ại San Francisco, Haas nôn nóng đợi tin tức từ nhóm ba người đã đón tàu thủy trên đường truy lùng Cựu thủ lĩnh Văn phòng Ám sát. Thời gian vùn vụt trôi qua, hạn cuối cùng của bản hợp đồng mỗi lúc một kề. Mãi đến cuối cùng hắn mới nhận được một bức thư gửi qua kiện hàng thư tín. Haas thân mến. Tôi có thể tưởng tượng ra anh đang sốt ruột đi đi lại lại trong phòng, nói lầu bầu trong miệng bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái cổ không hiểu chúng tôi có trở thành nạn nhân của cái bùa mê nhàn nhã trên quần đảo xinh đẹp này không. Hay có thành nạn nhân của P. hay không. Anh có thể yên tâm, chúng tôi chẳng thành nạn nhân của thứ nào cả. Nhưng công việc chẳng dễ dàng đâu. P. đã khéo léo sắp đặt một đường dây về hướng Tây, còn chúng tôi thì tin chắc rằng hướng tẩu thực sự của ông ta sẽ là hướng Đông. Chúng tôi đang theo dõi Hall và con gái ông ta rất cẩn thận. Khi họ khởi sự di chuyển về hướng này, chúng tôi sẽ nắm được đầu mối. Chúng tôi hiểu rằng thời hạn sắp hết, nhưng anh chớ lo. Văn phòng chưa hề thất bại và giờ đây sẽ không thể thất bại. Anh có thể nhận được một bức điện mật vào bất kỳ ngày nào. Nhân tiện, báo anh hay một tin tình cờ: P. cũng có sử dụng cái tên Barosi khi đi lại. Chúng tôi khám phá ra điều này khi điều tra trên tàu Eastern Clipper. Phải, ông ta đã thoát được. Khi chúng ta hội ngộ sau khi hoàn tất công vụ này, chúng tôi sẽ kể anh nghe toàn bộ câu chuyện. Starkington. Tái bút: Lucoville đã đâm ra mê mẩn “poi” [1], một món ăn hổ lốn chẳng thể nuốt nổi làm từ rễ cây khoai sọ. Khi chúng tôi trở về, nhất định sẽ còn lôi thôi hơn nữa với hắn ta và chế độ kiêng khem của hắn. Haas nhíu mày đặt bức thư xuống. Kiện hàng bưu tín đã được gởi đi từ Honolulu cách đây chín hôm, đáng lẽ ra đến bây giờ phải nhận được thêm một bức điện nữa từ Starkington chứ. Bộ ba đã ở Hawaii gần một tháng rồi, chỉ còn chưa đầy sáu tuần nữa để hoàn thành nhiệm vụ. Hắn cầm lá thư lên và ngiên cứu nó thật cẩn thận một lần nữa. Barosi à? Cái tên gợi nhớ một âm hưởng nào đó. Có một công ty xuất nhập khẩu lớn mang tên đó. Hắn biết công ty đó có văn phòng đặt tại New York, có lẽ họ cũng có văn phòng đặt tại Honolulu. Hắn ngồi trong căn phòng vắng lặng, tay đong đưa lá thư trong khi bộ óc đáng sợ tính toán tất cả mọi khả năng có thể xảy ra. Hắn đứng dậy, đầu óc lóe lên một quyết định. Nếu trong hai ngày tới mà không nhận được bức điện nào, hắn sẽ đón chiếc tàu thủy đầu tiên đến quần đảo. Trong thời gian chờ đợi, hắn sẽ tự chuẩn bị sẵn sàng vì một khi đến đó rồi, hắn sẽ chẳng còn được mấy thời gian quý báu. Hắn xếp thư lại, nhét vào túi và rời phòng ra đi. Nơi hắn dừng lại đầu tiên là thư viện công cộng. Người quản lý thư viện nhiệt tình đưa cho hắn một bản đồ quần đảo Hawaii cỡ lớn. Hắn trải rộng bản đồ ra trên bàn và khom người nghiên cứu cẩn thận từng chi tiết đảo Oahu. Đường dây đi về hướng Tây, ngón tay hắn lần theo một đường kẻ ngoằn ngoèo chạy dọc theo bờ biển từ Honolulu qua Nanakuli và Waianae đến một dải đất nhỏ gọi tên là Điểm Kaena. Hắn gục gặc đầu. Đó là một đường dây giả nhằm đánh lạc