Dịch giả: Đức Tài
Chương I

     ột sáng tỉnh giấc sau những giấc mơ xáo động, Gregor Samsa, nằm trên giường, nhận thấy minh đã biến thành một con côn trùng khổng lồ. Anh nằm ngửa trên cái lưng rắn như thể được bọc giáp sắt, và khi dạm nhấc đầu lên, anh nhìn thấy bụng mình khum tròn, nâu bóng, phân chia làm nhiều đốt cong cứng đờ; tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn. Chân anh nhiều ra, mảnh khảnh đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng, vung vẩy bất lực trước mắt anh.
“Mình làm sao thế này?” anh nghĩ thầm. Đây đâu phải chiêm bao. Vẫn là gian phòng yên tĩnh của anh giữa bốn bức tường quen thuộc; một phòng ngủ bình thường trong thế giới loài người, chỉ có điều hơi nhỏ hẹp mà thôi. Bên trên chiếc bàn bày đầy những mẩu vải mẫu đủ loại - Samsa làm nghề chào hàng - vẫn còn treo bức hình mà gần đây anh đã cắt ra từ một tờ họa báo và đem trưng trong một chiếc khung mạ vàng xinh xắn. Trong hình là một người đàn bà đội mũ lông thú, quàng khăn lông thú, ngồi thẳng đơ và phố ra cho khách chiêm ngưỡng một chiếc bao tay lông thú to tướng phủ kín đến tận khuỷu.
Rồi Gregor đưa mắt nhìn qua vuông cửa sổ; những giọt mưa lộp độp rơi trên máng xối; và bầu trời âm u vần vũ ngoài kia khơi dậy trong anh một nỗi sầu khắc khoải. “Giá mình được ngủ nán thêm tí nữa cho quên luôn những chuyện vô bổ này đi” anh ngẫm nghĩ, nhưng không sao ngủ được, vì anh vốn quen nằm nghiêng bên phải khi ngủ và trong tình cảnh hiện giờ anh không thể nào trở mình nổi.
Tha hồ cho anh ráng hết sức xoay nghiêng sang phải, lần nào anh cũng bật ngửa trở lại. Nhắm nghiền mắt để khỏi nhìn thấy những cặp chân đang vùng vẫy, anh thử đi thử lại cả trăm lần và chỉ bỏ cuộc khi bắt đầu cảm thấy ở mạng sườn một con đau âm ỉ, mơ hồ chưa từng nếm trải.
“Lạy Chúa,” anh nghĩ, “mình chọn chi cái nghề quá đỗi nhọc nhằn này! Chạy rông hết ngày này sang ngày khác. Một công việc thật còn khó chịu hơn cả chuyện bán buôn ở cửa hàng và bực mình nhất đời là cứ phải liên tục di chuyển, cứ phải lo lắng chuyện đổi tàu, chuyển ga, ăn uống thất thường, gặp đâu ngủ đấy, lúc nào cũng phải làm quen với những kẻ tình cờ gặp gỡ để rồi không bao giờ thấy mặt lần thứ hai, không bao giờ trở thành bạn hữu thân tình. Quỷ bắt cái nghề này đi!” Anh cảm thấy hơi ngứa ở bụng, vẫn nằm ngửa, anh từ từ nhích lại gần đầu giường để có thể nhấc cao đầu dễ dàng hơn; anh xác định được chỗ ngứa, bao quanh nó là nhiều đốm trắng nho nhỏ mà anh không hiểu là gì. Anh vươn một chân thử chạm vào đó nhưng rụt phắt lại ngay vì sự tiếp xúc ấy khiến toàn thân anh rùng mình ớn lạnh.
