Bảo mồ côi cha mẹ từ sớm, sống với chị Tình, người chị ruột. (Anh không còn anh chị em nào khác). Chị Tình nghèo, “nghèo tàn mạt” – nói theo kiểu anh Tình – do nơi hai vợ chồng, ngay khi gặp nhau đã cùng khổ sẵn, và do đông con, đến bảy đứa. Nên tuy ở cùng nhà nhưng Bảo phải tự lực kiếm sống ngay từ lúc mười một tuổi. Anh đã làm nhiều việc: bán thuốc lá trên xe lửa, sửa xe đạp, làm công cho các lò bánh mì, các xưởng nước mắm, các rạp hát… Tuy vất vả như thế, anh cũng mày mò học được đến hết lớp 9. Anh có chí, thừa lạc quan, luôn vui vẻ, yêu đời.
Lúc chúng tôi quen nhau, năm 1972, Bảo là chàng trai vừa tròn hai mươi, đang làm thuê cho một ngôi chùa, rành nghề sản xuất nhang, xì dầu, tương, chao. “Bảy năm nữa mình sẽ thành kỹ sư trăm nghề”, anh đùa.
Vào lúc chiến cuộc sôi bỏng nhất số mệnh đã ưu đãi Bảo: nhờ một người bà con xa, và nhờ may mắn Bảo xoay được giấy miễn dịch vì lý do kém sức khỏe, khỏi vào lính. Nhưng sau đó, số phận trớ trêu (có phải là số phận không), đã khiến anh chết đột ngột vì bom đạn.
Bốn tháng sau khi rời khỏi Thanh Hà, tôi nghe tin Bảo chết. Anh chết trong một cuộc đấu đá nảy lửa giữa hai bọn lính (Sài Gòn) say rượu.
Hôm ấy, trong quán phở Mỵ Châu, hai tốp lính dữ tợn đã bất ngờ mở ra một trận kịch chiến. Chúng nó giành gái. Và chúng cũng muốn chứng tỏ với thiên hạ rằng ta đây anh hùng, – anh hùng theo cách chúng nghĩ. Chúng choảng nhau bằng ghế đẩu, chai bia, dao phay, và lựu đạn. Thực khách đông nghịt, nhưng chỉ một số chạy được ra ngoài… Trận đấu cũng đẫm máu như ngoài chiến trường, với con số thiệt hại được tổng kết: sáu chết, mười sáu bị thương. Trong số người chết có Bảo. Người ta nói, bi thảm như thế nhưng vẫn còn may, số thương vong còn có thể cao hơn nữa, vì có những người chỉ ngồi cách chỗ hai quả lựu đạn nổ bảy, tám mét mà vẫn nguyên lành.
Buổi sáng chia tay nhau ở bến xe tôi đâu ngờ mình sẽ không còn gặp Bảo nữa. Vẫn như thường ngày, anh tươi tỉnh, luôn miệng khôi hài mà không cười. Tôi càng không nghĩ Bảo sẽ chết dữ, bởi anh không sờ đến súng đạn, và ở giữa lòng phố phường.
Đưa Bảo ra nghĩa trang, trong số người khóc, ngoài gia đình chị Tình, còn có một người không phải là vợ, không phải họ hàng: Diễm.