hướng, Starkington sẽ không lầm lẫn về điểm này được. Những con đường về hướng Đông phức tạp hơn nhiều. Vài đường chạy băng qua ngã tư Nuuanu Pali và chấm dứt trong rừng cây, hay dẫn quanh co xuống những bãi biển không có tên gọi. Một đường chỉ mong manh đánh dấu một con đường chạy lên và bọc hậu Đỉnh Kim Cương, rồi đâm ra biển tại một mũi đất hình cung tên là Đỉnh Makapu. Hắn đẩy bản đồ sang một bên và tựa lưng xuống ghế suy nghĩ. Hắn cố đặt mình vào vị trí Pazini. Tại sao ở lại Oahu? Tại sao không đi đến một trong vô số hòn đảo quanh đó, chẳng hạn như đảo Niihau hay đảo Kawai nằm rải rộng về hướng Tây, có vài đảo hoang, vài đảo mật độ dân cư vô cùng thưa thớt đến nỗi việc tìm ra tung tích trong thời gian ít ỏi còn lại dành cho Văn phòng là rõ ràng không thể thực hiện nổi. Tại sao cứ ở mãi trên cái hòn đảo tạo điều kiện dễ dàng nhất cho việc bị phát hiện? Đương nhiên chỉ có duy nhất một khả năng là ông ta mong muốn bị phát hiện. Hắn ngồi thẳng dậy, đầu óc hối hả tính toán. Và tại sao ông ta lại mong bị phát hiện? Chỉ có thể là nhằm giương một cái bẫy! Mắt hắn đảo qua tấm bản đồ trước mặt một lần nữa, nhưng nó chẳng cung cấp được gì. Hắn biết quá ít về địa hình. Hắn lại tựa lưng vào ghế, cố vận dụng bộ óc thông minh to lớn của mình. Một cái bẫy để tóm gọn cả ba người là một điều khó thực hiện. Hay là một tai nạn? Mơ hồ quá, người ta có thể luôn luôn sống sót. Hay là một trận phục kích? Thắng nổi ba kẻ lão luyện như Starkington, Hanover và Lucoville là điều hầu như không thể xảy ra. Nếu hắn ở vào địa vị Pazini, phải đương đầu với vấn đề này, hắn sẽ thử giải quyết cách nào đây? Không thể trên đất liền được. Lúc nào cũng có chỗ để nấp, điều kiện chẳng bao giờ chắc chắn. Cho một người thì được, nhưng cho cả ba người thì không. Nếu hắn là Pazini, hắn sẽ giương bẫy trên mặt biển, nơi ấy chẳng ai có thể nấp vào đâu hay thoát đi đằng nào được. Hắn lại cúi người xuống tấm bản đồ lớn, tim đập nhanh hơn. Bờ biển phía Đông uốn lượn chi chít, đặc trưng là các vịnh nhỏ và các hòn đảo rải rác ngoài khơi. Một hòn đảo chăng? Cũng có thể. Nhưng rồi vẫn phải đối đầu với vẫn đề chỗ nấp, mặc dù việc thoát thân sẽ khó khăn hơn. Không, chỉ có thể là biển thôi. Nhưng làm thế nào để bẫy dính cả ba người trên mặt biển trống không? Ba con người thông minh siêu việt, ai cũng có ngón nghề cao cường trong nghệ thuật ám sát và cả tự vệ nữa. Hắn thở dài và gấp bản đồ lại. Cần phải ngiên cứu thêm nữa. Hắn gửi trả bản đồ lại cho cô quản thư, cám ơn cô và rời tòa nhà mát mẻ đi ra. Óc hắn nghĩ ra thêm một khả năng nữa và hắn rẽ về hướng Tòa án. Viên thư ký giữ hồ sơ nhà đất vui vẻ gật đầu. Anh ta nói: - Phải, chúng tôi có lưu giữ những bản sao các vụ mua bán nhà xảy ra cách đây hơn sáu tháng. Phải cần có một thời gian dài như vậy để ở đây vào sổ đăng ký lập hồ sơ. - Anh thư ký nhìn chăm chăm người đàn ông gầy gò, sôi sục nhiệt huyết trước mặt - Thưa ông, người mua tên gì ạ? - Barosi - Haas đáp - Công ty Antonio Barosi. - Công ty xuất nhập khẩu à? Ông cảm phiền đợi một lát... Haas đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ bụi bặm hướng ra Vịnh và dãy tàu thủy lớn bé nối nhau liên tục phía xa xa. Trong tâm trí hắn hiện lên hình ảnh một bãi cát và một chiếc thuyền - à không, hai chiếc thuyền chứ - nhấp nhô bập bềnh ngoài khơi. Pazini ngồi lặng lẽ trên một chiếc thuyền, còn Starkington và những người khác ngồi trên chiếc kia. Hình ảnh họ ngồi trên thuyền cứ khắc sâu vào óc hắn, còn hắn thì cứ cố tìm kiếm xem trong cảnh tượng đó có biểu hiện nào của chiếc bẫy, có dấu hiệu nào có thể giải thích tại sao Pazini đã dụ họ đến đó. Anh thư ký trở lại. - Thưa ông đây ạ! Công ty Antonio Barosi đã mua một tòa nhà làm văn phòng trên đường Ông Hoàng năm 1906. Cách đây năm năm. Đây là toàn bộ các chi tiết, nếu ông cần xem lại. Haas lắc đầu. - Không, tôi muốn nói đến một vụ mua bán đất đai khác kia. Gần đây thôi. Trên bờ biển phía Đông... - Hắn ngập ngừng, và bức tranh bỗng đột nhiên trở nên quá rõ. Hắn bất thình lình chắc chắn sự việc. Pazini đã âm mưu thực hiện việc làm táo bạo này ngay từ những ngày đầu tiên. Hắn rướn thẳng người và nói với giọng khẳng định - Miếng đất đó được mua cách đây vào khoảng từ mười đến mười một tháng. Viên thư kí lại biến mất vào dãy tủ đựng hồ sơ. Khi anh ta quay lại, anh mang trên tay một xấp tài liệu bọc bìa cứng. Haas không ngăn nổi một nụ cười chiến thắng. - Tôi nghĩ đây là hồ sơ ông tìm kiếm. Nhưng việc mua đất này không do công ty chi trả. Người đứng tên là Antonio Barosi, mua một hòn đảo nhỏ ngoài khơi, nằm ở phía Đông đảo Oahu. Haas đọc thật nhanh các chi tiết trong hồ sơ. Trong trí nhớ tuyệt vời của hắn, bản đồ đường biển hiển hiện từng chi tiết rõ ràng và nhờ đó hắn lập tức định được vị trí của hòn đảo nhỏ. Sau khi cám ơn viên thư ký, hắn rời khỏi Tòa án. Hắn rảo bước nhanh hơn, còn đầu óc nghiên cứu lại vô số những khả năng có thể xảy ra. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Đó chính là một cái bẫy giương ra hằng bao nhiêu tháng trời và nay đang đợi đến lúc sập xuống. Các nạn nhân chẳng hề hay biết mảy may rằng số phận khắc nghiệt đã chọn họ. Hắn phải tức tốc gọi điện đi ngay để cảnh giác Starkington. Hắn rẽ về hướng khách sạn của mình. Óc hắn hình dung đến cuốn sổ mật mã giấu dưới chồng áo sơ mi trong vali và trật tự từ cần viết trong bức điện. Cùng với chiếc chìa khóa phòng, người thư ký giao cho hắn một phong bì nhỏ. Hắn vừa đi về phía cầu thang vừa bóc thư ra xem. Chợt hắn đứng khựng lại. Tin báo ngắn ngủi giáng một đòn chí mạng. Haas! Rất tiếc phải báo cho anh hay rằng, Starkington, Hanover và Lucoville đã qua đời do một tai nạn không may khi đi thuyền. Biết anh rất mong tin. Hall Hắn đứng lặng đi trong một lúc. Ngón tay hắn siết chặt lấy bức điện trong khi thảm họa vừa nhận được bao trùm lên tâm não hắn. Muộn quá rồi! Giờ chẳng còn kịp để cảnh giác nữa, cũng chẳng còn thời gian để làm gì nữa. Hắn phải đón ngay chiếc tàu thủy đầu tiên. Chuyến tàu đầu tiên sẽ là - Tàu Hổ phách - nhổ neo vào khoảng chạng vạng tối. Hắn cần phải chạy đến văn phòng để thu xếp hành trình. Văn phòng chỉ cách đây vài dãy phố thôi. Hắn phóng ra cửa và chạy xuống đường. Hắn huých người