Anh lại tụt về vị trí ban đầu. “Dậy sớm như thế này làm cho người ta đâm ra đần độn” anh nghĩ thầm. “Con người cần phải ngủ đẫy giấc. Mấy tay chào hàng ở hãng khác thì sống như cung tần mỹ nữ. Chẳng hạn, sau khi mình đã chạy suốt sáng, quay lại khách sạn để ghi sổ các đơn đặt hàng thì mới thấy chúng ngồi vào bàn điểm tâm. Mình mà thử giở cái cung cách như chúng xem? Lão chủ sẽ tống cổ mình ra khỏi hãng ngay lập tức! Nhưng biết đâu điều đó lại tốt cho mình thì sao? Nếu không vì bố mẹ mà chịu nhịn nhục thì mình đã bỏ việc luôn từ lâu rồi, mình sẽ đi thẳng đến chỗ lão chủ, nói toạc vào mặt cho lão biết mình nghĩ gì về lão. Thế thì lão ắt ngã lộn đầu từ trên bàn xuống đất! A, còn cái lối lăo ngồi thượng trên bàn giấy mà phán lệnh xuống cho nhân viên cũng thật là dị hợm quá chừng, nhất là khi các nhân viên phải sán lại thật gần lão để trả lời bởi vì ông chủ này lãng tai! Hừ, dù sao cũng còn hy vọng; một khi mình đã dành dụm đủ trả hết món tiền bố mẹ mình thiếu nợ lão ta - chắc cũng phải mất năm, sáu năm nữa - nhất định mình sẽ làm thế. Lúc đó mình sẽ hoàn toàn cắt mọi dây nhợ ràng buộc. Còn bây giờ, ôi chao, mình phải dậy ngay, kẻo trễ chuyến tàu năm giờ”.
Anh nhìn chiếc đồng hồ báo thức đang tích tắc trên mặt tủ. “Trời đất ơi!” anh hốt hoảng. Đã sáu giờ rưỡi, và những chiếc kim đồng hồ vẫn lầm lì chuyển động; thậm chí đã gần bảy giờ kém mười lăm rồi chứ có phải sáu rưỡi nữa đâu. Chẳng lẽ đồng hồ không réo chuông ư? Nằm trên giường anh vẫn nhìn rõ chiếc kim báo thức đã được vặn đúng vào số 4 trên mặt đồng hồ: dĩ nhiên là chuông có reo chứ. Đúng, nhưng nếu vậy thì làm sao anh có thể ngủ yên với hồi chuông inh tai nhức óc ấy? Chà, anh nào có được ngủ yên đâu, chỉ là một giấc mơ mệt quá đấy thôi. Còn bây giờ anh phải làm sao đây? Chuyến tàu kế tiếp sẽ khỏi hành lúc bảy giờ; muốn đón kịp chuyến tàu ắt hẳn anh phải vội như điên, thế mà các mẫu hàng chưa được gói ghém còn bản thân anh thì chẳng thấy mình sảng khoái, hoạt bát gì mấy.
Và cho dù có đón kịp chuyến tàu, anh cũng không thể nào tránh khỏi lôi thôi với lão chủ, bởi vì tên loong toong ở cửa hàng ắt đã đợi anh đến bằng chuyến tàu năm giờ và từ lâu hẳn là đã báo cho lão chủ biết sự vắng mặt của anh rồi. Cái tên loong toong ngu xuẩn và chán ngắt này là tay sai của lão chủ. À, hay là anh viện cớ ốm đau nhỉ? Không được, đó là một cái cớ phiền toái nhất hạng, lại đáng nghi ngờ nữa vì suốt năm năm làm việc anh chẳng hề đau yếu lấy một ngày. Lão chủ chắc chắn sẽ đích thân đến tận nhà anh cùng với bác sĩ của quỹ bảo hiểm, sẽ trách cứ bố mẹ anh vì thằng con lười biếng, và sẽ cắt đứt mọi lý do bào chữa bằng cách viện đến sự giám định của bác sĩ quỹ bảo hiểm, cha này tất nhiên coi toàn thể nhân loại là những tên lười nhác hoàn toàn khỏe mạnh giở quẻ đổ bệnh mà thôi. Và nếu hắn có nói thế trong trường hợp này thì phỏng có sai gì lắm? Thực tế, Gregor cảm thấy rất khỏe khoắn, chỉ hơi buồn ngủ, cái cơn ngái ngủ ở người ngủ nướng, và thậm chí anh lại còn đói bụng khác thường nữa chứ.