Hai năm cuối đời Bảo sống chung với Diễm, như vợ chồng. Diễm góa chồng năm hăm hai tuổi, có một con gái. Chiến tranh đã gây ra hàng vạn trường hợp góa bụa tức tưởi như thế. Bảo coi đây là mối tình lớn của mình, và anh không tiếc lời tán tụng nó. Anh nói: cô ấy đầy nữ tính, nết na, thùy mị. Cô ấy có tất cả các đức tính của người phụ nữ hiền thục…
Quả thực, Diễm xinh đẹp. Cô ta ăn nói khôn khéo, dịu ngọt. Và đặc biệt cô có đôi mắt đen láy, sắc. Bảo khen đôi mắt ấy “có cái nhìn thơ dại, ngơ ngác, dễ làm xao xuyến lòng người”. Anh thường nói với tôi: “Lắm người chê, mới lớn ai lại đi lấy bà góa. Nhưng mặc họ, dẫu có sáu con đi nữa Diễm vẫn trẻ dại, xinh tươi và tao vẫn cứ đắm đuối yêu nàng”… Như mọi người khác, anh không có khả năng nhìn thấy trước tai ương. Nếu giỏi như các đấng tiên tri, anh đã không nói vậy. Bởi vì, chỉ vài tháng sau ngày Bảo chết, người ta thấy Diễm sống chung với một người đàn ông khác ở một thị trấn trên Tây Nguyên! Hẳn là cô ấy vẫn đẹp, với cái nhìn ngơ ngác. Biết nói sao…! Có thể cho rằng, sống mãi với hình ảnh của người chết là không cần thiết. Nhưng quay lưng, quên nhanh như thế thì cũng không được bình thường, hơi tàn nhẫn, khác với đức tính thủy chung của người phụ nữ Á Đông.
°
Trong công việc làm ăn mới của chúng tôi, tôi ghi vào sổ tay nhiều tên người, tên thành phố, hãng xưởng; là những địa chỉ tôi sẽ đến, sẽ liên hệ. Trong số đó nổi bật nhất là ông Phát Lợi và thành phố Thanh Hà. Ông Phát Lợi không có gì đặc biệt, nhưng nhờ ông tôi được về thăm lại Thanh Hà, nơi trước đây tôi từng sống ba năm, và có lúc tôi đã yêu mến, coi như quê hương mình.
Đến Thanh Hà lúc bốn giờ chiều, tôi tới thẳng văn phòng hãng buôn Miền Trung nhưng ở đây người ta cho biết ông Phát Lợi đi vắng, ba hôm nữa mới về.
Vậy là bỗng dưng tôi có ba ngày nhàn rỗi. Tôi tìm đến nhà một số bạn cũ nhưng không còn ai cả. Người đã dời về thôn quê, người thì đi tỉnh khác. Không có thói quen ngủ ngày, tôi cố nghĩ ra một lịch hoạt động, tiêu dùng cho hết số thời giờ ông Phát Lợi ban thưởng.
Ngày đầu, buổi sáng tôi đi thăm khu phố mới ở phía nam thành phố. Ngày trước, đây còn là khu đất hoang, toàn cát trắng và cây bàn chải. Nay trở nên một khu phố sầm uất, chia làm hai phường, có một chợ nhỏ, một rạp hát khá đẹp. Buổi chiều trời nắng gắt, tôi chui vào rạp Hưng Đạo xem liền một suất video và một suất phim trên màn ảnh rộng.
Buổi sáng ngày thứ hai tôi đi thăm lại các thắng cảnh, với cảm giác như thăm những người thân cũ: cầu Đà Giang, núi Tháp, chùa Phú Sơn. Những “anh bạn” này chẳng khác xưa mấy.
Buổi chiều tôi ngồi lỳ ở công viên Ngã Năm đọc truyện.
Đọc chán, tôi nhìn ngắm bâng quơ. Người ta thản nhiên qua lại. Một tốp công nhân đội mũ nhựa xanh vàng. Một toán đàn bà từ các vùng quê xuống, gồng gánh lỉnh kỉnh. Một tốp học sinh đi thong thả, chuyện trò râm ran. “Chẳng ai biết mình cả.” Mười bảy năm trước những em bé học sinh này chưa ra đời… Tôi ăn cơm rượu của bà hàng rong vừa gánh tới. Lát sau tôi lại ăn bánh su sê, bánh hỏi của một chị hàng rong khác! Có biết bao nhiêu người đi lên, đi xuống, “nhưng không thấy ai quen cả”… Xưa kia tôi và Bảo hay đến đây ngồi chơi, thường vào ban đêm, nhất là những ngày hai đứa không còn tiền. Dưới hàng phượng cỗi kia ngày đó có những chiếc ghế đá dài. Dưới trụ điện cạnh bồn nước hỏng kia có những cặp tình nhân ngồi ép dính vào nhau, và những người ăn xin nằm ngủ. “Giờ đây mình là du khách. Bảo thì không còn tăm hơi, đã bước ra khỏi cuộc đời chẳng khác nào một mảy khói”.