này, thúc người kia, cố len lỏi trong đám đông đặc nghịt đang tràn ngập khắp phố xá lúc giữa trưa. Tội nghiệp cho Starkington quá, hắn vẫn hằng thương mến người bạn ấy biết bao! Hanover, con người nhẹ nhàng, trí thức lúc nào cũng xúc động, náo nức khi nghĩ đến vấn đề tội ác trong thế giới hỗn loạn này! Còn Lucoville nữa, hắn sẽ chẳng còn bao giờ càu nhàu về chuyện thức ăn nữa rồi! Các văn phòng hàng hải nằm ở phía bên kia đường. Chẳng ngó trước ngó sau, hắn nhảy phắt xuống lòng đường, chẳng chú ý đến một chiếc xe ngựa chở bia khổng lồ đang chồm về phía hắn. Có ai đó trên hè phố la hét thất thanh. Người đánh xe giật nảy người lên và bật ra tiếng chửi thề. Hắn sợ điên lên, mím môi mím lợi hết sức ghìm cương lại, nhưng không kịp nữa rồi. Hốt hoảng vì cái bóng ma bé nhỏ trước mắt và điên tiết vì bị giật sái hàm thiếc về phía sau, hai con ngựa màu xám tro giống nhau như đúc vung chân đá loạn xạ. Haas bị đốn ngã dưới trận vó ngựa tới tấp rơi xuống. Trước khi nhắm mắt, hắn chỉ kịp nhận ra một cơn đau không chịu đựng nổi và ngạc nhiên không hiểu vì sao mình phải chết khi còn quá xa cái bãi biển với hàng cọ viền quanh, quá xa cái mục tiêu chinh phục cuối cùng của hắn. ° ° ° ° ° Họ cùng thỏa thuận với nhau sẽ sống những ngày cuối cùng của năm đời định mệnh này trên đảo. Nơi đây, Pazini, Rita và Hall đang sống rất mộc mạc. Họ tự nấu nướng lấy, tự kéo nước để dùng, tự xuống biển tìm thức ăn như những người bản xứ cư ngụ ngày xưa trên đảo đã làm. Thật lạ là, họ lại thấy sống như thế thật thú vị, nó giống như một thay đổi có tính chất thư giãn sau những ngày sống nháo nhào trên đất liền. Tuy nhiên mỗi người hiểu rằng đây chỉ là sự lẩn trốn khỏi những vẫn đề hằng theo đuổi họ, một sự lẩn trốn mang tính chất tạm bợ. Hall ngạc nhiên nhận thấy rằng sự cảm mến anh vốn dành cho Pazini giờ lại được khôi phục mỗi ngày một ít, mặc dù đầu óc anh vẫn còn lưu lại những ấn tượng kinh hoàng về cái chết của Starkington. Sự hồi tưởng đó đang ngày một phai nhạt dần, nó lùi xa thăm thẳm trong một góc sâu kín trong tâm trí anh cho đến khi nó chỉ còn hiện ra như một cảnh tượng trong cuốn sách đọc từ thuở xa xưa nào, mà giờ đây anh chỉ còn nhớ mang máng, hay như một bức bích họa xem trong một phòng triển lãm tranh lù mù đã lâu không còn nhớ nữa. Pazini không bao giờ lẩn tránh phần công việc nội trợ giao cho mình, ông cũng không viện lý lẽ địa vị hay tuổi tác ra để lấy cớ điều khiển hay chỉ huy. Ông lúc nào cũng sốt sắng giúp đỡ việc câu cá hay bếp núc, và cái thái độ trầm tĩnh khoan thai của ông thường làm Hall thắc mắc tự hỏi không hiểu cảnh tượng hãi hùng ở vực nước xoáy có thực sự xảy ra không. Thế nhưng mỗi ngày, theo từng tờ lịch rơi xuống, người đàn ông bé nhỏ lại càng lui về với chính mình. Đến bữa ăn ông ngồi lặng lẽ và mỗi ngày một tỏ ra ưu tư hơn, những công việc ông chọn làm bây giờ là những công việc chỉ dành cho một người. Càng ngày ông càng dành nhiều thời gian hơn để tha thẩn trên bãi biển, phóng tầm mắt qua khoảng trời nước vặng lặng về hướng đất liền như thể chờ đợi một điều gì. Chính vào buổi chiều tối trong ngày