Trong lúc tất cả những ý nghĩ đó vùn vụt lướt qua tâm trí mà anh còn phân vân chưa quyết định rời khỏi giường - đồng hồ vừa điểm bảy giờ kém mười lăm - thì có người thận trọng gõ vào cánh cửa phía đầu giường anh nằm.
“Gregor ơi,” tiếng mẹ anh gọi, “bảy giờ kém mười lăm rồi con. Hôm nay không đón tàu đi làm sao con?” Giọng nói ấy sao mà dịu dàng quá! Gregor bàng hoàng khi nghe thấy giọng nói của chính anh đang trả lời mẹ, đúng là giọng anh, không lầm vào đâu được, nhưng kèm theo một chuỗi âm the thé léo nhéo ghê rợn, rền rền như một tiếng thầm thì, khiến cho các từ thốt ra chỉ rõ ràng lúc đầu, rồi tiếng đó dâng lên dội lại quanh các từ, phá hủy ý nghĩa của chúng đến mức người nghe không dám chắc là mình có nghe đúng hay không. Gregor đã định trả lời cặn kẽ và giải thích mọi điều nhưng trong hoàn cảnh này anh đành chỉ nói vắn tắt: “Vâng, vâng, thưa mẹ, con dậy ngay đây”. Cánh cửa gỗ chắn giữa mẹ và anh hẳn đã làm cho người bên ngoài không nhận ra sự đổi khác trong giọng anh, bởi vì bà mẹ bằng lòng với lời anh đáp và quay gót bước đi. Tuy nhiên, mẩu đối thoại ngắn ngủi này khiến các thành viên khác trong gia đình biết Gregor vẫn còn ở nhà, một điều bất ngờ đối với họ, bố anh đập nắm tay khe khẽ vào cánh cửa thông sang phòng Gregor: “Gregor! Gregor!” ông gọi. “Con làm sao vậy?” Và sau một chập, ông lại gọi anh lần nữa, giọng trầm đi, có chút chê trách: “Gregor ơi! Gregor!” Tiếng nói nhỏ nhẹ, ảo não của em gái anh cũng đã vang lên sau cánh cửa đối diện: “Anh Gregor? Anh không ốm đấy chứ? Có cần gì không anh?” Anh trả lời chung cho cả hai: “Tôi xong rồi đấy” và cố hết sức phát âm thật rõ ràng, tách biệt từng từ một để giọng nói của mình càng có vẻ bình thường càng tốt. Yên lòng, bố anh trở lại tiếp tục bữa điểm tâm, nhưng cô em gái vẫn thì thào gọi: “Anh Gregor, mở cửa ra đi anh”. Tuy vậy, anh không nghĩ đến chuyện nghe lời cô em, và thầm cảm ơn thói quen thận trọng hình thành qua những chuyến đi chào hàng: ban đêm bao giờ anh cũng khóa kín tất cả các cửa, kể cả ở nhà.
Ý đồ trước mắt của anh là làm sao để ngồi dậy êm thấm không bị cản trở, mặc áo quần vào, và quan trọng nhất là phải ăn sáng cái đã rồi sau mới cân nhắc xem cần phải làm những gì khác nữa, bởi vì anh biết rõ nếu nằm trên giường thì những suy tính của mình sẽ chẳng đi đến một kết luận nào khôn ngoan cả. Anh nhớ mình rất hay bị ê ẩm, tê chồn cả người những khi nằm lâu trên giường, có lẽ là do cái tư thế nằm không thoải mái gây ra, nhưng một khi anh đã ngồi dậy thì cảm giác đó hóa ra chỉ là tưởng tượng mà thôi; và anh khao khát mong chờ cho cái ảo tưởng sáng hôm nay sẽ dần dần tan biến đi. Sự thay đổi trong giọng nói của anh chẳng qua chỉ là triệu chứng báo trước một cơn cảm hàn, cái bệnh vặt cố hữu của mấy tay chào hàng, chứ còn nghi ngờ chi nữa.
