Quy tắc rất đơn giản để đặt dấu thanh:
Nguyên tắc tuyệt đối: Dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm của phần vần
Trong những vần có nhiều nguyên âm, thứ tự vị trí ưu tiên để bỏ dấu như sau:
- Ưu tiên một: Nguyên âm đã có sẵn dấu (“mũ”, “râu”), tức là ă, â, ê, ô, ơ, ư
- Ưu tiên hai: Nguyên âm e
- Ưu tiên ba: Nguyên âm đầu tiên gần nhất với trung tâm của phần vần (xin nhấn mạnh: trung tâm của vần, không phải của cả từ)
- Thứ nhất: Ta ngộ nhận “trung tâm của phần vần” là “trung tâm của cả từ”
- Thứ hai: Ta không biết đâu là phần vần
Bàn về nguyên nhân thứ nhất: Khi “Trung tâm của phần vần” bị hiểu sai là “trung tâm của từ”
Thanh điệu được thể hiện ở phần vần, và dấu thanh được đặt ở trung tâm phần vần, không phải trung tâm của cả từ. Khi một vần được ghép với phụ âm đầu, trung tâm của từ sẽ thay đổi, nhưng trung tâm của phần vần thì vẫn không dịch chuyển.Ví dụ vần oan, dấu thanh được đặt ở chữ a, ngay trung tâm của vần oan, bất kể chiều dài của cả từ: oán, toán, ngoãn. Vị trí dấu thanh không hề bị chuyển dời theo vị trí “trung tâm của từ”.Ví dụ thứ hai, vần ươn. Vần ươn có hai nguyên âm đã có sẵn dấu là ư và ơ, cả hai đều được “ưu tiên” như nhau, nên vị trí dấu thanh sẽ được xác định bằng quy tắc đối xứng. Trong vần ươn nguyên âm ơ ở ngay trung tâm, nên dấu thanh sẽ được đặt ở đây, trong bất kể từ nào dù dài hay ngắn: ưỡn, vườn, trườn.Nhiều người cũng đã lập luận rằng, nguyên tắc đối xứng không nhất quán, vì nếu đã dùng nguyên tắc đối xứng, thì chữ ngoãn phải viết là ngõan (dấu bỏ ở chữ o), quả phải viết là “qủa” (dấu bỏ ở chữ u), hoặc quý phải viết là “qúy”? Lập luận này đã hiểu sai nguyên tắc đối xứng:- Ngõan: áp dụng sai nguyên tẳc. "Trung tâm của phần vần" bị hiểu sai là "trung tâm của cả từ".
- Qủa, qủy: Sai hoàn toàn vì ta gượng ép đánh dấu thanh vào trung tâm của cả từ bất kể vị trí đó có phải là phần vần hay không. U là một phần của phụ âm kép “qu”, không phải là một phần của vần. Dấu thanh phải đặt ở phần vần, không thể đặt ở phụ âm đầu. Ví dụ chữ nghĩ, dấu thanh đặt ở trung tâm phần vần (i), tuy vị trí lệch hẳn với trung tâm của cả từ.
Bàn về nguyên nhân thứ hai: Đâu là phần vần?
Vần là phần theo sau phụ âm đầu trong một từ, nếu từ đó có phụ âm đầu. Vần luôn luôn bắt đầu bằng một nguyên âm. Ví dụ trong các từ oai, bà, Nguyễn thì các vần tương ứng là oai, a, uyên. Chúng ta thường không bị phân vân khi nhận dạng đâu là phần vần, ngoại trừ hai trường hợp: Phụ âm kép qu và gi. Không giống các phụ âm kép khác như ch, tr, ph,..., qu và gi là hai phụ âm kép trong tiếng Việt có bao gồm một nguyên âm. Vậy khi học đánh vần ta cần ghi nhớ: qu và gi là hai phụ âm kép, trong đó u và i là một phần của phụ âm, không phải là một phần của vần.- Trường hợp phụ âm kép qu:
Trong tiếng Việt không có trường hợp nào phụ âm q lại đứng riêng một mình. Q luôn luôn đi với u trong phụ âm kép qu. Vì vậy, u là một phần của phụ âm đầu, không phải là một phần của vần và phần vần sẽ bắt đầu ngay sau chữ u chứ không phải bắt đầu bằng chữ u. Đã là một phần của phụ âm đầu, thì dấu không thể bỏ trên chữ u trong trường hợp qu vì dấu thanh phải được đặt ở phần vần ̣(hay chính xác hơn là nguyên âm của phần vần). Vài ví dụ các từ không có nguyên âm “ưu tiên”: quả, quý, quỉ. Phần vần ở đây là a, y, i, chứ không phải ua, uy, ui. Và vì vậy chúng ta phải bỏ dấu thanh trên chữ a, y, i.
- Trường hợp phụ âm kép gi:
Tương tự như qu, gi là phụ âm kép “gi” chứ không phải là g ghép với vần i. Xin nhắc là khi phụ âm g đi với các vần bắt đầu bằng i, e, ê, hay y, chữ g sẽ chuyển thành gh. Vậy trong các từ như gió, giá, giẻ, phần vần là o, a, e, chứ không phải là io, ia, ie. Và vì thế dấu thanh phải bỏ trên phần vần o, a, e, không thể bỏ trên i của phần phụ âm gi.
Tuy là tương đương với trường hợp qu, phụ âm kép gi có một ngoại lệ khiến cho nhiều người bối rối khi học đánh vần. Ngoại lệ này là: Khi ta ghép gi với những vần bắt đầu bằng i, thì theo quy ước một chữ i sẽ bị bỏ đi. Ví dụ khi ta kết hợp gi với các vần i, in, ia, iêu, iêt, iêng trong những từ gì, gìn, gịa, giễu, giết, giêng, giếng, theo quy ước chúng ta không viết là giì, giìn, giịa, giiết, giiễu, giiêng, giiếng. Khi học đánh vần ta phải nhớ quy ước này. Đã thông phần đánh vần thì chúng ta sẽ nhận dạng được phần vần, và việc định vị trí cho dấu thanh sẽ rất dễ dàng.
Trong giễu, giết, giếng, chữ ê đã có sẵn “mũ” nên dấu thanh sẽ ưu tiên bỏ trên ê (gom các dấu vào nhau), không có khó khăn gì. Trong những từ khác như gì, gìn, gịa (trong sách cũ còn ghi là gỵa cho đỡ nhầm lẫn), chỉ cần chúng ta xác định đâu là phần vần, chúng ta có thể bỏ dấu vào nguyên âm đầu tiên gần nhất với trung tâm của phần vần một cách dễ dàng. Tóm lại, chúng ta cần xác định phần vần để bỏ dấu chứ không thể đưa ra một luật chung là “không bỏ dấu trên chữ i trong tất cả các từ với phụ âm đầu gi”.