ậu Mười Thiên là con cháu của nhà họ Đỗ. Cái họ mà cả xứ đều biết bởi gia phả lâu đời và sự giàu sang một thời vang tiếng. Có thể vị nể cái bề dày của gia đình họ Đỗ mà mọi người khi gặp Thiên đều gọi bằng cậu Mười, hoặc cậu Mười Thiên. “Thiên” ở đây theo nghĩa của dân quê là “một ngàn”, còn mười thiên có nghĩa gấp mười lần như thế. Cứ nghe tên đã đánh giá được người, và Mười Thiên quả xứng danh là hậu nhân của một gia đình truyền đời vinh hiển. Sự giàu sang của dòng họ Đỗ là không phải bàn cãi, vì trong họ tộc bao giờ cũng có người tài cao học rộng, với những mối quan hệ mà có nằm mơ người làng cũng không dám với… Thế nhưng không phải vì vậy mà cậu Mười hống hách với người cùng làng. Ngược lại cậu rất dễ thương khi hay giúp đỡ những gia đình mẹ quả, con cô, trong điều kiện người thì già, trẻ lại non nên chưa phấn phát làm ăn được… Cậu Mười đi học tại Sài gòn, sau khi tốt nghiệp cử nhân thì về quê lấy vợ. Điều này khiến nhiều người kinh ngạc muốn ngã ra khi biết chuyện. Đúng ra với phong cách học thức sẵn có, cậu Mười nên lấy một cô gái ở thành đô và sống luôn tại đó. Ai đời người có học lại chọn gái quê làm vợ cơ chứ!... Đất đai muôn mẫu, nhà rộng thênh thang cậu Mười cũng mặc, khi chọn một cô vợ trong xóm lá tối trời ít ai biết đến. Chính điều này đã xảy ra một trận tranh cãi với người trong họ tộc, mà trung tâm sự kiện là chuyện: “cậu Mười sao lại cưới vợ gái nông”. Gia đình và bà con muốn cậu Mười thay đổi quyết định khi chọn ý trung nhân, nhưng bản thân Mười Thiên lại khăng khăng một mực: - “Người làng quê tâm tính thủy chung, chịu khó, không xe xua son phấn, lại biết thương chồng. Như thế không phải là ước mơ của các đàn ông sao?” Và cậu Mười tuyên bố một cách dứt khoát: “Cưới vợ là việc chung thân đại sự của một người. Chỉ duy nhất người đó mới quyết định sự lựa chọn cho mình. Nếu sau này có ra sao là chuyện cá nhân của người trong cuộc, chứ đâu ai đưa đầu chịu thay…” Đến đây thì cả họ đành chịu thua cái lý của cậu Mười. Thua bằng nhiều cách chứ không riêng cái tài lý sự mà Mười Thiên mang ra tranh cãi. Bởi nếu ai có muốn ngăn thì cậu Mười vẫn dư sức tổ chức lễ cưới bằng số tiền riêng mà mình sẵn có. Số tiền ấy không lớn… nhưng đủ khả năng tổ chức ba lần như vậy… Trong cuộc tranh luận, gay gắt nhất là người anh họ của cậu Mười với tên gọi là Đỗ Bá Nhân. Ông ta tuổi lớn, lịch lãm sự đời, nên phản đối đến cùng. Lúc mọi người đã xuôi tay, riêng ông ta phủi áo bỏ đi với một câu phán mang tính như đe dọa: “Chú cãi lời người trên thì đừng trách tôi… Sau này sự việc có xấu đi cũng là do chú tạo nghiệp…” Người trong làng khi biết chuyện, khuyên cậu Mười đừng có phạm vào ông Nhân. Ở cái xứ này ai ai cũng biết ông Nhân rất đáng sợ. Nghe đồn Đỗ Bá Nhân hay qua lại mới mấy tay thương buôn liên quốc ở nước Lào, Thái Lan, Cao Miên… cho nên biết rất nhiều về tà thuật. Không