PHỤ LỤC 1
THẾ THỨ CÁC TRIỀU ĐẠI TỪ THỜI HÙNG VƯƠNG ĐẾN HẾT thế kỉ THỨ X

I - Thời đại Hùng Vương

    
hoa học lịch sử hiện đại cho rằng, thời Hùng vương chỉ mở đầu cách nay khoảng hai ngàn năm trăm năm (chứ không phải là bốn ngàn năm như nhiều sách vở trước đây vẫn thường nói).
- Về niên đại kết thúc của thời Hùng Vương, phần lớn các nhà sử học hiện nay cho là vào khoảng năm 208 trước Công nguyên chứ không phải là năm 258 trước Công nguyên như sử cũ vẫn nói.
- Các nhà sử học hiện nay cũng cho rằng, hai chữ Hùng Vương gồm hai thành tố khác nhau. Thành tố thứ nhất là Hùng. Thành tố này có lẽ bát nguồn từ sự phiên âm Hán Việt của một từ Việt cổ nào đấy, có ngữ âm và ngữ nghĩa gần với các từ Run, Khun hay Khunzt của đồng bào các dân tộc anh em như Mường, Thái, Munđa..., theo đó thì Run, Khun, hay Khunzt đều có nghĩa là trưởng, thủ lĩnh, người đứng đầu...v.v. Thành tố thứ hai là Vương. Có lẽ, đây là thành tố do các nhà chép sử đời sau thêm vào, cốt để tỏ rõ rằng, thủ lĩnh hay người đứng đầu (Hùng) là thủ lĩnh hay người đứng đầu nhà nước. Đứng đầu quốc gia, nếu không là đế thì nhất định là vương mà thôi. Như vậy, Hùng Vương là tên tước vị, xuất hiện do phiên âm một từ Việt cổ nào đó.
- Sử cũ có nói đến con số mười tám đời Hùng Vương, nối nhau trị vì liên tục trong 2622 năm (từ năm 2879 trước công nguyên đến năm 258 trước Công nguyên). Đó là những con số rất khó thuyết phục.
- Các nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng, các vua Hùng chỉ có thề nối nhau trị vì trong khoảng 300 năm, với niên đại kết thúc là năm 208 trước Công nguyên (chứ không phải là năm 258 trước công nguyên). Trong khoảng thời gian như vậy, con số mười tám đời Hùng Vương là hoàn toàn có thể có.
- Theo Hùng triểu ngọc phả thì mười tám đời Hùng vương là:
1. Hùng Dương (tức Lộc Tục).
2. Hùng Hiền (tức Sùng Lãm).
3. Hùng Lân.
4. HùngViệp.
5. Hùng Hy.
6. Hùng Huy.
7. Hùng Chiêu.
8. Hùng Vỹ.
9. Hùng Định.
10. Hùng Hy (cùng âm với đời thứ 5 nhưng mặt chữ Hán thì hoàn toàn khác).
11. Hùng Trinh.
12. Hùng Võ.
13. Hùng Việt.
14. Hùng Anh.
15. Hùng Triều.
16. Hùng Tạo.
17. Hùng Nghị.
18. Hùng Duệ.
- Thời các vua Hùng, quốc hiệu của ta là Văn Lang. Khoa học lịch sử đã chứng minh được rằng, Văn Lang là một thời đại có thật. Thủ phủ của các vua Hùng là vùng Bạch Hạc (Vĩnh Phú) ngày nay.

 

2 - Thời đại An Dương Vương

- Theo ghi chép của sử cũ, An Dương Vương húy là Thục Phán, làm vua nước Âu Lạc từ năm 258 trước Công nguyên đến năm 208 trước Công nguyên. Nhưng, các nhà nghiên cứu hiện nay lại cho rằng, nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong khoảng thời gian từ năm 208 trước Công nguyên đến năm 179 trước Công nguyên, tổng cộng gần ba chục năm.
- Cũng theo ghi chép của sử cũ, Thục Phán là con của vua nước Ba Thục, nhân khi Hùng Vương suy yếu, đã đem quân đến đánh và lật đổ Hùng Vương, làm vua nước ta, xưng là An Dương Vương, đổi tên nước ta là Âu Lạc. Nhưng, kết quả nghiên cứu của khoa học lịch sử hiện đại lại cho thấy, An Dương vương là thủ lĩnh của các bộ tộc Âu Việt (cư trú chủ yếu ở vùng Việt Bác và Tây Bắc nước ta ngày nay). Kể từ năm 214 trước Công nguyên, nếu Hùng Vương tỏ ra bất lực trong sự nghiệp tổ chức và lãnh đạo nhân dân chống lại cuộc tấn công ồ ạt của quân Tàn, thì trái lại, Thục Phán là một trong những vị anh hùng chống xâm lăng. Năm 208 trước Công nguyên, Thục Phán được tôn lên làm vua. ông xưng là An Dương Vương, đổi gọi tên nước là Âu Lạc.
- Kinh đô của Âu Lạc là cổ Loa (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Nay, di tích thành cổ Loa vẫn còn.
- Năm 179 trước Công nguyên, Âu Lạc bị vua của nước Nam Việt là Triệu Đà thôn tính. Từ đây, thời kì đen tối lâu dài nhất của lịch sử nước ta bắt đầu: Thời Bắc thuộc.