Dịch giả: Nguyễn văn Dương
Chương VI

     hiếc máy bay Mason thuê ở Sacramento bay qua những ngọn núi thấp bé của thị trấn Marysville nằm phía dưới cánh trái, những ngọn núi trông thật rõ nét, với hình thù kỳ dị ở sau thị trấn Oroville bắt đầu hiện rõ dần. Đó là những ngọn núi có mặt bằng, cao chừng ba trăm mét, nổi lên ở khu vực chung quanh, phía trên mặt bằng phẳng như sàn nhà. Tại đây lớp phún thạch khổng lồ thời tiền sử đã bao phủ khắp vùng, rồi dần dần, khi những đường rãnh nhỏ đã biến thành một hệ thống dẫn thoát, thì tiến trình xói mòn đất liên tục đã đào khoét nên những khe nhỏ chạy xuống tận thung lũng. Đến nay thì tầm cao của toàn khu vực ở ngoại thị trấn đã bị xói mòn mất đi hàng mấy chục mét để lại những nơi trước đây đã được lớp phún thạch phủ lên lớp đất mềm bên dưới, ngày nay trông đích thật là những ngọn núi có mặt bằng.
Della Street nhìn đồng hồ đeo tay, nói:
- Chúng ta sẽ tìm đến nơi đúng giờ không sai một giây.
Mason gật đầu:
- Vậy là chúng ta khỏi phải vất vả tất bật.
Mason nói góp:
- Và chúng ta cũng chưa bị ai thẩm vấn. Cho đến phút này vẫn chưa có ai biết là chúng ta đang ở đâu.
Della Street hỏi:
- Liệu báo chí ở Los Angeles có kháo ầm lên là chúng ta đã bỏ trốn để tránh bị chất vấn không?
- Không. Họ tất sẽ biết chúng ta đi Oroville. Họ sẽ yêu cầu các phóng viên tại địa phương trên ấy đưa tin và chuyển về bằng hệ thống dây. Họ sẽ tuyên bố rằng chúng ta đang bận không thể tiếp báo chí, nhưng họ cũng đành phải giải thích là chúng ta đang cộng tác với nhà chức trách đây.
Máy bay chúc xuống và bắt đầu hạ. Della Street nói:
- Khá nhanh đấy. Ông sắp phải lo tìm cách tránh trả lời đi thôi.
Mason gật đầu.
- Ông định cách nào đây?
- Giờ thì chưa biết, phải đợi đến lúc nghe hỏi đã.
Nàng nói:
- Được. Dẫu sao ông cũng ngủ được đôi chút trên máy bay.
- Còn cô, ngon giấc không, Della?
- Khá ngon, nhưng tôi lo quá nên không ngủ được nhiều.
Mason nói:
- Hãy để cho họ hỏi tôi trước nhé. Nếu họ cố tìm cách phỏng vấn cô riêng thì hãy báo với họ cô là thư ký riêng, nên cô nghĩ là tất cả những câu hỏi phải được tôi trả lời trước, cô chỉ trả lời những câu hỏi về các vấn đề mà tôi đã trả lời rồi, cô khỏi ở vào cái thế phải trả lời những câu có liên quan tới vấn đề tôi đã coi như là thuộc phạm vi đặc quyền. Cô không phải là luật sư, nên không hiểu những đặc quyền pháp lý nên cô muốn để chính tôi quyết định.
- Về những điều chúng ta đã làm, đã biết, đã nói và đã nghe, tới mức độ nào thì chúng có thể được coi như là thuộc về đặc quyền pháp định?
Mason khẽ nhún vai, lấy ở túi áo ra một quyển sổ:
- Tất nhiên, vấn đề cốt tử chính là ở chỗ đó.
Các nhà chức trách mỗi nơi có đề tài tìm hiểu riêng. Trong vụ án của Gallagher kiện William, mã số 23 Cal. 371, có ấn định một cách chung chung rằng, những lời phát biểu của thân chủ có sự hiện diện của những người khác thì không thể được coi là đặc quyền và do đó luật sư phải tiết lộ chúng, về sau, trong vụ án Nhân dân kiện Rittenhouse, mã số 56 CA. 541 lại có ấn định rằng, người thứ ba không được xếp vào loại có quan hệ mật mà do tình cờ nghe được những lời trao đổi giữa luật sư và thân chủ thì có thể tiết lộ những điều đã nghe. Tiếp đến, trong vụ Nhân dân kiện ông White, mã số 102 Ca 647, lại ấn định rằng, sự trao đổi giữa luật sư và các thân chủ có sự hiện diện của người thứ ba thì không được xem là những sự trao đổi có đặc quyền. Tuy nhiên, trong vụ ấy lại có vấn đề là xét thử các lời trao đổi có nhằm mục đích mang tính chất mật hay không. Tòa đã thông nhất là luật sư có thể được yêu cầu xác minh về các câu chuyện giữa mình và các bị cáo trước sự hiện diện của người thứ ba.