Muốn vứt bỏ tấm chăn bông thật không gì dễ bằng: chỉ cần anh phềnh bụng lên một chút là nó tự động rơi xuống. Những động tác tiếp theo mới khó, nhất là vì thân hình anh đã to bè ra khác thường. Lẽ ra anh cần phải có hai cánh tay với hai bàn tay để chống lên; thế mà thay vào đó anh chỉ có vô số cặp chân nhỏ không ngừng vung vẩy khắp mọi hướng không làm sao điều khiển được. Khi anh cố gắng gập một cẳng chân vào thì tức khắc nó lại tự duỗi thẳng ra; và nếu cuối cùng anh có bắt được nó tuân theo ý anh muốn thì tất cả những cẳng chân khác giãy giụa cuồng loạn hơn khiến anh xao xuyến khó chịu đến cực độ. “Nhưng cứ nằm lì trên giường thì có ích lợi gì đâu?” Gregor tự hỏi.
Anh đã ngỡ mình có thể tụt khỏi giường bằng cách trườn phần thân dưới xuống trước, nhưng phần thân dưới ấy - nằm khuất tầm mắt và anh chẳng hề có ý niệm gì về nó - hóa ra lại chuyển động khó khăn quá chừng; nó xê dịch hết sức chậm chạp nên rốt cuộc, bực quá hóa rồ, anh gom hết sức lực, liều mạng lao mình ra. Anh đã nhắm chệch hướng và va đánh rầm vào thành cuối giường đau nhói, do đó anh biết phần thân dưới này hiện có lẽ là vùng nhạy cảm nhất.
Anh bèn thận trọng nhích đầu về phía cạnh giường, thử cho phần thân trên nhoài ra trước. Việc này hóa ra lại khá dễ dàng; bất kể tầm vóc đồ sộ, cồng kềnh, cuối cùng thân hình anh cũng từ từ di dịch theo chuyển động của cái đầu. Tuy nhiên, khi đã nhô được đầu qua cạnh giường rồi, anh lại thấy sợ không dám bước xa thêm, vì nếu anh buông mình xuống đất theo lối này thì chỉ có phép mầu mới giúp anh giữ được cái đầu khỏi bị thương tích. Bằng mọi giá, anh không được bất tỉnh, nhất là ngay lúc này; anh thà nằm yên trên giường còn hơn!
Nhưng khi đã mất cũng chừng ấy nỗ lực, anh về lại được tư thế ban đầu, với tiếng rên rỉ nhẹ nhõm, và khi nhìn những cẳng chân khẳng khiu của mình vùng vẫy, va đập có vẻ còn loạn xạ hơn mà chẳng tìm ra cách nào để kiềm chế những chuyển động rối rắm, tùy tiện ấy, anh lại tự nhủ: không thể nào cứ nằm mãi trên giường, con đường khôn ngoan nhất là đánh liều mọi thứ để giành lấy tia hy vọng thoi thóp nhất hòng thoát khỏi chiếc giường này. Đồng thời, anh vẫn không quên tự nhắc mình rằng một suy tính càng điềm tĩnh chừng nào càng tốt hơn nhiều những quyết định tuyệt vọng. Anh tập trung hết nhãn lực nhìn ra cửa sổ, nhưng buồn thay, màn sương mù buổi sáng dày đặc ngoài kia, xóa nhòa ngay cả những ngôi nhà bên kia con phố hẹp, chẳng mang đến cho anh chút khích lệ, khuây khỏa nào. “Bảy giờ rồi mà sương mù còn dày đến thế”. Và anh nằm yên một lát, thở nhè nhẹ như mong đợi sự thinh lặng hoàn toàn như vậy biết đâu sẽ làm cho mọi sự trở lại bình thường đúng như trong thực tại.
