ão cố gắng với tay về phía ngọn đèn nhưng hoàn toàn bất lực. Sức lực nội tại như tan biến, hòa vào hư không, bỏ trơ lại tấm thân tàn tạ vì mấy tháng trời rong ruổi cùng chiếc xe đạp. Lão nhớ rất rõ tai nạn đã xảy ra như thế nào, mặc dù không chắc lắm hồi ức của kẻ vừa thoát khỏi tay thần chết sẽ hoàn toàn chính xác. Sự chính xác mà theo lão nghĩ, là một phạm trù ước lượng hơn là một định lượng rõ ràng. Như thế nhưng con người vẫn thích nói “chính xác”, và không hiểu rằng muốn đạt được nó cần phải có nhiều sự chính xác hơn nữa, để biến mớ hỗn độn mơ hồ trở thành một thứ chân thực, hiện hữu, có thể cân đo đong đếm được... 
Lão cố đưa cái chân lên trước mặt và muốn biết “chính xác” nó còn lành lặng, để có thể cùng lão lao vào cơn bão điên khùng nhất mà mình từng đối mặt. Cơn bão của lòng tự trọng bị tổn thương, đau đớn, ngoắc ngoải, rên xiết và giận dữ. Sự giận dữ mà lão chỉ có thể tóm tắc với định nghĩa “tột cùng” của sự tột cùng không thể nào khác hơn. Có ai nghĩ rằng, một lão già ngót sáu mươi tuổi lại có thể trải qua những điều lão đang chịu đựng. Cái đau đớn bên ngoài nào có sá gì so với sự thiêu đốt bằng lửa địa ngục mà lão từng nghe các thiền sư luận giải. Tám đứa con của lão sẽ nghĩ gì, nếu biết lão nằm đây, không người thân thích, với những vết thương... cũng chỉ là vết thương, có thể lành trong nay mai, hoặc không bao giờ hồi phục... Bọn chúng ở xa lắm, đều bên nước người, và không thể nào hiểu được điều gì đang âm ỉ trong trái tim người cha bất hạnh. 
Quá khứ nào mà chẳng đẹp! Nếu không như vậy, tại sao con người phải mất thời gian để nhớ đến. Theo cách nghĩ của lão, cái đẹp trong quá khứ phải gắn mình cùng hiện thực. Hiện tại đau khổ mà quá khứ vàng son chỉ làm cho con người dễ dàng rơi lệ. Còn nếu như hiện tại vui thì quá khứ chẳng nghĩa lý gì. Chính vì điều này mà lão rơi lệ, nước mắt lai láng... 
Cô gái đôi mươi ngày nào đã trở thành người vợ hiền bên cạnh ông chủ tàu cá, rồi tiếp theo là những đứa con... Chúng lớn lên cùng biển và cũng chính biển đem chúng đi xa... Tám đứa con đều thành đạt tại nước ngoài. Tiền bạc không thiếu. Cơ ngơi khang trang. Ấy vậy mà lão bị vợ “cắm sừng”. Chuyện không thể tin và không thể nào “chính xác” hơn chuyện ấy! Điều này khiến lão tổn thương, đau khổ lẫn thẹn thùng, bởi chính người đàn bà đã cùng chung sống suốt mấy mươi năm. Làm sao có thể giải thích minh bạch và tận tường một hệ quả đau khổ, bắt đầu bằng những tốt đẹp hằng đêm lão ấp ủ, yêu thương, lẫn cả sự trân trọng... Và mọi chuyện đã thay đổi đến thảng thốt, choáng ngợp mà ngay cả những người thân nhất cũng sửng sốt trước hung tin: “Lão đã bị bỏ rơi!” Bỏ rơi một cách không thương tiếc và lạnh lùng ở cái tuổi gần đất xa trời. Điều này thật khó chấp nhận... 
Nếu như ngày còn trẻ, cuộc sống chung đụng có thể đưa đến bất hòa, ly hôn, hoặc ly thân là chuyện bình thường. Nhưng... lão bị vợ cho “rơi” vào lứa tuổi ngót sáu mươi. Một việc không thể tin nhưng chẳng cách nào “khước từ” khi chuyện vợ chồng luôn bắt đầu từ hai phía. Có thể lão muốn níu lại chút hy vọng nào đó, nhưng mọi cái trở nên bỉ ổi và đáng khinh, khi nghĩ đến hành động van xin hay cầu khẩn trước người vợ trẻ nhỏ hơn mình mười mấy tuổi... 