Còn gì nữa? Tôi sắp xếp, tính toán… Cảnh cũ, nhưng không còn người xưa. Nhiều chuyện của thời đó nay đã là cổ tích, đã thành kỷ niệm. Kỷ niệm, ôn lại chúng còn có ích gì?… “Có lẽ mình sẽ đi thăm lại chợ thị xã và bãi biển. Còn nhà chị Tình, đến chăng?”. Lúc Bảo còn sống, đó là nơi tôi đến chơi hàng ngày.
Rồi tôi cũng làm như đã nghĩ. Hôm sau tôi đi thăm chợ, la cà non một buổi, trong đó có hơn hai tiếng đồng hồ ngồi uống rượu nếp với một người không quen biết. Anh này làm ăn ngay ở đây, chuyên chạy mánh, vừa trúng được một cú lớn, đang muốn chia sẻ với mọi người niềm vui của mình.
Chợ mới xây cất lại cách đây ba năm, khang trang, sạch sẽ.
Tôi ngồi uống bên người đàn ông cười nói huyên thuyên như anh chàng mất trí; giữa những người lạ, toàn người lạ, đi lại nườm nượp.
Chợ hồi trước vô cùng hỗn tạp. Giống những chợ trời gần biên giới, như những cái chợ kỳ dị trong các phim cao bồi Mỹ. Ở đây thường thấy những cảnh cướp giật, những vụ đánh nhau ác liệt trong các quán nhậu. Ở đây bẩn thỉu, mùi hôi hám bao trùm khắp nơi. Và ở đây người ta mua bán đủ thứ, từ gói thuốc lá Nam Triều Tiên, đến những chiếc lưỡi lê, những bộ phận rời của nhiều loại súng. Một thời hỗn loạn.
Ở chợ ra tôi phân vân chưa biết sẽ làm gì. Đi xuống biển chăng. Giờ này thăm biển không phải lúc, nắng nôi, chắc là vắng tanh. Suy tính một lúc, tôi đến nhà chị Tình.
Nhà chị Tình nằm cuối đường Tản Đà, một con đường nhỏ và ngắn ngủn. Hồi đó, Bảo lấy làm lý thú khi thấy con đường mang tên nhà thơ mà anh yêu thích. Bảo nói: nếu biết được viên chức nào đặt tên cho con đường, anh sẽ ôm hôn và đãi một chầu nhậu tới tay.
Đường Tản Đà vẫn nhỏ, nhưng sáng sủa hơn trước. Hai hàng me bên đường đẹp, cao vút, thế chỗ cho mấy cây trứng cá thấp tè. Có nhiều nhà mới… Đã mười bảy năm qua, ít gì.
Trong trí nhớ của tôi căn nhà chị Tình là một nhà tôn nhỏ. Nhưng nay nó không còn nữa, đã biến thành ngôi nhà gạch, tuy không lớn lắm, nhưng đẹp, gọn ghẽ. Và chị Tình cũng không còn nữa. Chị đã chết khá lâu. Ngồi nói chuyện với Giang, – con trai út của chị – tôi cố nhớ lại dáng dấp người đàn bà suốt đời lận đận, nhọc nhằn.
Nay những người con lớn của chị đã ra ở riêng. Chỉ còn Giang chưa có vợ. Anh Tình buôn bán đường dài, đi vòng quanh Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Nghĩa Bình. Mức sống gia đình anh cao hơn trước nhiều.
Sau đó, để tiêu cho hết buổi chiều, tôi tạt vào các hiệu sách, các quán cà phê. Tôi loay hoay nghĩ mãi về một ý: người thân nhất của Bảo cũng đã chết, vậy về sau trên cõi trần này còn ai nhớ đến anh?