cuối cùng của thời hạn, ông đến chỗ Hall, lúc đó anh đang lom khom xúc một loài cua rất ngọt thịt làm hang trong mấy cái vũng nhỏ. Mặc dù giọng nói rất khoan thai, gương mặt ông lộ vẻ căng thẳng. - Hall này, anh chắc chắc đã đánh điện cho Haas chứ? Hall ngạc nhiên ngẩng lên. - Đương nhiên rồi. Sao ông hỏi thế? - Tôi không thể đoán được tại sao hắn không đến. - Có lẽ do một hoàn cảnh nào đó ngoài ý muốn của hắn. - Hall ngó đăm đăm ông - Ông biết mà, hắn là người cuối cùng của Văn phòng Ám sát. Gương mặt của Pazini không hề lộ một chút cảm xúc nào khi ông quan sát gương mặt rám nắng của chàng trau đang lom khom dưới nước. - Đương nhiên là nếu không kể tôi - Ông lặng lẽ nói và xoay người đi về hướng lều. Hall đưa mắt nhìn theo bóng Pazini một lúc, và rồi anh nhún vai trở lại với công việc của xúc cua. Khi nhìn thấy chiếc giỏ mây đã đầy cua, đủ để nấu một bữa tối ngon lành, anh thẳng người đứng dậy và xoa xao chiếc lưng đã mỏi nhừ. Chúng ta thảy đều đã sống căng thẳng quá, nhưng chỉ còn lại một ngày cuối cùng hôm nay nữa thôi, anh thấy toại nguyện, nhưng rồi anh khẽ cau mày. Dù sao đi nữa, chắc chắn anh sẽ rất nhớ hòn đảo này. Khi anh trở về túp lều, vầng dương đã ngả dần sau những ngọn đồi xanh xanh trên đất liền. Anh đặt giỏ cua còn sống đang bò lổm ngổm xuống gian bếp nhỏ và đi ra phòng khách. Rita đang chăm chú hết mức vào cuộc nói chuyện với cha, khi thấy anh bước vào, cả hai người đều đột ngột dừng câu chuyện lại. Rõ ràng họ không muốn bị làm rộn. Cảm thấy hơi bị chạm tự ái, Hall rời khỏi nhà ngay lập tức và đi xuống bãi biển. Có gì bí mật chăng? Anh chua chát nghĩ khi đặt chân lên nền cát ẩm. Bí mật gì vào cái giai đoạn muộn màng như lúc này? Khi anh quay về trời đã xập tối. Pazini đang ở trong phòng riêng, chăm chú viết gì đó trên bàn, ngọn đèn hắt lên bức tường lợp tranh cái bóng của ông nhìn nghiêng nghiêng. Rita ngồi bên một chiếc đèn con, đang bện một chiếc thảm chùi chân nhỏ bằng lá cọ. Hall buông người xuống chiếc ghế trước mặt cô, và lặng lẽ ngắm đôi tay mạnh mẽ của cô thoăn thoắt làm việc trong một lúc. Cô không nở nụ cười đón anh như mọi khi. - Rita. Cô ngẩng lên, mặt đanh lại, đôi mắt dọ hỏi. - Gì thế, Winter? - Rita này - Anh hạ thấp giọng - Đây là ngày cuối cùng chúng mình ở đây. Chẳng bao lâu nữa chúng mình sẽ trở về với xã hội văn minh. - Anh ngập ngừng và cảm thấy hơi sờ sợ vì vẻ mặt quá nghiêm trọng của cô - Em có... ưng làm vợ anh không? - Hẳn nhiên là có. - Đôi mắt cô lại cúi xuống nhìn chiếc giỏ nằm trên lòng, đôi tay cô tiếp tục đan đan bện bện - Em chẳng mong gì hơn là được làm vợ anh. - Thế còn cha em? Cô ngẩng lên, trên gương mặt cô không một thớ thịt nào rung động. Đây không phải là lần đầu tiên Hall nhận thấy trên gương mặt thanh tú nhưng cương nghị của cô những nét giống nhau như tạc với gương mặt của người đàn ông tóc vàng. - Cha em thì sao? - Ông sẽ làm gì? Văn phong Ám sát sẽ chẳng còn nữa. Ông đã dành một phần lớn đời mình cho nó. - Ông cụ đã dành cả đời mình cho nó. - Rồi đôi mắt nàng ngước lên, đầy vẻ u ám bí ẩn. Chúng lướt qua vai Hall rồi dừng lại. Hall