biết chuyện này đúng hay sai, mà có rất nhiều lời ra tiếng vào về ông Nhân ấy. Trong dòng tộc họ Đỗ, chi nhánh của ông Nhân rất xa với cậu Mười nên mọi sinh hoạt của ông anh kì quái rất ít người biết đến. Họa hoằn chỉ duy nhất một người bác họ đã lớn tuổi, mới hiểu sự việc đầu nheo tai cua ra sao… Đỗ Bá Nhân sống một mình sau khi người vợ quá cố khá lâu. Và đoản tình duyên hiếm hoi đó cũng gây khá nhiều lời bàn tán với cái chết không minh bạch của bà vợ. Nghe đâu trước khi về làm dâu họ Đỗ, người con gái xinh xắn nổi tiếng một vùng đã có ý trung nhân. Nhưng không hiểu vì sao ngày sắp thành thân thì chàng trai bỗng ngã ra chết. Người ta cứ tưởng sau cái chết của anh chồng hụt thì cô gái sẽ ưng Bá Nhân, nhưng ngược lại nàng còn tỏ ra cương quyết hơn khi muốn sống độc thân cho đến chết… Rồi có một việc xảy ra làm đảo lộn mọi toan tính của cô gái… Cái gia đình có bốn người phút chốc nổi phong ba: cha và anh của nàng bỗng lăn ra chết mà không hiểu được nguyên nhân. Người mẹ già phút chốc đứng bên bờ vực, với cô con gái neo đơn không biết chọn đường nào để đi… Tình làng nghĩa xóm, ai cũng buồn thay cho cái gia đình bất hạnh ấy! Nhưng thái độ Bá Nhân lại khác… khi tỏ ra vui mừng trước nỗi khổ mà cô gái đang mang. Rồi… bỗng nhiên có tin Bá Nhân sắp lấy vợ. Cô vợ chính là người con gái đang thủ tang cùng một lúc ba vong hồn bạc mệnh… Vợ chồng Bá Nhân sống với nhau được bốn hay năm năm thì bà Nhân sinh bệnh, thuốc thang mấy cũng không qua được. Trước lúc chết, vợ của Bá Nhân tỏ vẻ mừng vui ra mặt, điều này khác với bình thường nên nhiều người lấy đó làm thắc mắc, nhưng chẳng dám gạn hỏi. Chỉ có một điều mà những người chứng kiến truyền miệng với nhau là: “Lúc lâm chung bà Nhân cứ kêu chệch tên ông Nhân thành ra…“Bất Nhân”…!” Và chữ “Bất Nhân” ấy trở thành tên phía sau lưng của Bá Nhân kể từ đó, đối với những kẻ chẳng ưa mấy cái con người lúc nào cũng trầm mặc kì quái… Từ ngày vợ chết Bá Nhân không tục huyền, chỉ trơ trọi một thân chu du đây đó. Nghe nói có nhiều mai mối muốn đứng ra môi giới cho Nhân một cô vợ, nhưng không thành. Không thành là bởi tại Bá Nhân, chứ biết bao cô gái muốn rơi vào nhà họ Đỗ để tận hưởng vinh hoa phú quý… Sống một mình, Bá Nhân như cái bóng đi ra đi vào căn nhà rộng thênh thênh. Nhà không, chủ quạnh, nên thân phận người chủ càng tỏ ra kì bí với hành tung khó ai đoán định. Những người già dặn, gần ngôi nhà của Bá Nhân, thường kháo chuyện với nhau về cách đi của ông Nhân. Bởi bước chân ấy giống như mèo đi săn đêm, không phát ra bất cứ tiếng động nào. Và có người còn nói một cách chắc chắn, có lần ông ta đến sau lưng mình, chỉ cách một bước chân mà vẫn không hay biết… Chuyện về Bá Nhân đến tai cậu Mười, càng khiến tình cảm của hai anh em chung họ ngày một xa hơn. Cậu Mười không thích tính cách của Bá Nhân, lẫn những câu nói thầm thì phía sau