°
Tôi thuê một căn phòng ở tầng một khách sạn Thái Bình. Căn phòng này có ưu điểm là mặt nhìn ra một đường phố nhỏ, yên tĩnh. Hai phòng kế cận cũng đã có người chiếm. Đó là mấy anh chàng lái xe tải lớn chạy đường dài.
Lúc tôi về đến cửa phòng thì ba người trong bọn họ đang bày cuộc ăn uống trước hành lang. Họ nằng nặc mời tôi nhập bọn bằng tất cả vẻ chân thành như đối với người thân. Không có lý do từ chối, và cũng không muốn vội vào giường nằm khoèo một mình, tôi ngồi xuống với họ. “Mấy tay này có vẻ thực thà, vui vẻ, đúng là dân Nam ruột ngựa”. Họ tự giới thiệu: anh chàng cao lớn có tí râu mép là Út Bảy. Anh chàng cao và đen sạm là Tâm. Và người mặt tái mét, ngồi dựa vào tường, mắt nhắm rịt là Của.
“Ngồi xuống đây, ông anh, nhăm nhi với bọn em vài ly… Phải ngủ khách sạn, vậy chắc anh không phải người ở vùng này? Còn bọn em ở Tiền Giang ra, đã lâu lắm nay mới ghé đây… Từ những phương trời xa tới đây, nhưng hiện giờ ở sát nách nhau, nên chúng mình là hàng xóm.”
“Coi như hàng xóm”, anh chàng Của chỉnh.
“… Và ông anh ở một mình vậy chắc là dân độc thân?”
“Coi như độc thân. Khi về nhà vẫn có vợ con đủ bộ!”
“Tại sao chúng ta không kết làm anh em, không thân thiết nhau… Anh Hai nghĩ xem. Sau này, khi chúng em trở lại đây thì chưa chắc gặp được anh. Lúc khác anh Hai ghé lại, thì hẳn không có tụi này.”
“Nói tóm gọn, có thể chúng ta chỉ gặp nhau một lần trong đời, như nước chảy qua cầu!”
“Này, hơi cải lương rồi, nhưng cũng gần đúng thế đó… Em không cần nhờ cậy, lấy lòng, nhưng vẫn mời ông anh uống, chơi đẹp chính ở chỗ ấy… Chúng em ở Tiền Giang… mai đây… nào, thêm ly nữa. Mực này ngọt lịm, phải không. Mực Sài Gòn thua xa. Mai đây chúng em sẽ tỉnh queo, lại lên đường, phóng đẹp trăm cây số giờ!”
“Châm thêm vào đây. Tới luôn, bác tài!… Tụi này cứng lắm, sáng ra là lại đàng hoàng. Cam đoan với anh…”
Ánh điện trắng nhợt trong phòng hắt ra vẫn không làm mặt hai người bớt đỏ. Họ nói lớn, giành nhau nói, nhiều lúc vừa đặt câu hỏi vừa tự trả lời.
“Tối nay mát mẻ, hiếm có đấy, và trời đêm cũng đẹp.” Tôi nói.
Tâm gật gù:
“Và thành phố này đẹp quá, anh Hai thấy không. Có lẽ em yêu nó rồi. Nó đẹp hơn Quảng Ngãi, Quy Nhơn.”
“Hơn luôn Phan Rang, Phan Thiết” Út bảy nói “Dường như chẳng phải là đẹp, chú bé ạ, nó xinh xắn, ấm áp.”
“Nó khiến ta dễ quen thân, và nó sạch sẽ… Có lẽ sạch thế là nhờ gió biển?”
Tôi vỗ vai hai anh bạn mới, khen ngợi:
“Các chú em nhận xét tinh tế lắm. Đã có một thời tôi yêu thương thành phố này thắm thiết. Nó nhỏ nhắn, dễ thương, như một cô gái tuy không đẹp rực rỡ nhưng duyên dáng, mặn mà.”