Mãi sau này, lại có vụ án Nhân dân kiện ông Hall, mã số 55 6A.2D, 343, người ta chủ trương rằng những cuộc trao đổi giữa luật sư và thân chủ trước sự hiện diện của người thứ ba thì không được coi như là đặc quyền. Tôi đã phạm sai lầm lớn là để cho bà Sara Ansel nghe lọt câu chuyện.
- Nhưng mà, ông chủ ơi, làm sao ông tiên liệu được sự việc lại diễn ra như thế này?
Mason hỏi:
- Tại sao không? Luật sư phải biết tiên liệu, không chỉ những sự việc sẽ xảy ra mà còn cả những việc có khả năng xảy ra nữa kìa. Chuyện hai bà ấy cãi vã lạnh nhạt nhau thì chẳng có gì vô lý đâu. Còn khi không mà người thứ ba lại có mặt thì luật sư không nên...
- Nhưng mà ông chủ à, lạy Chúa, bà ta cứ giành nói hết thì Myrna Davenport tất không bao giờ chịu kể câu chuyện cho ông nghe đâu.
Mason nói:
- Myrna Davenport nói tiếng mẹ đẻ được cơ mà. Cô ta đâu có cần thông ngôn. Rõ ràng là Sara Ansel đã nhảy vào và chơi trội thật đấy.
Máy bay lướt nhẹ qua thị trấn Oroville, bay thật sát để nhìn thấy rõ những tòa nhà chiếm cứ những chỗ quan trọng dưới bóng cây cao vút.
Della Street nói:
- Cây cối ở đây trông xinh quá. Cứ bay ở trên độ cao như thế này thì trông cây cối lớn thật.
Mason nói:
- Mùa hè ở đây oi bức lắm. Thiên nhiên bù trừ bằng cách biến thị trấn này thành cõi thiên đường dành riêng cho loài cây, cho bóng mát. Hơn nữa, cây ở đây mọc quá cao, lại cho bóng mát. Kia, tới nơi rồi, Della, hãy can đảm chờ hứng trận mưa pháo trút xuống nhé.
Chiếc máy bay nghiêng mạnh, đảo vòng để tìm chỗ đáp rồi lăn bánh vào cảng.
Một nhóm ngươi chạy vội vã. Dẫn đầu là các vị phó nhòm mang theo máy quay phim và đèn pha trong tư thế sẵn sàng hoạt động. Phía sau họ, vài người ra vẻ đường bệ chững chạc nhưng vẫn không giảm vẻ khẩn cấp, họ là nhóm người đến có chủ đích.
Từ trên máy bay bước xuống, Mason và Della Street có chủ ý trong các thế đứng để cho nhóm thợ ảnh chụp thật đầy đủ.
Các phóng viên báo chí cầm xấp giấy nháp và bút chì, sẵn sàng ghi phỏng vấn.
Một phóng viên chen ra trước, hỏi:
- Xin ông cho biết quý danh.
Mason tươi cười:
- Perry Mason.
- Tên họ phải không ạ?
- Perry Mason.
Gã quay sang Della Street:
- Còn cô?
- Della Street.
- Cô là thư ký riêng của ông Mason?
- Vâng.
- Xin cảm ơn. - Gã phóng viên nói và bắt tay Mason.
- Được thôi. - Mason đáp lại, nụ cười đang ở trên môi ông bỗng héo đi khi ông nhận ra là gã phóng viên đã chuồi vào tay mình một mảnh giấy nhỏ gấp sẵn. Mason vội đút bàn tay phải vào túi áo ngoài, mỉm cười nhìn một người thanh niên hơi mập đang xô đẩy chen lấn để tới gần. Ông hỏi:
- Ông Halder?
- Chính tôi. Tôi là biện lý quận. Còn đây là ngài Quận trưởng. Tôi cũng có một ông phó thẩm ở đây. Tôi muốn đưa xe về văn phòng ngay nếu ông không thấy gì trở ngại.
Mason đáp:
- Tôi vui lòng làm bất cứ việc gì thuận lợi cho các ngài.
- Chúng tôi có sẵn đây chiếc xe của quận, sẽ đưa ông về văn phòng quận và làm lẹ cuộc phỏng vấn.
Mason nói:
- Tốt thôi. Viên phi công của tôi được phép bay thử máy nên đã cho tôi biết là có thể về bất cứ giờ nào vào tối nay.
- Tôi lấy làm bận lòng là ông phải bỏ tiền riêng để thuê chuyến bay như thế này, ông Mason à... nhưng chúng tôi chẳng biết làm sao hơn. Chúng tôi hiện đang cố giảm bớt mọi chi phí cho công việc quận ở đây.
Mason nói thật khẽ, thật nhẹ nhàng:
- Tôi rất cảm thông. Xin đừng bận tâm đến chuyện đó nữa.
Haider quay sang các phóng viên báo chí:
- Tôi lấy làm tiếc khiến các vị thất vọng, nhưng không muốn các vị đứng ở đây phỏng vấn ông Mason. Tôi muốn tổ chức cuộc tìm hiểu theo cách riêng. Sau đó, tôi sẽ phát một bản thông báo cho báo chí, hoặc là các phóng viên sẽ được mời đến tại văn phòng quận... Trừ phi ông Mason có ý kiến phản đối.