lưng ông anh kì quái. Nhưng nói là như vậy, chứ chung một họ tộc không lẽ thịt bỏ ra, da bỏ vào. Cùng lắm, nhà ai nấy ở, giường ai nấy nằm… tránh nhau điều phiền phức… Hôm cậu Mười lấy vợ, cả họ mới ngã ngửa. Hóa ra cậu ấm họ Đỗ quả thật tinh đời! Cô dâu về nhà mới, xinh đẹp chẳng nhường ai, mặc dù có đôi chút chất phác của gái quê... Cả họ lúc này nhìn nhau hài lòng ra mặt… Cậu Mười dẫn vợ đi ra mắt người trong họ tộc. Đây là một nghi thức bắt buộc trong lễ hôn không thể thiếu. Khi đến trước mặt Bá Nhân bỗng nhiên mợ Mười rùng mình như cảm lạnh. Thái độ khác lạ của vợ khiến cậu Mười quan tâm. - Em mệt hay bị cảm lạnh? Cô dâu tỏ vẻ ngại ngùng đưa mắt nhìn chồng: - Không sao! Em chỉ bị choáng chút thôi… Đó là giây phút đầu tiên mợ Mười tiếp xúc với người anh họ bên chồng, và trở thành bao phiền phức đối với hai vợ chồng mãi đến tận sau này… Ngày đầu tiên bên nhà chồng của mợ Mười cũng khá ấn tượng. Bao nhiêu khách viếng thăm đều được người con gái miệt quê tiếp đón ân cần, niềm nở. Sức khỏe cô gái khá tốt nên đối với việc trà nước hoặc cơm rượu chẳng nề hà. Mợ Mười rất xốc vác nên không biết mệt là gì, chỉ có điều… cái ông anh Bá Nhân gặp mặt trong ngày cưới, thường xuyên thăm hỏi hai vợ chồng nhất, khiến mợ Mười sợ… Không hiểu sao, ánh mắt ông ta cứ hút vào gương mặt mợ Mười, đến nổi rót trà tràn ra ngoài mà vẫn không hay biết… Lúc nhà vãn khách, mợ Mười mới hỏi chồng: - Anh Bá Nhân lúc này rảnh việc nên hay sang thăm hỏi hai vợ chồng mình nhỉ? Cậu Mười hơi chau hai hàng lông mày ra vẻ khó chịu, nhưng không muốn vợ trông thấy. - Ông ta làm anh khó hiểu đấy! Bỗng nhiên thành người tốt bao giờ không biết… Câu nói của chồng khiến mợ Mười ngạc nhiên, nhưng không dám hỏi. Mợ nghĩ, có thể hai anh em đang hờn giận chi đó nên chồng mới nói thế… Chứ riêng mợ thì… không dám lỡ miệng… Vào làm dâu nhà giàu cái gì cũng sợ. Những vật dụng linh tinh so ra lúc nào cũng đắt tiền đối với kẻ nghèo. Vì vậy mợ Mười chưa bao giờ buông thả hành động của mình trong căn nhà thật lắm thứ. Cũng may, cậu Mười mồ côi sớm, chỉ có mấy người chị đã gả chồng xa, mấy đứa em nhỏ đi học thì lâu lâu mới về. Như vậy, tuy gọi là mợ Mười, nhưng thật ra là bà chủ của một gia đình với mấy người giúp việc… Hơn một tháng sống với vai trò mợ Mười, cô gái vùng quê làm quen rất nhanh những sinh hoạt của kẻ trưởng giả. Mợ Mười chưa bao giờ làm chồng thất vọng hay ra vẻ với những người phụ việc bằng vai trò chủ cả của mình. Chính điều này làm cho người ăn kẻ ở rất nể vì một cô gái cùng tầng lớp, nhưng lại gặp may khi lọt vào nhà họ Đỗ… Ba tháng sau cậu Mười có tin vui. Mợ Mười đã có mang… Và ai cũng tin rằng đó là dòng quý tử… Cậu Mười tất bật với việc mua sắm khi được tin vui nên cả ngày vẫn chưa thấy về… Chiều đó mợ Mười ra bàn thờ tổ tiên thắp nhanh như thường lệ. Bỗng nhiên lúc đang đứng, người đàn bà có cảm