“Mặn mà, có duyên!” Út bảy la lên, và chồm dậy rót thêm bia vào ly tôi “Uống mừng đại huynh, và mừng thành phố duyên dáng, nhỏ bé của chúng mình!”
Mặc dù không hứng khởi mấy nhưng chỉ chốc lát tôi đã nốc cạn ly bia. Ở bên ba tay lái xe này chẳng có vật gì hạng nhì cả. Quần áo, giày dép, đồng hồ, bia rượu, thuốc lá, tất cả đều hàng ngoại. Bia hảo hạng, món nhắm tuyệt ngon.
Tâm nói:
“Từ nhỏ đến nay em chỉ say chết có một lần. Em sẽ kể anh Hai nghe. Hồi đó, còn ở Vĩnh Long, em kết được một cô bé. Cô ta tên Nhỏ. Cái tên khá quê, nhưng người xinh ác. Hai đứa quen nhau non hai năm. Bỗng đùng một cái, Nhỏ bỏ đi lấy chồng… Hai hôm trước ngày cưới, Nhỏ ở suốt bên em. Cô nàng khóc, cha ơi là khóc… Nhỏ bứt tóc, trách em hờ hững, không cố sức bảo vệ mối tình. Cô ấy còn bảo hai đứa hãy trốn đi, đi xa, tới một nơi nào đó để sống với nhau tới già! Em điên đầu. Nhưng đi đâu kia chớ. Rồi ăn ở thế nào, làm gì để sống. Những việc đó có vẻ tầm thường quá, nhưng tới lúc nó hiện ra trước mặt, bắt mình phải nhìn kỹ thì thấy cũng khó, gay go…”
“Thế rồi sao?”
“Không sao cả! Rồi, như trong các bài ca ta vẫn thường nghe ấy: đám cưới diễn ra, pháo nổ, xe hoa. Nhỏ lên xe hoa, còn em thì vào quán nhậu. Em uống lu bù suốt ngày. Mãi tới khuya em mới về, nhưng về không đến nhà. Lọ mọ thế nào em lại lăn kềnh ra ngủ giữa đường nhựa, suýt bị một chiếc xe tải mù, (xe chẳng có một cái đèn nào) cán bẹp.”
“Cạn ly, đại huynh.”
“Cũng buồn như các chuyện tình buồn khác.”
Chưa khuya lắm nhưng dưới đường phố đã yên vắng. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng vài chiếc xe gắn máy chạy vụt qua, tiếng nói chuyện ngắt quãng của những bộ hành lẻ tẻ.
“… Lúc ấy em cũng tưởng Nhỏ phải lấy chồng vì bị mẹ ép buộc, như lời nàng nói. Nhưng về sau hiểu ra, không phải vậy. Đúng như các bậc bô lão nói, cùng trang lứa nhưng con gái bao giờ cũng khôn sớm hơn con trai. Chính thế, Nhỏ đã biết đắn đo, suy xét. Nếu cô nàng dại dột bám lấy em thì chắc hai đứa đã cùng treo mõm. Cha mẹ em thì làm sáng ăn chiều. Còn em vừa hai mốt, khờ khạo, chưa có nghề ngỗng gì… Buồn lắm, tủi thân nữa, mụ cả người, đến hơn năm em mới khuây được… Có một dạo em cứ lẩn thẩn nghĩ: không biết trong số nước mắt Nhỏ khóc hai ngày đó, có bao giọt đã nhỏ xuống vì thực lòng, còn bao giọt chỉ để làm dáng, tô điểm cho cuộc tình?… Nhưng đến nay, lạ làm sao, toàn bộ cái chuyện to lớn ấy nhòa trắng mất rồi. Nhiều lúc nhớ lại mình cứ ngỡ đó là một câu chuyện trong sách, hoặc chuyện tình của ai khác. Nó lùi xa, lẩn sâu vào đầu mình, hay đã biến thành kỷ niệm.”
