Nguyên tác: Edgar Poe

    
ồi đó vào năm 18... tôi đang ở Ba Lê. Sau một buổi tối mưa gió bão bùng, tôi khoan khoái ngồi suy tưởng và hút ống vố, cùng với bạn thân Đỗ Văn, trong căn nhà riêng của anh ta ở khu Thánh Giẹc-Manh. Trong một giờ đồng hồ, hai chúng tôi không nói gì hết. Nếu có ai đến, thì sẽ tưởng chúng tôi chỉ bận rộn ngắm nhìn các làn khói thuốc tỏa thành vòng, bay lên trần nhà. Riêng tôi, thì tôi suy luận một vài điểm, trong câu chuyện mà chúng tôi nói vào lúc đầu buổi tối. Đó là chuyện về vụ ở đường Nhà Xác, và những bí ẩn trong vụ ám sát bà Minh Tân. Tôi đang liên tưởng đến những điều giống nhau của hai vụ này, thì cửa phòng bỗng bật mở, và ông M.G, chánh sở Cảnh sát Ba Lê bước vào.
Chúng tôi thân mật mời ngồi, vì ông ta vừa có điểm dễ thương vừa có cái đáng ghét, và từ vài năm rồi, chúng tôi chưa gặp lại ông ta. Vì chúng tôi đang ngồi trong bóng tối, Đỗ Văn đứng dậy định thắp một ngọn đèn, nhưng anh ta ngồi xuống ngay, khi nghe ông G nói rằng ông ta đến để nhờ anh bạn tôi giúp ý kiến, về một vụ đang làm cho ông ta vô cùng bối rối.
Đỗ Văn nói:
- Vậy thì đúng là một trường hợp hi hữu thật: Kẻ trộm biết rằng người bị mất cắp thấy mình đã lấy trộm.
Ông cảnh sát trưởng đáp:
- Đúng vậy, và từ mấy tháng qua, nắm được bức thư trong tay hắn đã làm áp lực đối với người kia rất nhiều về phương diện chính trị, đến một độ thật là nguy hiểm. Người bị mất trộm càng ngày càng cảm thấy cần thiết phải lấy được lá thư đó về. Nhưng dĩ nhiên là người đó không dám làm lớn chuyện. Sau cùng, vì quá tuyệt vọng, người đó mới phải nhờ đến tôi.
Đỗ Văn vừa nhả khói thuốc, vừa nói:
- Tôi nghĩ là khó có thể chọn được người nào khác tài giỏi hơn ông.
- Lẽ tất nhiên, và khi chúng tôi đã xem qua tất cả những đồ vật đại loại như thế, chúng tôi đã xem đến chính căn nhà. Chúng tôi đã chia diện tích căn nhà thành từng phần một, và đã đánh số kỹ lưỡng để khỏi quên phần nào; chúng tôi đã nghiên cứu từng phân vuông một của các đồ vật trong nhà bằng kính lúp và chúng tôi đã hiểu rằng đó là hai căn nhà ở cạnh nhau.
Tôi kêu lên:
- Hai căn nhà ở cạnh nhau! Như vậy ông làm việc mệt nhỉ?
- Vâng, mệt thật, nhưng vì phần thưởng quá lớn.
- Trong các căn nhà, các ông có khám xét nền nhà không?
- Nền nhà trải gạch tất cả. Tương đối, chúng tôi không gặp khó khăn gì mấy. Chúng tôi đã nghiên cứu dấu rêu giữa các viên gạch, và thấy rằng chúng không bị suy suyển gì cả.
Khi ông ta đã đi khỏi, anh bạn tôi cắt nghĩa cho tôi nghe:
- Cảnh sát Ba Lê rất giầu kinh nghiệm. Các nhân viên của họ khôn ngoan, chu đáo, biết hết mọi việc phải làm. Vì vậy, khi G tả cho chúng ta nghe về lối khám xét trong căn nhà của D thì tôi hoàn toàn tin tưởng vào tài khéo của ông ta và tôi chắc ông ta đã làm đủ bổn phận về phương diện nghề nghiệp.
Tôi hỏi:
- Đủ bổn phận về phương diện nghề nghiệp ư?
Đỗ Văn nói:
- Đúng, những cách đó không những là những cách hay nhất mà còn có thể nói là hoàn toàn nhất nữa. Nếu bức thư được giấu ở trong vùng bị khám xét, thì chắc hẳn những nhân viên của ông ta đã tóm được rồi, điều đó tôi không còn nghi ngờ gì nữa.