Nhưng rồi anh tự nhủ: “Trước khi đồng hồ điểm bảy giờ mười lăm, mình phải bước ra hẳn khỏi cái giường này, nhất định thế. Vả lại, từ giờ đến lúc đó thế nào cũng có người ở cửa hàng đến tận đây tìm mình vì cửa hàng mở từ trước bảy giờ kia mà”. Và anh bắt đầu dịch người lắc lư toàn thân theo một nhịp điệu đều đặn hòng văng mình ra khỏi giường. Nếu anh làm theo cách đó thì có rơi xuống đất anh vẫn có thể giữ cho đầu khỏi bị thương bằng cách vươn thẳng đầu lên. Lưng anh có vẻ rắn chắc lắm, không lý nào lại đau đớn vì một cú ngã từ trên giường xuống thảm. Băn khoăn lớn nhất của anh là không có cách nào ngăn được tiếng ầm khi rơi phịch xuống, tiếng động ấy có khả năng gây hoang mang, nếu không nói là kinh hoàng, cho những người đang ở phía sau các cánh cửa. Tuy nhiên anh vẫn phải liều thôi.
Khi nửa người đã nhô ra ngoài giường - phương pháp mới này giống một trò chơi hơn là một nỗ lực nhọc nhằn vì anh chỉ cần lắc lư qua lại là dễ dàng nhích tấm thân của mình xê dịch theo chiều ngang - anh bỗng nhận ra mọi chuyện sẽ đơn giản biết bao nếu có người giúp mình. Anh nghĩ đến bố mình và con hầu: hai con người mạnh khỏe ấy sẽ thừa sức nâng anh dậy, họ chỉ việc thọc cánh tay xuống dưới cái lưng khum tròn của anh, nhấc anh ra khỏi giường, khom người hạ anh xuống, rồi kiên trì thêm chút nữa giúp anh tự lật úp xuống sàn nhà, nơi mà anh hy vọng những cặp chân của mình sẽ tìm lại được chức năng phù hợp với chúng. Ôi chao, ngay cả khi những cánh cửa kia không khóa chặt, liệu anh có thật sự dám cầu cứu chăng? Dù đã lâm vào tình cảnh khốn khổ, anh vẫn không nén được một nụ cười trước ý nghĩ đó.
Anh đã trườn ra xa đến mức không thể nào giữ được thăng bằng nếu như lắc lư thật mạnh, và chẳng mấy chốc anh phải thu hết can đảm để chuẩn bị cho quyết định cuối cùng, vì chỉ năm phút nữa là đến bảy giờ mười lăm... Vừa lúc ấy, tiếng chuông ngoài cửa trước reo vang. “Chắc là người ở cửa hàng tới tìm mình” anh sợ hãi nằm đờ ra trong lúc những cẳng chân nhỏ xíu càng chòi đạp lung tung, cuồng loạn hơn nữa. Ở nhà ngoài vẫn yên lặng như tờ. “Họ sẽ không mở cửa đâu” Gregor tự nhủ, cố bám víu vào hy vọng vu vơ ấy. Nhưng con hầu đã bước thình thịch đi ra mở cửa, như lệ thường. Chỉ cần nghe được tiếng chào đầu tiên của người khách, Gregor đã biết ngay đó là ai - đích thị lão quản lý. Khổ thân tôi, đày đọa chi mà chui vào cái hãng này, sơ sót chút xíu là lập tức bị nghi ngờ tai ác thế đấy! Chẳng lẽ tất cả nhân viên cửa hàng đều rặt một phường vô lại không hơn không kém hay sao, chẳng lẽ trong số đó lại chẳng có lấy một kẻ nào tận tụy, trung thành hay sao, một người mà chỉ mới có ý nghĩ phí phạm dù chỉ một vài giờ của hãng đã bị lương tâm giày vò muốn phát điên và thực sự không làm sao bước được xuống giường? Nếu cần tra vấn thì phái một tên tập sự đến đây cũng được rồi, việc gì mà lão quản lý phải đích thân tim tới chứng tỏ cho cả gia đình, một gia đình vô tội, thấy rằng chỉ có lão mới thừa kinh nghiệm hơn ai hết để điều tra những chuyện đáng ngờ như thế này? Và chính cái bừng bừng từ những ý nghĩ bực dọc ấy - chứ không phải hệ quả của một quyết định - đã thúc Gregor dùng hết sức mạnh bật tung thân xác ra khỏi giường, rơi đánh bịch một cái, song chưa thành tiếng ầm thực sự lớn. Tấm thảm đã phần nào giảm nhẹ cú ngã của anh, tấm lưng anh cũng không quá rắn như anh tưởng nên tiếng động gây ra không quá khiến người ta chú ý. Có điều anh đã nhấc đầu không đủ cẩn thận nên bị va chạm. Đau đớn và bực tức, anh xoay đầu cọ lên mặt thảm.