Cuộc sống vốn đẹp khi mọi cái thật hoàn hảo, và sẽ trở thành địa ngục khi hiện thực trở thành ảo ảnh. Một thứ ảo ảnh không thể sờ nắm, chỉ dùng mắt nhìn nó xuất hiện rồi tan biến tận trời xa. Lão nghĩ mình đang bị quả báo của tiền kiếp nên mới gặp cảnh ngộ này. Bi thương, uất hận, khinh bỉ, xuất hiện trong lão như một cơn bão dữ, và lão bị cơn bão ấy lôi đi xa mà không có hành động nào cưỡng lại. Tài sản, cơ ngơi không còn quan trọng! Đối với lão chỉ là sự trốn chạy, thoát ly, tránh xa cõi trần tục mà tự thân luôn là nỗi sầu đau giam hãm con người. Lão nguyện lên núi, đến chùa xin xuống tóc quy y cửa phật. Và trong cơn phẫn nộ, nếu bị chối từ lão sẽ tìm đến cái chết, như sự giải thoát thiết yếu không phải cãi bàn. 
Mọi cái lại cay đắng hơn khi cõi tục vẫn là cõi tục. Tự thân những ngôi chùa đã bị loài người biến thành nơi mưu sinh không tổn chút mồ hôi. Mớ tóc trên đầu lão vẫn còn đó, bởi lẽ nó không thể rơi xuống cho một ước nguyện đơn giản nhưng lại không đơn giản chút nào. Đâu phải ai, cứ muốn là được, quỳ xuống chân phật thí phát, rồi bỗng chốc trở thành hòa thượng, trút bỏ mọi đau khổ của nhân gian. Đi tu cũng phải có giá của nó, nếu không, khắp thiên chắc dẫy đầy hòa thượng... Điều này khiến lão đau khổ cực cùng, chao đảo như cánh chim giữa gió ngàn mất  hướng... 
Sườn núi phía tây không có chiếc xe đạp, phương tiện duy nhất trong cơn phẫn uất lão đã mang đi. Khi con người sầu khổ, bế tắt lại muốn hành hạ thân xác đến kỳ cùng, và lão đã dùng nó vượt qua mấy trăm cây số để đến được nơi này. Một địa điểm đã được lựa chọn, một kết cục đã phơi bày. Thế mà quyết định sau cùng là sườn núi phía tây, hướng về quê Phật, lão tự quyết số phận chính mình... 
Ai có thể thấu hiểu tâm trạng của lão trong sự nhếch nhác, rã rời bởi những đêm không ngủ. Hành trình như kẻ mộng du. Bước đi trong vô thức chẳng rõ ràng đích đến. Râu tóc lổm ngổm vì trí nhớ bỏ quên. Và từ trên thân thể cáu bẩn bốc lên cái mùi khăm khẳm, ràn rụa mồ hôi bởi  những tháng ngày rong ruổi mê muội. Nhìn những kẻ thoáng qua trên đường dâng hương lễ phật, trong bóng tối mù đen phủ đầy tri giác bỗng bừng lên một hy vọng. Ngọn lửa bừng lên từ tâm khảm hướng bước chân ngoắc ngoải, thương đau, lần tìm về thánh địa giải thoát. Chỉ cửa phật mới chứa chấp con người cùng khốn. Chỉ phật môn thanh tịnh mới giúp lão nguôi ngoai nỗi khổ đang thống trị mình... 
Thế nhưng lão bị từ khước!  Khước từ bởi nhiều lý do mà trong phẫn nộ lão vẫn thấy được... Lão trở thành kẻ vô gia cư đang tìm nơi lánh ẩn hơn là một kẻ chán ngắt cảnh phàm trần muốn trốn chạy thế nhân. Sự từ chối lạnh lùng thay cho cách giải thích thỏa đáng... Và lão tìm đến sườn núi phía tây như một cứu cánh cho sự giải thoát yên bình... 