- Anh lầm rồi đấy. Tôi biết hắn ta rõ lắm, hắn ta vừa là nhà thơ, vừa là nhà toán học. Vì là thi sĩ và nhà toán học, nên hắn phải lập luận đúng, chứ nếu chỉ là nhà toán học không thôi thì chắc hắn sẽ không lý luận gì hết, thế là hắn phải chịu thua viên cảnh sát trưởng.
Tôi nói:
- Ý kiến của anh như vậy thì thật là làm tôi phải ngạc nhiên, vì nó trái với tất cả mọi người. Chắc anh không định vứt vào sọt rác ý kiến mà hàng bao nhiêu thế kỷ người ta vẫn nuôi nấng, là lý luận của các nhà toán học phải là tuyệt hảo chứ?
Đỗ Văn trả lời:
- Ta có thể đoan chắc rằng tất cả những ý tưởng của quần chúng, những công lệ đều là vớ vẩn, vì chúng thích hợp với quá nhiều người, nghĩa là chúng tầm thường không đáng kể. Các nhà toán học lại còn cố gắng tuyên truyền thêm cho quần chúng tin tưởng một cách lầm lẫn như vậy nữa, và dẫu rằng người ta tưởng là đúng, nó vẫn hoàn toàn sai lầm. Giả tỉ như ngay trong toán học, còn có nhiều danh từ được dùng sai chỗ nữa, còn nói chi. Vậy không thể bảo rằng hễ cứ học toán là lý luận đúng được. Chẳng cần nói đâu xa, nói về hóa học thôi, cộng hai chất lại thì hai chất tổng hợp không giống như tổng số hai chất để riêng ra. Về vật lý, hai động cơ nếu ghép chung với nhau thì chưa chắc rằng công suất của chúng đã bằng tổng số của hai công suất lúc để chúng riêng v.v... Có rất nhiều điều như vậy, toán học chỉ đúng một cách tương đối mà thôi.
Ngừng một chút, Đỗ Văn tiếp:
- Tôi muốn nói rằng, nếu tên bộ trưởng chỉ là một nhà toán học không thôi, thì ông cảnh sát trưởng khỏi cần phải đón hỏi ý kiến tôi làm gì, nhưng vì hắn ta vừa là nhà toán học vừa là thi sĩ nên khả năng của hắn mới xuất sắc hẳn. Tôi biết hắn là một tên nịnh thần và chuyên gây ra các vụ rắc rối. Tôi nghĩ rằng một người như vậy phải biết rành về các phương pháp của cảnh sát. Vậy tất nhiên hắn đã đề phòng sẵn những vụ lục soát người hắn và ta đã thấy điều đó được chứng nghiệm. Tôi cho là hắn cũng phải đề phòng những vụ khám nhà. Những vụ đi vắng nhà về đêm của hắn mà cảnh sát cho là may mắn để đưa đến thành công cho họ, thì tôi lại chỉ cho rằng đó là thủ đoạn của hắn. Cố ý để cảnh sát lục lọi và để họ tin tưởng rằng bức thư không có trong nhà tư của hắn mà thôi. Tôi cảm thấy hắn hiểu biết hết cái lối tìm kiếm của cảnh sát, vậy hắn không thể nào sử dụng một chỗ giấu tầm thường như vậy. Hắn ta phải hiểu rằng chỗ giấu càng phức tạp, càng kín đáo thì lại càng dễ bị cảnh sát dò ra, vậy hắn phải nhắm cái gì tầm thường, giản dị hơn hết mới đánh lừa được họ. Anh có nhớ hôm đầu tiên mà viên cảnh sát trưởng đến đây không, lúc tôi nói rằng có lẽ điều bí mật trở nên quá đỗi bí hiểm phải chăng chính là vì nó giản dị quá, và anh có nhớ ông ta đã phá ra cười như thế nào không?
Tôi nói:
- Có chứ, tôi nhớ rõ ông ta đã cười ngặt nghẽo. Tôi đã tưởng chừng như ông ta sắp khùng vì cười đấy.
Đỗ Văn tiếp:
- Tôi càng nghĩ về trường hợp của D, tôi càng cảm thấy rằng ông ta phải dùng tới cách giấu bức thư nào mà hết sức lạ lùng, cách giấu dễ thấy đến nỗi như là không cần phải giấu nữa - vì như anh biết, những người tìm kiếm chỉ hay đi tìm những chỗ bí ẩn hóc hiểm thôi, chứ nếu nó lồ lộ ra trước mắt thì lại gà mờ, không thấy được.