vụt xoay người lại. Pazini đã bước vào phòng từ bao giờ và đang đứng lặng lẽ một nơi. Đôi mắt của Rita lại quay sang nhìn Hall. Cô cố nở một nụ cười. - Winter, mình... mình cần một ít nước. Anh có thể...? - Được ngay. Anh đứng dậy, vớ lấy chiếc thùng và đi về phía con suối nhỏ ở cuối đảo về phía Bắc. Trăng đã lên, tròn và sáng, tỏa rạng trên con đường đầy những hình bóng nhảy múa chập chờn từ các bụi hoa đang lay động mọc dọc theo hai bên đường. Trái tim anh nặng chĩu, - vẻ nghiêm khắc lạ lùng - gần như là vẻ lạnh lùng trên gương mặt Rita đè nặng lòng anh. Nhưng rồi một ý nghĩ nhẹ nhàng hơn chợt đến. Anh nghĩ, mỗi chúng ta đều phải chịu căng thẳng quá nhiều những ngày vừa qua. Mình hẳn đã làm gì đó khiến nàng suy nghĩ, chỉ có trời mới biết được! Chỉ một ngày nữa thôi họ sẽ có mặt trên tàu, và vị thuyền trưởng sẽ tác hôn cho họ. Họ sẽ thành vợ chồng! Anh múc đầy thùng nước và quay về nhà, vừa đi vừa khẽ huýt sáo. Lu nước đặt trong nhà bếp. Anh dốc ngược thùng và đổ nước vào lu, nước tràn cả ra ngoài, bắn tung tóe xuống đôi chân trần của anh. Lu đã đầy ắp nước từ trước. Một nỗi sợ hãi đột ngột bao trùm lấy anh, anh ném thúng nước xuống và phóng lên phòng khách. Rita vẫn ngồi lặng lẽ làm việc, nhưng mặt cô đẫm nước mắt. Một xấp giấy nằm trên chiếc bàn trước mặt cô, trông có vẻ quăn queo và nặng nề dưới ánh đèn. - Rita, em! Chuyện gì...? Cô gắng làm tiếp công việc nhưng suối nước mắt cứ trào dâng mỗi lúc một nhanh hơn đến nỗi cô quẳng chiếc thảm đang bện dở đi và ngã vào vòng tay mở rộng của Hall. - Ôi, Winter ơi...! - Chuyện gì thế? Chuyện gì thế hở em? - Lòng anh chợt cảm thấy nghi ngờ, anh xoay mặt nhìn về hướng phòng Pazini. Căn phòng tối đen, nhưng ánh trăng tràn vào từ cánh cửa sổ mở ngỏ soi lên chiếc giường trống không ai nằm. Anh lao về phía cửa, nhưng Rita đã níu chặt cánh tay anh. - Đừng, đừng đi anh ơi! Hãy đọc cái này đã! Anh khựng lại, còn ngần ngừ lưỡng lự, nhưng bàn tay cô siết chặt cánh tay anh đã ra lệnh buộc anh tuân theo. Mắt cô ngước lên chạm vào ánh mắt anh còn ràn rụa nước mắt, nhưng chúng chứa đầy một sự quả quyết cao độ. Anh từ từ buông lỏng người và với lấy cuộn giấy. Trong khi anh đọc thư, Rita quan sát khuôn mặt anh, đôi mắt cô lướt từ vầng trán rộng xuống tận chiếc cằm rắn rỏi, chăm chú ngắm nhìn từng đường nét của người đàn ông sẽ mãi mãi là nơi nương tựa duy nhất của cô. “Hai con thương yêu, Cha không thể đợi lâu hơn nữa. Haas đã không đến và thời hạn của cha đã kề. Các con hãy cố hiểu cho cha và - như Hall đã nói - sự điên khùng của cha. Bây giờ cha nói về hành động của cha phải làm. Với tư cách là người đứng đầu của Văn phòng Ám sát, cha đã nhận thi hành một nhiệm vụ, nhiệm vụ này sẽ được hoàn thành. Văn phòng chưa hề thất bại và giờ đây nó sẽ không thể thất bại. Sự thất bại sẽ phủ nhận tất cả những gì nó hằng đại diện. Cha đoan chắc rằng chỉ có cái chết mới có thể ngăn cản Haas không cho hắn hoàn thành nhiệm vụ, tuy nhiên trong tổ chức, trách nhiệm luôn luôn được chuyển từ người này đến người khác. Là thành viên cuối cùng của Văn phòng, cha phải nhận lấy trách nhiệm