Lão chưa thể chết vì cái trượt chân trong bóng tối. Ý định chỉ còn một nửa khi lão lăn mình xuống sườn dốc đầy cỏ dại. Mở mắt ra, lão thấy mình nằm đấy, trơ trọi, hiu hắt, và tự hỏi tại sao mình vẫn sống... Sống trong nỗi chết, sống trong ký ức kinh hoàng về một gia đình bỗng chốc nát tan, vỡ vụn từng mảnh, vô vọng cứu vớt. Ấy vậy mà lão vẫn sống... Sống thừa và ô nhục... 
Cái chết đã từ chối thân xác mỏi mòn, khô héo. Cái chết thật bất công khi chẳng ra tay cứu rỗi một linh hồn nhỏ bé đang tự nguyện dâng mình... Lão nằm đấy với tri giác hỗn loạn, bất định, với hơi thở đứt đoạn từng nhịp, nhưng... vẫn cứ sống... 
Hấp lực trái đất đã kéo lão lăn xuống một căn chòi bỏ không thay cho địa ngục. Và khi tỉnh lại, lão nguyền rủa sự may mắn của chính mình. Bây giờ lão muốn tiếp tục được rơi xuống nhưng thân xác lại đông cứng không thể cưỡng cầu. Số phận đã có tiếng nói quyết định về một con người đang cố tìm chết. Số phận đang mỉm cười, trong khi lão là kẻ khóc than...! 
Cái chết là một phần của sự sống. Cái chết đưa linh hồn vào vòng sanh tử của thuyết luân hồi. Lão đã nghe và đọc nhiều điều đó trong kinh sách, nhưng vẫn không hiểu được kết quả của chính mình. Bố thí tạo phước lão đã làm không ít. Đi chùa lễ phật là công việc thanh thản mỗi tháng lão đều làm... Ấy vậy mà mọi thứ đều quay lưng. Quay lưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng nhất của một con người lạc lõng không nơi bám tựa. Sự lạnh lùng đó có phải do tiền kiếp lão đã gieo nhân - một suy nghĩ lâu nay lão vẫn nghi ngờ nhưng lại trở thành hiện thực. Thế thì công đức bao lâu nay đi về đâu trong khung cảnh thương hải tang điền? (biển cả biến thành nương dâu) Lão muốn la to trong nỗi thống khổ nghẹn lời. Muốn gào thét vang vọng thấu trời cao. Nhưng... trong thâm tâm hiểu rằng đó là sự vô ích dại khờ. Không ai có thể cứu lão! Không ai đổi hướng để “quay đầu” (Đáo đầu thị ngạn) Mọi sự đều quay lưng... Cái chết là sự cứu rỗi cũng quay lưng. Lão buồn trong sự sống và lẫn cả cái chết... 
Mưa ư? Ồ, mưa từ mắt lão! Vị mưa mằn mặn chảy trên đôi môi nứt nẻ, bỏng rát... Mưa được định nghĩa là nước trên cao rơi xuống. Mưa tự nhiên và mưa nhân tạo. Lão cười vì mình có tài làm mưa. Mắt lão làm ra mưa! Gọi là mưa tự nhiên hay nhân tạo nhỉ?... 
Trăng non trên sườn núi phía tây xuyên qua mái tranh lỗ chỗ. Ánh đèn lay lắc vì những ngọn gió va đập vào vách núi... Tất cả điều này báo hiệu sự sống khi nhận thức quay về. Thế mà lão đâu có vui... Ý lão ra sao...!? 
“Chú tỉnh rồi à?” 
Trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn, lão cố giương đôi mắt mỏi mệt để nhìn.. 
“Chú là ai?” 
“Tôi là người dọn dẹp.” 
Lão lấy làm lạ lắm. Trên đời có nghề dọn dẹp ư? 
“Chú dọn dẹp cái gì?” 
“Bất cứ thứ gì mà con người muốn. Tôi làm họ trả công. Có khi làm không công nữa ấy!” 
Lão muốn ngồi dậy lắm, nhưng không sao thực hiện được. 
“Có việc ấy sao?” 
