Có liên lạc qua bên đó chú cho Liễu gửi lời phân ưu tới bà cụ, và xin cám ơn tấm lòng rộng lượng của ông cụ cùng gia đình.
Vâng.  Thế nào tôi cũng sẽ chuyển lời. Bây giờ tôi về nhé. À, còn một ít sách vở của ông cụ, tôi biết là ông cụ rất muốn để lại cho cô. Tôi sẽ mang ra đây để cô giữ làm kỷ niệm.
Cám ơn chú.
Hiệp gật đầu chào, lủi thủi chui vào xe. Khi xe đã lăn bánh và mất hút trên xa lộ Liễu mới buồn bã đi tới cái bàn và ngồi xuống cái ghế ông Nguyễn thường ngồi. Cô đưa mắt nhìn ra biển và nói như thể là ông Nguyễn đang ngồi bên:
Cuối cùng thì bác cũng về với biển, nơi chốn bác yêu thương.
Liễu mở chiếc phong bì. Xấp tiền có lẽ thừa cho cô theo theo đuổi mộng văn chương ở đại học như cô từng ước mơ, thế nhưng cô không thấy vui. Cô cúi mặt, và một giọt nước mắt ứa ra, đọng nơi khoé mắt cùng với tiếng thở dài.
Trần Quang Thiệu
June, 2011

Xem Tiếp: ----