“Nó chính là kỷ niệm” tôi nói “Đó là tuổi trẻ, thời kỳ hoa mộng của mỗi con người… Nhiều lúc nét mặt nó còn ngớ ngẩn, buồn cười, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ nhớ mãi.”
Út Bảy rót đầy bia vào ly cho cả ba, (Của thì vẫn chết ngồi) và nâng ly lên ngang mặt:
“Chúng ta uống mừng cho cái kỷ niệm còn sống ấy của Tâm.”
“Có những kỷ niệm mỗi khi nhớ lại người ta bồi hồi, vui sướng. Và có những kỷ niệm chỉ gợi nhớ hàng núi đau buồn!” Tôi nói như một nhà thơ ngất ngưởng.
“Chí lý, anh Hai!” Tâm vỗ độp vai tôi.
Tôi ực cạn ly thứ năm.
“Dù nói cách nào, dù nhìn bằng con mắt nào thì những điều đó cũng thắm đượm nhiều vẻ tươi đẹp, sinh động, mà nay giá như có chục ký lô vàng, ta cũng không thể nào mua được”. Tôi nói.
“Hoan hô, cực chí lý!” Tâm khen “Nhiều lúc em cũng nghĩ như thế, nhưng chẳng biết nên nói ra thế nào cho xuôi.”
Nghe rõ hơi men bốc lên đầu, lên mắt, tôi tán khá lớn tiếng.
“Cùng với những hàng me hàng bàng trên đường đến trường ngày trước, cùng với tiếng rao của những em bé bán bánh mì ban đêm, cùng với những cuộc rong chơi với bạn bè trong các ngày nghỉ, những kỷ niệm ấy lặng lẽ chui vào óc mình, nằm yên trong một góc nào đó.”
“Uống hết ga đi, anh Hai. Không biết ăn chơi thiệt thòi lắm đó. Đời người nào có dài mấy nỗi, chỉ vài chục năm.”
“Sáu mươi đã được coi là già, mà nay mình đã hơn phân nửa, còn đại huynh?”
“Tôi bốn hai”
“Thấy chưa. Trong khi ấy có những đại thụ hàng ngàn, những đền đài hàng vạn tuổi.”
“Có những con sông, những khối đá đã sống hàng triệu năm.”
Có thể gọi đây là những triết lý rượu, mình đã nghe quá nhiều. Nhưng không sao, cứ nói. Nếu nó nhạt thì nghe cũng đỡ buồn. Nếu có phần đúng thì nên lặp lại để nhớ. Hơn nữa, chả lẽ lặng thinh như uống vụng.
Im lặng vài phút, rồi Út Bảy nói:
“Tốp, thôi không nên nói nhiều mấy chuyện xa xôi đó, có thể khiến đại huynh lo sợ, ông chỉ còn hai chục năm nữa!”
“Vậy mà người ta rình rập, tranh đoạt của nhau từng đồng, hơn thua nhau từng lời nói.”
Còn Bảo thì thiệt mạng chỉ vì mấy thằng khốn tranh nhau những cái liếc mắt kịch, những nụ cười vờ.
Cảm thấy người váng vất, sợ mình say tôi che miệng ly không cho Út Bảy rót thêm:
“Các bạn cho tôi nghỉ, mệt và buồn quá.”
“Vì sao buồn, chúng em nói gì thất lễ với đại huynh chăng?”
“Không đâu. Chả hiểu sao bỗng nhiên tôi lại nhớ người bạn thân đã mất cách đây gần hai mươi năm. Anh ấy sinh ra và lớn lên ở thành phố này. Rồi anh đã chết giữa thời trai trẻ, không còn ai thân thuộc trên đời, không cha mẹ, anh em, vợ con…”
“Tội nghiệp thực, như cỏ cây. Nhưng vì buồn thì càng nên uống, đại huynh ạ… Giờ thì chúng mình nâng ly để nhớ anh bạn trẻ côi cút đáng thương ấy.”