“Có đấy! Những việc không phí sức biết tính làm sao? Hoặc giả khi gặp kẻ nghèo khó thì giúp giùm. Như thế là không công.” 
Lão muốn cười lắm nhưng đầu lại choáng. Lời nói người này làm lão nhớ đến một việc. 
“Chú muốn tạo phước bằng cách bố thí công sức ư? 
Vẫn là tiếng nói nhẹ nhàng ấm áp vang lên. 
“Bố thí không phải là tạo phước. Bố thí chỉ có ý nghĩa như hành vi san sẻ giữa con người với nhau. Việc này lâu ngày sẽ giúp ta xem thường ngoại vật mà xuất tâm từ bi.” 
Dù sao lão vẫn cố cười trước lời nói này. 
“Các nhà sư vẫn nói “bố thí là tạo phúc” kia mà? 
“Đó là một nhầm lẫn có khối người tin theo. Chú cứ nghĩ mà xem, nếu bố thí là tạo phúc thì bao trùm trong thiên hạ ai nhiều tiền bằng vua chúa, quan lại... Những quan chức, kẻ giàu sang, phúc sẽ to như Thái Sơn. Còn người nghèo, không có tiền bố thí lại vô phúc ư?” 
Đến đây thì lão thở dài. Lão vẫn thường bố thí kia mà! Nhưng... kết quả... 
“Vậy làm sao để có phúc?” 
“Phúc đến do duyên. Họa đến cũng tùy duyên.” 
“Thế “duyên” từ đâu mà có?” 
“Duyên không có hình hài nhưng phúc họa lại có. Vậy, nhìn phúc họa thì được “duyên”. Muốn thì thấy, không muốn lại trở về không.” 
Trong lòng lão cực kỳ kinh ngạc. 
“Chú là... nhà sư...?” 
Tiếng cười thoảng trong gió. 
“Tôi là người dọn dẹp. Chú quên rồi à?” 
“Cách nói chuyện này là của nhà sư kia mà?” 
“Ngôn ngữ là của chung. Chẳng lẽ tôi không được nói?” 
Lão bắt đầu tôn trọng người này. 
“Ai thường thuê chú dọn dẹp?” 
“Nhà cửa bề bộn không có đường đi thì thuê tôi. Cây cối rậm rạp cản trở tầm nhìn thì thuê tôi.  Tâm trạng ngổn ngang thì...” 
“Thì... sao...?” 
“Thì dọn dẹp.” 
“Chú giúp được sao?” 
“Cái đó thì tôi không giúp được. Ngay cả hiền giả Thích Ca cũng không giúp được.” 
Lão bắt đầu giận dữ. 
“Người ta thường nói: “Phật độ chúng sinh” kia mà? Thật là vô lý...” 
Vẫn giọng nói bình thản ấy vang lên. 
“Nếu nói “Phật độ chúng sinh” cũng chưa gọi là đúng. Phải nói rằng “chúng sinh độ Phật” để được bình đẳng hơn. Hiền triết Thích Ca đã nói rằng: “Ta chỉ là người phát hiện ra chân lý chứ không phải là kẻ sáng tạo ra chân lý. Ta có thể chỉ ra con đường giải thoát nhưng không thể nào đi thay cho các người được...” Như vậy khi ta coi đây là một tiên đề thì rõ ràng Phật không thể nào độ được chúng sinh, mà chúng sinh lại độ được Phật ấy. Khi còn trẻ Thích Ca sống trong chúng sinh và thấy được kiếp người khốn khổ mới quyết tâm tầm đạo “giải thoát”, cuối cùng đắc nguyện. Vậy, nếu không có chúng sinh thì ngài làm việc ấy để mà chi? Hiện tại các bậc chân tu tại chùa chiền, nếu ngày nào đó đắc ngộ chân lý, cũng đã được chúng sinh độ trì chén cơm manh áo. Như vậy chúng sinh đã độ được Phật thì phải tự độ cho chính mình, bởi hiền giả Thích Ca nói, không thể nào đi thay cho ta được...” 
“Vậy người ta đi tu, lạy phật để làm gì?” 