đó. Nhưng cha không nhận lãnh trách nhiệm với tâm trạng bi ai ảo não. Văn phòng là cuộc đời cha, và nay nó đã tan rã thì Carlos Pazini cũng sẽ tan rã theo. Cha cũng không nhận nó với mặc cảm tủi nhục, hành động cha sẽ làm đêm nay là biểu hiện của niềm tự hào phơi phới. Có lẽ cha và các thành viên Văn phòng Ám sát đã sai - Hall à, đã có lần con thuyết phục được cha tin rằng Văn phòng đã sai. Thế nhưng toàn thể thành viên không bao giờ làm sai vì những chuyện sai trái - thậm chí - ngay trong chính sự sai lầm của Văn phòng cũng có điều chính đáng. Cha và các thành viên không phủ nhận việc đã giết người, và đã giết nhiều người. Nhưng điều kinh khủng trong việc giết người không phải do số lượng nạn nhân bị giết, mà do chất lượng. Đối với nhân loại, tội giết một cá nhân Socrates [2] thôi là tội ác có mức độ kinh khủng gấp nhiều lần tội tàn sát hàng muôn vạn giống man di, thế nhưng có ai thật tình tin tưởng điều này. Công chúng - giả sử họ biết - khi ấy sẽ thét lên nguyền rủa Văn phòng, mặc dù họ đã tốn ngần ấy công sức để tán dương đến tận trời xanh các hình thức giết người mù quáng, chẳng lợi ích gì cho ai. Các con hoài nghi ư? Hãy dạo qua các công viên, các quảng trường và các khu thị tứ trong các thành phố lớn của chúng ta. Các con có thấy tượng đài nào được dựng lên để tưởng niệm Aristotle [3]? Hay Paine [4]? Hay Spinoza [5] không? Không! Những khoảng đất ấy lại được dành để dựng tượng các á thần á thánh [6], gươm lăm lăm trong tay, những người đã đẩy nhân loại lao vào tất cả các cuộc thập tự chinh đẫm máu trong thời mông muội. Cuộc chiến tranh gần đây với Tây Ban Nha hẳn sẽ chiếm dụng dăm ba khoảng đất ít ỏi còn sót lại, cả ở đây lẫn ở Tây Ban Nha, để dựng tượng những anh hùng trên lưng ngựa đang giơ cánh tay khát máu lên vẫy chào, và màu tượng đồng bất tử sẽ đời đời ghi lại chiến thắng của bạo lực trong cuộc chiến nhằm phục vụ trí tuệ của nhân loại. Thế nhưng cha công nhận rằng cha và các thành viên đã sai. Tại sao? Bởi vì sâu thẳm từ trong bản chất sự việc, toàn bộ thành viên Văn phòng đã sai lầm. Toàn thế giới phải cùng nhận thức ra được trách nhiệm chung của mình trong việc bảo vệ lẽ công bằng, công việc đó không thể tồn tại như mục tiêu hành động của một thiểu số chọn lọc nào đó - một thiểu số tự chọn lọc. Thậm chí như hiện nay, khi tiếng náo động từ Châu Âu dội lại báo hiệu một tai họa khủng khiếp hơn bất kỳ tai họa nào đã phủ chụp lên đầu nhân loại, sự cứu rỗi phải được phát sinh từ nền đạo đức lớn hơn mọi nền đạo đức chúng ta đã đưa ra. Sự cứu rỗi phải được phát sinh từ mạch luân lý không ngừng phát triển trong lòng chính bản thân nhân loại. Thế nhưng, sẽ có một mối hoài nghi, một băn khoăn. Giả sử mạch luân lý ấy không tuôn ra thì sao? Khi ấy, trong một thế hệ tương lai xa xôi nào đó, Văn phòng Ám sát hẳn sẽ được tái sinh. Vì từ những cái chết mà người ta có thể đặt đến của Văn phòng, có thể rút ra nguyên tắc sau đây: không một ai phải chết oan ức cả. Không ai chết mà lại không làm lợi cho nhân loại. Chẳng hiểu nguyên tắc đó sẽ được áp dụng đối với những người khi chết đi sẽ được