“Có cái gì vừa rơi ở trong kia” tiếng lão quản lý từ căn phòng bên trái. Gregor cố hình dung đến một ngày nào đó lão quản lý cũng gặp chuyện không may như anh hôm nay: điều đó là có thể lắm chứ? Nhưng bỗng, như để đáp lại một cách thô bạo nghi vấn của anh, lão quản nện bước thình thịch ở phòng bên; đôi ủng bằng da thuộc của lão rít lên kèn kẹt. Từ căn phòng phía bên phải, cô em gái thì thào báo tin cho anh: “Anh Gregor ơi, ông quản lý đến nhà ta đó”. “Biết rồi” Gregor lẩm bẩm, anh không dám nói to sợ cô em nghe thấy. “Gregor,” giờ đến lượt bố anh từ căn phòng bên trái gọi sang, “ông quản lý đang ở đây và muốn biết tại sao con không đón chuyến tàu sớm. Bố mẹ chẳng biết phải nói sao đây. Với lại, ông ấy muốn nói chuyện trực tiếp với con. Thôi, mở cửa ra đi, bố xin con. Ông ấy chắc cũng thông cảm với sự bừa bộn trong phòng con”. “Xin chào anh Samsa” đúng lúc ấy giọng điệu thân thiện của lão quản lý cất lên. “Cháu nó ốm rồi” mẹ anh nói đỡ trong lúc bố anh không ngừng thúc giục anh từ bên kia cánh cửa. “Hãy tin tôi, thưa ông, cháu nó ốm thật mà. Nếu không thì làm sao nó lại nhỡ chuyên tàu được! Thằng con tôi lúc nào cũng chỉ nghĩ đến công việc mà thôi. Thật tình, tôi muốn phát bực lên vì nó, tối nào cũng ru rú trong nhà chẳng chịu đi chơi đâu; ông xem, nó về thành phố cả tuần nay mà chẳng tối nào nó bước chân ra khỏi cửa. Nó cứ ngồi im ở bàn đọc báo chí hay tra cứu mãi mấy cái bảng giờ tàu chạy. Trò tiêu khiển duy nhất của nó là ngồi loay hoay cưa cắt mảnh gỗ vụn. Đấy, nó bỏ hai, ba buổi tối để làm một cái khung ảnh bé bé, xinh ơi là xinh, ông mà nhìn thấy ắt phải kinh ngạc, cái khung ảnh treo trong phòng nó đấy, Gregor mà mở cửa ra là ông sẽ trông thấy ngay. Ôi, nói thật tình, thấy ông đến tôi rất mừng, ông quản lý ạ; nhà chúng tôi ắt chẳng làm sao dỗ được nó mở khóa cửa; nó bướng bỉnh thế đấy; tôi dám chắc cháu đau yếu gì đấy, dù sáng hôm nay cháu nó khẳng định hoàn toàn ngược lại”. “Con sắp ra đây mà” Gregor chậm rãi và thận trọng lên tiếng, không dám nhúc nhích mảy may, e bỏ sót một lời nào của cuộc đối thoại. “Tôi thấy không còn cách giải thích nào khác, thưa bà,” lão quản lý nói, “tôi mong là anh ấy chỉ mệt xoàng thôi. Tuy nhiên, tôi cần nói rằng giới kinh doanh chúng tôi, phải nói là - may thay rủi thay - rất nhiều khi phải dẹp mọi cơn nhức đầu sổ mũi qua loa, bởi vì công việc cần phải có người chăm lo chứ”. Bố Gregor lại gõ cửa phòng, sốt ruột hỏi: “Này, mày có để cho ông quản lý vào không thì bảo?” “Không” Gregor đáp. Tiếp theo lời khước từ ấy, một sự im lặng bối rối bao trùm căn phòng bên trái, và trong căn phòng bên phải, em gái anh bật khóc thổn thức.