Út Bảy lại rót đầy ly tôi. Và dù bụng dạ đầy lo ngại, tôi lại uống cạn ly thứ sáu!
Tôi thấy hoa mắt. Những người ngồi trước mặt, chén đĩa, chai ly chập chờn, lúc gần lúc xa. Tâm lại rót bia, và mời giọng nhừa nhựa: “Mời anh Hai, tới luôn, anh Hai”. Tôi không muốn uống nữa. “Chết, ta say mất rồi”. Nhưng chẳng hiểu sao, tôi vẫn đón lấy ly bia. “Điều đáng sợ là không còn biết từ chối nữa”. Út Bảy cười lớn:
“Nếu đi chung với bọn này, thì sáu tháng sau đại huynh sẽ thành kiện tướng…”
“Bết, nếu ta không còn đứng lên về phòng được nữa thì khó coi quá”. Tôi thích uống, nhưng vốn không uống được nhiều. Và tôi vẫn ghét những cuộc nhậu bét nhè, kéo rê hàng buổi… Út Bảy đứng phắt lên, khoanh tay, nhại giọng một cậu học trò đọc bài: “Thưa thầy, rượu là một thứ thuốc độc, nó độc hại hơn cà phê, thuốc lá… ơ, ơ… nó hủy hoại cơ thể và nhân cách con người.”
“Sao nữa?” Tâm quát.
“… Nhưng nếu không có rượu thì cõi đời này buồn tẻ biết bao.”
“Ngồi xuống, giỏi, thuộc như máy, chín điểm.”
Út Bảy nhìn sát mặt tôi. Anh ta thở như thổi lửa. Đột nhiên khuôn mặt đỏ lựng ấy nhòa đi, và tôi thấy đôi mắt, rồi cả gương mặt Bảo hiện ra, đăm đăm nhìn tôi. Đặt ly bia xuống, tôi chồm dậy hét to: “Bảo, Bảo ơi!”. Nhưng Bảo khoát tay: “Em đây, Út Bảy đây. Đừng lo, bọn em sẽ đưa đại huynh về phòng… chỉ ba bước thôi mà”. Tôi muốn nói với Bảo: không rõ hiện nay, ngoài tôi còn có ai nhớ đến anh. Diễm chăng? Không có lẽ. Cha con anh Tình chăng? Họ chưa xa gì mấy, nhưng tình chắc nhạt rồi. Phải chi Bảo có một đứa con. Phải chi anh có vợ, thay vì chỉ có một người tình… Tôi giụi mắt hồi lâu. Tôi không muốn mình ngã xuống như một bợm rượu. Tôi lấy làm lạ: tại sao mắt mình lại không còn nhìn rõ được, trong khi đầu óc vẫn tỉnh táo.
“Thôi, chúng em không ép đại huynh nữa, em cũng đi nghỉ đây. Nhưng mà đại huynh nên nhớ cho, không ăn nhậu thiệt thòi lớn đó… Và em thấy thế này: để cho tương lai nhẹ nhõm, chúng ta không nên chìm đắm vào những đau buồn, nên quẳng phứt những gì không cần thiết và quẳng cả những kỷ niệm chết tiệt, nặng… nặng nề.” Út Bảy nói, kéo dài, nuốt tiếng.
“Vứt bỏ dĩ vãng, cùng hết thảy những gì xưa cũ đi ư?”. Tôi bóp trán, nhớ mình đã đọc ở đâu đó: “Có những kỷ niệm làm phong phú cuộc sống, nhưng cũng có những kỷ niệm làm trì độn con người. Và, như hai mặt của một chiếc áo, hai thứ này vẫn đi cặp kè, cùng nhau có mặt trên đời.”
Vậy, trong kho kỷ niệm ta hiện có, những cái nào làm phong phú cuộc sống, những cái nào làm trì độn con người? Tôi hỏi mình, và không kịp tìm câu trả lời./.

Xem Tiếp: ----