Với ý nghĩ đó, tôi đến thăm D với một cặp kính xanh trên mắt. Tôi gặp D đang ở nhà, vừa ngáp vặt, vừa dạo quanh quẩn và làm ra vẻ chán đời lắm. D có lẽ chính là hoạt động nhất lúc này đấy, nhưng ông ta không bao giờ muốn cho ai biết điều đó cả.
Để cho ông ta khỏi nghi ngờ, tôi giả tảng nói là mình bị đau mắt nên phải đeo kính màu, nhưng sau cặp kính, mắt tôi ngó nhìn cẩn thận khắp nơi trong căn phòng, trong lúc giả bộ rất chú ý vào câu chuyện đang nói với ông ta.
Tôi để ý nhất đến một cái bàn giấy thật rộng, trên đó đầy nhóc những thư từ và giấy tờ đủ loại, với vài nhạc cụ và vài cuốn sách. Ngắm kỹ một hồi không thấy có gì khác lạ đáng nghi cả. Sau khi đã nhìn hết lượt căn phòng, tôi trông thấy một cái túi đựng hồ sơ bằng da treo trên tường, có viền gỗ kiểu cọ chung quanh và treo bằng một sợi dây băng bẩn thỉu lên một cái đinh đồng, phía trên bậc lò sưởi. Cái túi đó có ba bốn ngăn, đựng dăm sáu tấm danh thiếp và trông có vẻ rất nhàu nát, bẩn thỉu. Nó gần như sắp rách ra ở ngay chỗ giữa, như là người ta đã định xé nó đi rồi lại thôi, như đó là một vật vô giá trị. Trên phong thư có gắn xi, và tên người gửi chính là gia đình họ D, nét chữ là tuồng chữ đàn bà rất tinh vi. Người ta liệng nó ở đó như tuồng khinh thường, trong một ngăn trên của túi đựng hồ sơ đó.
Vừa trông thấy bức thư đó là tôi biết ngay nó chính là vật mình muốn tìm. Tất nhiên bề ngoài trông nó khác hẳn với bức thư mà viên cảnh sát trưởng đã tả cho mình nghe hôm trước, vì bức thư kia, xi gắn nhỏ và màu đỏ, mang tên người gửi là gia đình S, còn bức thư này, xi lại màu đen và to tướng, người gửi lại họ D... Ở đây tuồng chữ viết trên bao thư nhỏ nhắn, do tay đàn bà viết, còn ở kia là một tuồng chữ cứng cáp, gửi cho nhân vật trong triều; hai bức thư chỉ giống nhau có mỗi một điểm, đó là khuôn khổ của chúng bằng nhau. Nhưng chính vì sự khác nhau quá rõ rệt ấy của chúng, và bức thư lại quá đỗi bẩn thỉu, nhàu nát, trái với thói quen của D là người rất ngăn nắp, khiến cho tôi nghi ngờ D quả có ý định muốn đánh lạc hướng của những kẻ tò mò, bề ngoài làm như đó là một thứ tài liệu vô giá trị, và được đặt dưới mắt tất cả những ai ra vô đúng như điều tôi đã nghĩ là D sẽ phải sắp đặt như vậy, để không ai ngờ vực gì nữa cả.
Tôi ngồi lại với ông ta thật lâu, bàn cãi với ông ta về một vấn đề mà tôi biết ông ta rất thích nghe, trong khi đó tôi chú ý không ngừng tới bức thư kia. Tôi còn suy nghĩ thêm về cái bề ngoài của nó và tôi còn nhận thấy một điều khiến tôi hết cả mọi ngờ vực: Bức thư ấy có vẻ sờn rách một cách khác thường. Bao thư làm bằng giấy cứng và trông rõ là nó đã được lộn lại, mặt trái sang mặt phải, như một chiếc găng tay, rồi được dán lại và đề chữ bên trên lại. Điều đó đủ cho tôi chắc như đinh đóng cột đó là bức thư mình đang cần tìm. Tôi bèn đứng lên chào ông ta để về, cố ý để quên lại cái hộp đựng thuốc là bằng vàng trên mặt bàn của ông ta.