Sao em gái anh không nhập bọn với những người kia nhỉ? Có lẽ con bé vừa mới rời khỏi giường và thậm chí còn chưa khoác áo xống vào người cũng nên. Hừ, nhưng sao nó lại khóc? Khóc vì anh không chịu dậy và đón lão quản lý vào, vì anh có nguy cơ mất chỗ làm, và vì lão chủ hãng sẽ lại cật vấn bố mẹ anh về những món nợ cũ chăng? Nhưng đó là những điều người ta không cần phải lo lắng trong lúc này. Gregor vẫn ở đây và chẳng hề nghĩ đến chuyện bỏ bê gia đình. Còn bây giờ, ôi, anh đang nằm vật trẽn tấm thảm và nếu có ai biết được tình cảnh của anh lúc này thì không đời nào họ lại thúc bách anh phải ra mở cửa cho lão quản lý. Còn cái chuyện khiếave; vội xuống gầm ghế xô pha, ở đó anh lập tức cảm thấy thoải mái mặc dầu lưng hơi bị ép và đầu không cất lên được, chỉ tiếc là thân hình anh quá kềnh càng không lọt hết vào gầm chiếc tràng kỷ này.
Anh nằm đó suốt đêm, chập chờn ngủ, chốc chốc lại choàng tỉnh vì cơn đói không ngừng quấy quả, có lúc lại trằn trọc lo âu và phác họa những hy vọng vu vơ mà tất cả đều dẫn đến một kết luận: trong tình hình hiện tại, anh phải nằm phục chờ cơ hội đồng thời nhẫn nại và hết sức ý tứ để giúp gia đình chịu đựng những điều bất tiện mà cái thân xác mới của anh tất sẽ gây ra.
Tinh mơ hôm sau, trời vẫn còn tối đen, Gregor đã có dịp thử thách cường độ những quyết tâm mới của mình. Em gái anh, gần như đã ăn vận chỉnh tề, từ ngoài hành lang mở cửa phòng anh ghé mắt nhìn vào. Cô không trông thấy anh ngay, nhưng khi thoáng nhận ra bóng anh dưới gầm ghế xô pha - trời ơi, anh phải nấp đâu đó chứ làm sao mà bay đi đâu được - thì cỏ giật mình đóng sầm cửa phòng lại không sao kìm được. Nhưng rồi dường như ân hận vì hành động ấy, cô liền mở cửa và nhón chân bước vào chẳng khác nào đang viếng thăm một người bệnh nặng hay thậm chí một kẻ xa lạ. Gregor thò đầu ra tới mép xô pha, quan sát. Chẳng biết nó có để ý thấy mình bỏ lại nguyên tô sữa - mà đâu phải vì không đói - và có đem đến một món nào khác hợp khẩu vị mình hơn hay không? Nếu em gái anh không tự ý thức được điều này thì anh thà chết đói còn hơn là ra hiệu cho cô biết điều đó, mặc dù một động lực điên cuồng đang thôi thúc anh lao vọt ra, phủ phục dưới chân cô xin một thức ăn nào đó. Nhưng em gái anh lập tức nhận ra, vẻ kinh ngạc, tô sữa vẫn đầy nguyên chỉ sánh một chút ra quanh miệng, cô tức khắc nhấc nó lên, thực ra không phải bằng tay không mà lót một mảnh vải, rồi mang đi. Gregor hết sức tò mò muốn biết em mình sẽ mang món gì vào thay, và anh cứ tưởng tượng đủ thứ. Tuy nhiên anh không đoán ra việc cô em đã làm, xuất phát từ trái tim nhân hậu của người em gái. Để tìm hiểu anh thích món gì, cô đã