giác ai đó đứng rất gần mình… gần lắm như thể sắp chạm vào… Giật phắt cả người, nàng quay lại chực la lên thì… thấy Bá Nhân… Người đàn ông đứng phía sau vừa rút nhanh tay lại… lùi ra một bước… Mợ Mười nói mà mặt tái đi: - Anh đến khi nào sao không lên tiếng… Người đàn bà khôn ngoan vội lớn tiếng gọi: - Mấy đứa ở sau nhà, mang nước lên cho bác Hai uống… nhanh lên! Khi con Bé bưng nước đến, mợ Mười nói như ra lệnh: - Con đứng đó! Khi cần, mợ có việc nhờ… Sắc mặt Bá Nhân tái xanh khi nhìn vào mợ Mười. Ông ta nói mà đôi mắt gian giảo ngó quanh quất: - Chú Mười không có nhà sao thím nó? Tôi đến tìm chú ấy có chút việc nhưng xem ra… xem ra… - Anh ngồi chơi. Anh ấy chắc sắp về rồi đấy. Bá Nhân hơi lúng túng rồi khước từ ra về… Lão vừa quay lưng, mợ Mười đưa tay lên ngực thở phào nhẹ nhõm: - Người gì thật lạ! Vào nhà mà không lên tiếng. Bước chân cứ như ma vậy… Việc chạm mặt Bá Nhân trong tình huống đáng sợ, mợ Mười không kể với chồng nhưng lại nói với cha ruột mình. Ông già Tư sống bằng nghề sửa trật và trị bệnh dân gian đã lâu. Nhà có mỗi cô con gái nên ông rất cưng chiều và xem như của báu. Ấy thế mà con gái vẫn xa… Bởi đã lớn thì phải theo chồng… Ngày còn thanh niên kham khổ, ông Tư lăn lốc tận Nam Vang để rồi học được chút ít tài mọn, mang về xứ trị bệnh giúp đời. Khi gả con gái vào nhà họ Đỗ, ông già mãi băn khoăn trong lòng. Họ Đỗ thì không có gì phải phàn nàn, nhưng… trong họ Đỗ có một người mà ông Tư biết tiếng. Ông biết người này khi còn rất trẻ… lúc trần lưng kiếm cơm tại Nam Vang… Người đó chính là… Đỗ Bá Nhân… Khi nghe con gái kể lại sự việc, mặt ông già tái đi trong ánh sáng sắp tắt của buổi trời chiều. Không nói không rằng, ông vào nhà lấy ra một vật cho con gái. - Con đem cái này về… Con đeo một cái. Cái còn lại là cho chồng con… Mợ Mười định hỏi thì ông già khoát tay: - Chồng con là người có học. Nói nhiều đôi khi nó không tin, lại cười mình… Cái ông Nhân ấy rất… Con phải cẩn thận giữ mình… Về đến nhà, mợ Mười mở vật đó ra mới biết là dây “Bùa” dân gian thường đeo cho trẻ nhỏ. Cô con gái bật cười khi nhớ đến sắc mặt người cha. Có thể do quá thương con mà ông già sinh ra nghĩ nhiều, bắt đeo mấy thứ kỳ quái. Thời buổi này… cho chồng, chắc anh ấy cười chê mê tín… Nghĩ vậy, nhưng mợ Mười vẫn đeo vào cổ sợi dây có cái túi nhỏ xíu hình tam giác rất dễ thương… Tối hôm đó cậu Mười thấy vật lạ trên cổ vợ liền phì cười: - Em đeo vật chi mà đẹp thế! Có phải dành cho đứa bé không? Câu hỏi của chồng khiến mợ Mười mừng rỡ. Nàng nói cho chồng đừng để ý: - Đúng là cho đứa nhỏ! Anh cũng phải đeo một cái cho bớt khí mãnh, tránh đứa trẻ giật mình… Thế là để chiều vợ, cậu Mười cũng đeo sợi dây vào cổ… Sau này khi nhớ lại chuyện cũ, mợ Mười vẫn còn cười mãi cái tính cả lo của cha. Nhưng có một việc mà người con gái không sao giải thích được. Từ ngày đeo sợi dây ấy, không thấy