“Tất cả chỉ là phương tiện. Ngay cả thân xác ta cũng là phương tiện để tìm hiểu về “chân lý giải thoát”. Sở dĩ hiền giả Thích Ca không lập văn tự, vì sợ rằng các học trò sẽ cho lời nói của mình là chân lý, thay vì là phương tiện nên mới vậy! Chú có thấy vầng trăng kia không? Đó chính là “chân lý giải thoát” mà hiền giả Thích Ca đã từng nói. Thế nhưng con người cứ cho ngón tay của ngài là chân lý chứ không chịu nhìn về ánh trăng. Ngón tay chỉ là phương tiện. Ngũ giới cũng là phương tiện. Tụng kinh niệm phật cũng là phương tiện. Đã là phương tiện thì có nhiều cách thay thế. Giống như muốn qua sông thì phải dùng đò, không đò thì thay thế bằng bè, hoặc giả bơi qua vậy.” 
“Vậy làm sao để giải thoát nếu không vào chùa tu tập?” 
“Nhà chùa cũng là phương tiện. Nếu không đến chùa ta có thể truy tầm chân lý qua con đường nhận thức. Mọi khổ đau trong thiên hạ vốn xuất phát từ tâm. Ta chấp trước, ta tham dục, ta vọng tưởng, ta tham ái, đó là mảnh đất mầu mỡ cho tam độc trỗi dậy khơi gợi khổ đau. Vô thường là sự thay đổi. Hai người đi chung lâu ngày tất bị chi phối bởi quy luật thành hoại, hợp ly, có sự chết và sống. Nếu cả hai thay đổi theo hướng giống nhau là hợp, còn khác nhau lại ly. Ly lại phát triển theo một hướng mới rồi hợp ở một nơi khác. Giống như ngọn lửa, tắt nơi này lại cháy tại nơi kia...” 
“Hiện tại tôi đau khổ cùng cực, phải làm sao để giải tỏa?” 
“Đau khổ là hạt giống. Tâm tư là mảnh đất gieo trồng. Giữ cho tâm tĩnh lặng như hư không, khổ đau bám vào đâu.” 
Trời đêm lạnh lắm, lão trở mình nằm suy nghĩ. Nếu tâm trống rỗng thì thành người chết mất rồi. Người chết khổ hết. Nhưng lão muốn chết cũng đâu có được! 
“Làm sao để có tâm không?” 
“Mây bay nước chảy, con người cho rằng bình thường. Mặt trời lặn, mọc chẳng ai quan tâm. Con người chỉ quan tâm những điều liên hệ đến thân mà thôi. Vậy quên thân thì được “tâm không” 
“Trời ạ! Làm sao có chuyện đó?” 
“Có đấy thôi. Chú hành hạ thân xác và ra tận sườn núi phía tây, nơi nguy hiểm để làm gì? Chú không màng sự sống, sao để tạp niệm nhiễu phiền. Mọi cái là “không” thì muôn việc bình thản. Tạp niệm, vọng tưởng tiêu tan, gọi là đắc ngộ Niết Bàn vậy.” 
“Thế thì Niết Bàn có hay không? Phật có hay không?” 
“Có và không chính là vọng tưởng. Bặt hết mọi vọng tưởng mọi cái đều là “Không”. Người đời thường nói: Khi mê thì ở bờ bên này. Khi ngộ thì ở bờ bên kia. Như thế là chấp trước. Lúc ngộ rồi là “lìa cả đôi bờ”. Như vậy cũng là “Không”. 
Ánh sáng ngọn đèn nhòe đi trước mắt lão. Hình ảnh người nói không thể phân định rõ ràng. 
“Chú tên gì vậy?” 
“Tôi không có tên.” 
“Lời nói của chú, tôi thấy lạ lắm!” 
“Không gì là lạ. Tự thân chân lý đã sẵn có, chỉ tại con người chưa gặp duyên đối diện với chính mình.” 