Sáng hôm sau, tôi đến để lấy cái hộp đựng thuốc lá, và hai chúng tôi lại nói tiếp câu chuyện bữa qua một cách rất hăng hái. Nhưng, trong lúc đang tranh luận, ở dưới cửa sổ bỗng nghe một tiếng nổ rất lớn, như tiếng súng lục, và tiếp theo sau là tiếng người la hét om sòm vì sợ hãi. D vội chạy ra cửa sổ xem chuyện gì. Ngay lúc đó, tôi đi đến ngay chỗ cái giá đựng hồ sơ, cầm lấy bức thư ở đó, cất vào túi và lấy từ túi tôi ra một bức thư khác trông bề ngoài cũng giống vậy, đặt thế vào đó, bức thư này tôi đã sửa soạn kỹ lưỡng từ trước ở nhà và cũng làm giả dấu xi bằng ruột bánh mì nhuộm mực đen.
Tiếng động dưới cửa sổ chỉ là trò nổi hứng bất tử của một người mang súng. Hắn ta đã bắn chơi ngay giữa đám đông đàn bà và trẻ con, nhưng súng hắn ta không để đạn thật, mà chỉ là đạn mã tử nên người ta cho hắn là một tên say và không ai bắt giữ hắn cả. Khi hắn đã đi rồi, D từ cửa sổ quay trở lại. Tôi cũng quay vào theo - vì sau khi tráo được bức thư, tôi cũng chạy đến cửa sổ ngay - Một lát sau, tôi chào ông ta ra về. Cái người giả bộ điên bắn súng dưới cửa sổ đó cũng chính là do tôi đã mướn để hắn làm như vậy.
Tôi hỏi:
- Nhưng vì lẽ gì mà anh lại phải thay thế bức thư bằng một bức giả mạo? Sao anh không lượm lấy ngay bức thư kia từ chuyến đi thăm đầu tiên có phải là giản dị hơn không?
Đỗ Văn trả lời:
- D là người có thể làm bất cứ chuyện gì, hơn nữa, hắn lại khỏe mạnh. Ngoài ra, hắn còn có trong nhà nhiều tên hầu trung tín. Nếu tôi liều lĩnh mà làm như điều anh vừa mới nói, thì không dễ gì sống sót mà ra khỏi nhà hắn được. Dân Ba Lê sẽ không còn ai nghe nói tới tôi nữa. Nhưng, ngoài vấn đề đó ra, tôi còn một mục đích khác nữa. Anh cũng biết khuynh hướng chính trị của tôi rồi chứ gì? Trong vụ này, tôi tán đồng bà kia. Từ mười tám tháng nay tên bộ trưởng gây áp lực với bà ta. Bây giờ đến lượt bà ấy nắm trong tay số phận của hắn, vì hắn không biết rằng đã mất bức thư đó rồi, và thế nào hắn cũng sẽ tiếp tục hăm dọa bà ấy như trước. Bà ta sẽ lợi dụng chuyện đó cho hắn chết vì lúc phát giác ra là mất bức thư, hắn đã vỡ mặt. Hắn sẽ tuột dù một cách lố bịch: Người ta nói lên thì dễ, xuống mới khó. Trong trường hợp này, tôi không có cảm tình hoặc thương hại D chút nào, vì hắn là một người tài giỏi nhưng vô lương tâm. Tuy vậy, tôi cũng rất muốn biết hắn sẽ nghĩ gì khi bị bà kia thách đố và hắn phải mở bức thư của tôi để lại cho hắn ra xem.
- Sao, bộ anh có viết gì cho hắn trong ấy ư?
- Chứ sao! Tôi cũng có thể chỉ để một tờ giấy trắng thôi, như là chửi vào mặt hắn ta. Nhưng, lần trước, ở thủ đô Áo quốc, đã có lần hắn chơi tôi một vố cay chua, và tôi đã cười cợt nói với hắn rằng tôi sẽ nhớ chuyện đó. Vì vậy nhân dịp này, tất hắn sẽ tò mò muốn biết ai đã chơi xỏ hắn, tôi nghĩ là nên để lại một dấu hiệu nào đó cho hắn. Vì hắn biết nét chữ của tôi rồi, tôi chỉ cần viết giữa trang giấy hai hàng chữ:
Giết nhau chẳng cái lưu cầu [1]
 
Chú thích:
[1] Lưu cầu: thanh gươm nạm ngọc.
HẾT

Xem Tiếp: ----