Bá Nhân lãng vãng tới nhà. Có hôm tinh ý quan sát, thấy Bá Nhân cứ nhìn chằm chằm vào ngực khi nàng mặc chiếc áo bầu rộng cổ… Dù sao cũng hay, tránh được ông anh chồng như kẻ trộm đã thấy vui rồi… Nhưng xem ra lão ta ngày một tức tối điều gì mà có trời mới hiểu… Năm sau, nàng dâu họ Đỗ sinh con. Đó là một đứa trai bậu bĩnh rất dễ thương… Cả họ hay tin đều đến chúc mừng, nhưng không thấy Bá Nhân... Mợ Mười nghĩ bụng: “Như thế mà lại hay! Đứa nhỏ vì vậy không phải giật mình…” Nhưng đến lúc đứa trẻ hai, rồi ba tuổi, mợ Mười lại thấy lo. Cái ông Bá Nhân bây giờ cứ bám theo đứa nhỏ suốt, với bao nhiêu thứ đồ chơi… Đến sinh nhật thứ tư của bé Thanh Tâm, Đỗ Bá Nhân đến dự tiệc và tặng cho cháu một chiếc mặt nạ đen với cái miệng cười hoác. Ai nấy nhìn chiếc mặt nạ đều cười vì nét khôi hài của nó. Riêng mợ Mười thì chau mày không hài lòng khi nhìn đứa con chơi đùa với chiếc mặt nạ. Chiếc mặt nạ màu đen với hai hố mắt to tròn, cái mũi của nhân sư, miệng lại nở nụ cười đầy nét huyền bí. Không hiểu sao mợ Mười thấy khó chịu khi con mình mang chiếc mặt nạ ấy. Nhìn nó thật bất tường, thật giả tạo bởi nụ cười rất khó giải thích. Khi Thanh Tâm đeo chiếc mặt nạ, mợ Mười không hiểu con mình đang nghĩ gì, vui buồn ra sao. Bởi nó bị che phủ bằng nụ cười như mật ngọt, quyến rủ lòng người… Nàng đem những điều bứt bối nói với chồng. - Em không thích chiếc mặt nạ ấy tí nào. Con người khi đeo mặt nạ thật khó coi. Nó không còn những nét chân thật, quý báu mà ông trời ban tặng. Khi khoác chiếc mặt nạ lên mặt, chỉ còn duy nhất là sự giả dối hòng lừa gạt nhau thôi. Cậu Mười nhìn vợ, cười hóm hỉnh: - Con nít mà em! Đứa nào không thích điều mới lạ… Mợ Mười định nói nữa, nhưng nghe thế lại thôi… Dù sao nàng vẫn thấy lo lo… Mấy ngày sau, không biết phải do chơi đùa nhiều mà bé Thanh Tâm bỗng bị sốt cao. Cậu Mười cùng vợ đưa con vào bệnh viện. Bác sĩ khuyên cho cháu ở lại để tiện việc theo dõi… Bé Tâm nằm viện khá lâu nhưng không khỏi. Nó được hạ sốt, nhưng bác sĩ chẩn đoán cho rằng cháu bị ảnh hưởng thần kinh và mang di chứng suốt đời… Mợ Mười khóc ngất trên tay chồng. Đứa con yêu quý của họ bỗng nhiên lâm bệnh kỳ lạ, thật khó lòng chấp nhận được… Ngày đưa con ra viện, mợ Mười khóc mãi. Bé Thanh Tâm bây giờ mặt mày ngơ ngẩn, ánh mắt lạc thần. Nó nhìn vợ chồng cậu Mười với vẻ xa lạ, không nhận ra đó là người thân của mình. Sự kiện bé Tâm đột nhiên lâm bệnh lạ khiến trong họ rất nhiều lời bàn tán. Người nói thế này, kẻ nói thế kia, không ai giống ai. Nhưng có một điều mà mọi người đều thống nhất với nhau là: “Thanh Tâm bị nhập tà”. Nếu không, đứa nhỏ đang chơi đùa bỗng nhiên ngã ra bệnh lạ… Thấy tình cảnh vợ chồng cậu Mười ai ai cũng thương cảm, nhưng không biết san sẻ bằng cách nào… Từ ngày lâm bệnh, bé Tâm ít nói, nếu có cũng là những lời nói thiếu ý tứ và vô nghĩa. Nó thường đi loanh quanh trong