dựng tượng trong các quảng trường sau khi chiến thắng các cuộc chiến tranh “cuối cùng” kế tiếp này hay không nữa? Nhưng thời hạn đã hết. Hall, tôi yêu cầu anh bảo vệ cho Rita. Nó là cuộc sống mà tôi đã truyền lại cho thế gian này, là bằng chứng khẳng định rằng không có người nào, dù đúng hay sai, có thể ra đi mà không để lại dấu tích. Nụ hôn cuối cùng gửi đến Rita. Cái bắt tay cuối cùng gửi đến anh, người bạn của tôi. P”. Hall thôi đọc, ngước lên, mắt anh tìm kiếm gương mặt kiều diễm của người thiếu nữ anh yêu mến. - Em không thể ngăn cha lại sao? - Không. - Đôi mắt cô đăm đăm nhìn anh, đầy vẻ dũng cảm - Trọn cuộc đời, cha đã làm tất cả cho em, chiều em từng ý muốn nhỏ nhặt nhất. - Mắt cô mờ lệ, môi cô run run, cố đè nén xúc động - Em thương cha vô cùng! Em chẳng có cách nào khác để đền ơn cha cả. Hall ôm cô vào lòng, lòng tràn ngập sự khâm phục sức mạnh của cô. Cô bỗng đột nhiên không chịu nổi sự ức chế quá lớn và bật khóc òa lên, vừa khóc vừa siết thật chặt cánh tay Hall. - Ôi Winter ơi, em có sai lầm không? Em có sai lầm không? Em có nên van nài cha chớ vong mạng hay không? Hall ôm chặt cô trong lòng, vỗ về an ủi. Qua cánh cửa mở ngỏ, anh dõi mắt nhìn về phía mặt biển phẳng lặng sáng lên dưới ánh trăng rực rỡ. Một cái bóng vụt qua tâm trí anh, một bóng người bé nhỏ ở đằng xa tít tắp đang thanh thản khom người trèo thuyền, con thuyền lặng lẽ lướt về phía trung tâm dòng nước để chờ đợi vực Huku Kai. Anh không biết chính mắt mình trông thấy hình bóng đó hay chỉ tưởng tượng ra nó thôi, nhưng bất thình lình dường như từ chiếc xuồng đang trôi đi xa mãi, có một cánh tay giơ lên và vui vẻ vẫy chào. - Không, - Anh ôm siết cô vào lòng chặt hơn và cuồng nhiệt nói - không, em yêu. Em không sai đâu. Chú thích: [1] Poi: Một món ăn đặc sản ở Hawaii, làm từ rễ cây khoai sọ đâm nhuyễn ra và nhồi lại cho dính, rồi cho lên men. [2] Socrates (tiếng Hy Lạp: Σωκράτης Sōkrátēs) là một triết gia Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn. Về năm sinh của ông hiện vẫn chưa có sự thống nhất giữa năm 469 hay 470. (469–399 TCN), (470–399 TCN). Ông sinh ra tại Athena, tức Hy lạp, và đã sống vào một giai đoạn thường được gọi là hoàng kim của thành phố này. Thời trẻ, ông nghiên cứu các loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ của các “triết học gia trước Socrates”, đó là nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta. [3] Aristotle (384 - 322 Trước Công Nguyên): Triết gia Hy Lạp, học trò của Platon. Ông là cha đẻ của logic suy diễn, đặc trưng bởi phương pháp suy luận ba đoạn. [4] Thomas Paine (1737 - 1809): Nhà cách mạng yêu nước người Mỹ, sinh tại Anh quốc. Ông vừa là nhà tư tưởng có đầu óc chính trị, vừa là nhà văn lớn. [5] Baruch Benedict Spinoza (1632 - 1677): Triết gia Hà Lan, cha đẻ của triết lý cho rằng chỉ có một thực thể duy nhất tồn tại là Thượng Đế. Thực thể này thì có hai mặt: tư tưởng và sự mở rộng. [6] Nguyên văn là “Demigod”: Người một phần là người, một phần là thần (trong thần thoại Hy Lạp), thường là con trai của một vị thần và một phụ nữ trần tục (Ví dụ Hercules). HẾT