Lão thấy đôi mắt mình trĩu nặng. Lời nói người kia lơ mơ trong tâm thức lẫn lộn tỉnh mê. Lão muốn tranh luận tiếp nhưng sức lực đã đến hồi cạn kiệt. Chỉ có giấc ngủ mới khiến con người tỉnh táo và khỏe mạnh hơn sau những lao lực miệt mài. Thế là lão thiếp đi, êm ái như đứa trẻ thỏa mãn cơn khát sữa trong đôi tay dịu dàng của mẹ hiền. Gió núi cất điệu ru hời. Trời làm chăn màn. Đất thay chiếu manh. Hạnh phúc ngắn ngủi chợt đến như cơn mưa xóa tan oi bức của hạ mùa nóng bỏng... 

*

Tiếng chim hót lảnh lót trong nắng mai khiến lão choàng tỉnh. Lão nằm im, hồi tưởng tất cả sự việc đã xảy ra. Biết đâu đây là một thế giới khác chào đón lão từ cái trượt chân trong đêm tối. Và linh hồn lão đang lang thang đâu đó trong địa ngục thâm u tại cửu tầng. Lão dụi mắt để trông mọi vật rõ ràng hơn với những hồi ức liên tục hiện về. Căn chòi lá với những cơn gió núi. Tiếng nói ấm áp của người lạ trong ánh sáng nhập nhoạng bởi ánh đèn... Tất cả những việc ấy thoáng qua như cơn mơ đã được kết dính tự thuở nào. Lời kinh, tiếng kệ, những đoạn minh triết từ các luận sư lưu lại trên các trước tác của mình. Tất cả lung linh đến huyền ảo trong mắt lão... 
Chậm rãi và khoan thai, lão đứng dậy trên đôi chân ngập đầy vết xước. Cái đau đã bị chôn vùi và chết lặng trong thân xác lãng quên. Bỗng chốc mọi cái vụt tan biến, mất tăm như hòn đá được ném vào biển cả... Tiếng nói trong đêm tối. Ánh đèn. Lời kinh. Tiếng kệ. Chúng đang tan ra, hòa vào không gian và mất dần trong mắt lão... 
Sườn núi phía tây không có ánh mặt trời. Mặt trời sau lưng, để lại bóng chiếu hướng về tây, như ngón tay của hiền giả Thích Ca nhắn nhủ cùng nhân loại. Lão tiến dần xuống núi trong bóng râm hòa dịu, không còn bận tâm đến con người kỳ lạ đã chuyện trò cùng mình trong đêm tối khổ đau. Mọi cái đều không thật! Trong lòng lão chỉ còn một niềm tin không gì lay chuyển: Theo hướng bóng chiếu của mặt trời, cuối cùng lão sẽ bước vào vùng sáng rực rỡ của ngày mới. Không môn đang mở. Lúc ấy, mọi sự đều biến mất. Và xác thân lẫn tinh thần này đều hòa vào  vĩnh viễn Cửa Không... 
Saigon 30.3.2015 
MacDung 
Lời Bạt: Câu chuyện được hư cấu trên một phần của sự thật, nhân chuyến hành hương về núi Bà Đen, Tây Ninh cách đây hơn hai mươi năm. Người đàn ông trong truyện là có thật, với số phận tương tự mà tôi cố gắng lột tả tâm trạng qua khả năng thô thiển của bản thân. Tinh thần câu chuyện đã mượn triết học Phật giáo làm nền tảng, với tưởng sâu sắc của hiền triết Thích Ca, người sáng lập ra Phật giáo, của sơ tổ Đạt Ma và lục tổ Huệ Năng, cùng các trước tác của nhiều học giả được thể hiện qua trí nhớ. Nếu trong tác phẩm có đoạn nào trùng lập hay giống ý, chẳng qua là sự thống nhất về cách nhìn nhận thông qua quan điểm cá nhân. Suy nghĩ của nhân vật tự thân đã có ngoài đời, chứ không nhằm vào cá nhân hay bất cứ tổ chức nào hiện hữu. 
Và tôi viết tác phẩm này nhân cảm hứng từ bài viết của một người bạn biết nhau qua văn hóa mạng. Người bạn ấy, tôi chưa từng hỏi tên, sinh nghiệp ra sao, gia cảnh như thế nào... Chỉ biết rằng đó là người bạn “tinh thần” được tôi trân trọng viết tặng câu chuyện này, với niềm tin mọi sự đều hòa vào... “Cửa Không”... 
MacDung: Kính Bút 

Xem Tiếp: ----