mang vào nhiều thứ khác nhau, tất cả bày ra trên một tờ báo cũ. Này là rau cải đã héo ủng; này là những mẩu xương thừa của bữa ăn tối qua với thứ nước xốt trăng trắng rưới ở trên đã đặc sệt lại; còn đây là ít hạnh nhân và nho khô; đây là miếng pho mát mà mới hai ngày trước thôi chính miệng Gregor đă tuyên bố không thể ăn nổi; thêm vào đó là một khoanh bánh mì khô rắn, một khoanh bánh mì phết bơ, và một khoanh bánh mì nữa vừa phết bơ vừa rắc muối. Ngoài những thứ đó, cô em lại đặt cái tô ban nãy xuống, nhưng thay vì sữa, cô đã đổ ít nước lã vào; rõ ràng cô đã dành riêng cái tô này dùng cho anh. Và rất tế nhị, biết Gregor ắt không chịu ăn khi có mặt mình, cô vội rút lui, lại còn xoay chìa khóa cửa để anh hiểu rằng anh tha hồ muốn ăn bao nhiêu cũng được. Tất cả chân cẳng của Gregor phóng về phía thức ăn. Vả lại, những vết thương của anh chắc đã khỏi hẳn vì anh không còn cảm thấy chút khó chịu nào, điều này làm anh ngỡ ngàng và anh nhớ lại hơn tháng trước một ngón tay của anh bị dao cắt phạm chút ít thế mà vết thương lại hành anh đau nhức mãi đến hôm kia mới dứt. “Chẳng lẽ bây giờ mình đã bớt nhạy cảm đi ư?” anh nghĩ thầm trong lúc vội vã dúi mồm vào miếng pho mát, cái món lập tức lôi cuốn anh mạnh mẽ, hơn tất cả đám thức ăn trên tờ báo. Mắt rưng rưng những giọt lệ thỏa mãn, anh cuống quýt nuốt lấy nuốt để hết miếng này đến miếng khác, nào pho mát, nào rau, nào nước xốt; trái lại, những thức ăn tươi lại chẳng có sức hấp dẫn nào đối với anh, thậm chí anh còn không chịu nổi mùi của chúng và phải kéo những món anh có thể ăn được ra xa một chút. Anh đã ăn xong bữa từ lâu và đang nằm uể oải ngay đó thì em gái anh chầm chậm xoay chìa khóa như để báo hiệu cho anh rút lui. Anh hoảng sợ bật dậy ngay tức khắc, dù đã thiu thiu ngủ, và lại hối hả chui vào gầm ghế xô pha. Song anh phải hết sức kiềm chế mới có thể nằm yên dưới gầm tràng kỷ tuy rằng em gái anh chỉ vào phòng không bao lâu, bởi vì bữa ăn dồi dào đã làm thân hình anh trương phồng lên thêm khiến anh bị lèn chặt rất khó thở. Trong tình trạng gần như chết ngộp, mắt lồi ra, anh quan sát cô em thản nhiên vung chổi quét sạch không những các món anh ăn còn thừa mà cả những thức anh chưa động tới như thể các món ấy giờ đây không còn ích lợi gì cho ai, và cô hối hả xúc hết mọi thứ đổ vào một chiếc xô, dùng nắp gỗ đậy lại rồi xách đi. Cô vừa quay lưng là Gregor đã bò ngay ra khỏi gầm ghế để lại được thoải mái chân cẳng và thả lỏng mình mẩy.
Từ hôm ấy, hằng ngày, Gregor được cho ăn theo lối đó, một lần vào mờ s!!!15633_3.htm!!! Đã xem 6883 lần.

Đánh máy: casau
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 8 năm 2015