khu vườn với chiếc mặt nạ, ca hát vu vơ đến tối mới chịu vào nhà… Rồi một ngày không ai thấy Thanh Tâm đâu. Mọi người chia nhau ra tìm náo động cả làng. Đến gần sáng người ta phát hiện ra bé Tâm nằm chết dưới ao nước sau vườn, với chiếc mặt nạ cầm chắc nơi tay… Tội nghiệp cho mợ Mười cứ xỉu lên xỉu xuống bên cạnh xác con. Cậu Mười Thiên thương vợ lắm, nhưng biết phải làm gì khi bản thân cũng bị nỗi khổ vắt kiệt. Người ta đem bé Tâm đi chôn trong tiếng nấc tức tưởi của dòng họ. Chiếc mặt nạ là niềm vui thích hằng ngày của nó được cất giữ như một kỷ vật… Sau đám tang mấy ngày bỗng nhiên hai vợ chồng cậu Mười cãi nhau. Mợ Mười cứ một mực cho rằng cái chết của con là do chiếc mặt nạ gây nên… Còn cậu Mười vì thương con nên không muốn hủy chiếc mặt nạ ấy. Thế là cãi nhau… ngày một lớn tiếng. Cuối cùng cậu Mười bỏ đi trong sự tức giận. - “Đàn bà thật mê tín, cái vật vô tri ấy thì làm gì có huyền năng tước đi sinh mạng con người…” Đó là nhận định sáng suốt sau cùng của cậu Mười mà người trong nhà nghe thấy! Đến tối cậu Mười về trong cơn say bí tỉ, miệng cứ oang oang chưởi rủa: - Ma quỉ gì trong chốn nhân gian? Em cứ tin những chuyện huyễn hoặc thì bao giờ mới tiến bộ theo kịp mọi người. Người ta đã lên tới sao hỏa mà vẫn có người tin ma, tin quỉ mới lạ. Đâu, đâu! Chiếc mặt nạ đâu? Để anh xem nó có gì mà em lại sợ. Đây rồi! Món đồ chơi xinh đẹp của con trai tôi… Kìa… Kìa… nó đang cười em kia… Rồi cậu Mười đeo chiếc mặt nạ lên trước sự hốt hoảng của vợ… Mợ Mười không kịp ngăn chồng, chỉ kịp hét lên: - Trời ơi! Anh làm gì thế? Cậu Mười cười cợt, nhảy múa quanh vợ với cơn say đến tận trời. Sau khi đã mệt, cậu ngã xuống giường rồi chìm vào giấc ngủ say… Sáng hôm sau người họ Đỗ lại một phen kinh hoảng. Cậu Mười Thiên trở nên khật khưởng, ngây ngô như bị ai hớp hồn. Người cậu phờ phạc, sắc mặt tái xanh, ánh mắt thì lạc thần như một kẻ điên. Nhìn cậu, không ai tin đó chính là cậu ấm họ Đỗ ngày nào… Mợ Mười nhìn chồng kinh hoảng. Nỗi lo sợ trở thành hiện thực, không còn là sự ám ảnh trong giấc ngủ nữa… Và nàng ngất xỉu trên tay của… Bá Nhân… Người ta đưa cậu Mười vào bệnh viện. Nhưng mới thấy các bác sĩ mặc đồ trắng, Mười Thiên lại hét lên: - Ối, ối! Quỷ, quỷ! Quỷ hút máu người. Chạy đi, chạy mau! Quỷ hút máu người. Nhìn tay chúng kìa! Tay chúng đang cầm cái vật hút máu… Sợ lắm! Sợ lắm… Ác quỷ đó… về thôi… Rồi mặc cho người ta cố nắm giữ, Mười Thiên giẫy giụa, quơ quào, phẫn uất và sợ hãi… kiên quyết không theo mọi người vào viện… -“ Quỷ, quỷ… bọn chúng chính là quỷ đội lốt người. Mọi người phải cẩn thận… coi chừng bị hút máu đó… Ồ! Chúng đeo mặt nạ… Chúng cũng đeo mặt nạ tụi bây ơi…!” Lời Mười Thiên cứ vang dội khi mọi người cố kéo cậu ta nằm trên giường bệnh… Và từ ngày đó, cậu Mười không trở về nhà được nữa. Bác sĩ nói cậu bị thương tổn thần kinh, rất khó có cơ may hồi phục…