Mason nở nụ cười vui vẻ thân mật:
- Tôi chưa hề có ý kiến gì phản đối báo chí cả. Tôi cho họ biết tất cả mọi tin tức... cố nhiên là trừ những tin thuộc loại mật mã vì các lý do chiến lược, không thể tiết lộ được.
Halder nói:
- Được, thế là tốt, rất hoan nghênh tinh thần cộng tác của ông, ông Mason ạ. Tôi xin hết lòng bày tỏ sự hoan nghênh nhiệt tình đối với tinh thần cộng tác này. Bây giờ thì xin mời ông và cô Della Street lên xe. Còn các phóng viên nhà báo, xin đừng hỏi gì cả cho đến khi nào xong cuộc phỏng vấn tại văn phòng của tôi nhé.
Mason nói:
- Xin chờ một chút. Tôi cần gửi một điện tín.
Ông rút cái ví ở túi áo trên, mở ra và xem kỹ bên trong một lúc, sau đó bỏ tay phải vào túi sườn, lấy ra một mảnh giấy xếp gấp do gã phóng viên nhà báo lúc nãy đã chuồi vào tay ông, đem trải đặt lên mặt trong cái ví để đọc bức thư nhắn gửi được đánh máy.
“Tôi là Pete Ingram, phóng viên báo Oroville Mercury. Mabel Norge, thư ký của Ed. Davenport, đã bỏ đi. Tôi không tìm ra được cô ấy. Chẳng ai biết cô ta ở đâu. Chiều hôm qua cô ấy đã rút gần hết số tiền ở ngân hàng Paradise. Đừng thắc mắc tại sao tôi biết vì đây là tin riêng. Tôi lộ cho ông biết tin này bởi hy vọng là nó có thể có ích cho ông. Ông có thể giúp lại bằng cách cho tôi biết tin mật”. Mason xếp cái ví, nhét lá thư vào trong, bỏ ví vào túi áo, đưa mắt nhìn khắp đám người ít ỏi đang tập trung chung quanh, cho đến lúc ông gặp đôi mắt nhìn có ý dò hỏi của Pete Ingram. Mason khẽ gật đầu thật nhẹ không ai trông thấy.
Halder nói:
- Ấy, nếu ông muốn gửi điện tín, thì chúng tôi có thể...
Mason ngắt lời:
- Ồ, tôi nghĩ thôi để sau này cũng được. Dẫu sao thì chúng tôi cũng chẳng phải ở lâu.
Halder nói một cách nhiệt tình:
- Tôi cũng hy vọng như vậy.
Mason và Della Street bước lên ô-tô. Viên Quận trưởng ngồi cùng dãy trước với Halder, ông này cầm tay lái. Viên phó thẩm là Oscar Glencoe, lớn tuổi hơn Halder, ngồi ở ghế tay trái, im lặng chẳng nói. Della Street ngồi giữa, còn Mason thì ngồi bên tay phải.
Chiếc xe rú ga tăng tốc lực, Halder lái xe thẳng đến tòa án quận. Ông nói với Mason:
- Nếu không có gì phiền cho ông thì chúng ta sẽ mở cuộc phỏng vấn tại văn phòng riêng của ngài Quận trưởng.
Mason nói một cách vui vẻ:
- Chỗ nào cũng được cả.
Họ xuống xe. Viên Quận trưởng dẫn trước, đi vào văn phòng riêng của mình. Tại đây ghế đã được sắp xếp sẵn quanh bàn làm việc. Nhìn khắp một lượt, Mason cảm thấy chắc chắn là ở đây có bố trí kín một bộ phận vi âm và thâu băng. Viên Quận trưởng lên tiếng:
- Xin mời ngài xuống đây. Jon, ông có cần ngồi ở bàn bên đó để nêu câu hỏi không?
Halder đáp:
- Xin cảm ơn. - Đoạn ông ta ngồi xuống trong chiếc ghế di động ở bàn giấy. Những người khác cũng đều ngồi xuống. Halder cẩn thận chờ cho đến khi tiếng ghế xô đẩy va chạm sau cùng chấm dứt mới bắt đầu nêu câu hỏi thứ nhất. Như thế càng chứng tỏ cuộc phỏng vấn đang được thu vào máy.
Halder dằng hắng, lấy ở túi áo một tài liệu, trải ra trên mặt bàn trước mặt hỏi:
- Ông Mason, ông và cô thư ký của ông, cô Street có mặt tại Paradise vào chiều tối hôm qua?
Mason vừa nói vừa suy nghĩ:
- Để xem. Mới ngày hôm qua thôi ư? Tôi chắc là đúng như thế, thưa ngài cố vấn. Bao nhiêu việc xảy ra nên cứ ngỡ như là đã diễn ra từ ngày hôm trước. Không, tôi chắc là ngày hôm qua. Tức là ngày mười hai... thứ Hai. Đúng vậy.
- Và ông đi vào ngôi nhà của Edward Davenport tại đường Crestvicn Drive?
Mason nở nụ cười dễ chịu, nói:
- A này, tôi để ý thấy ngài đang đọc những câu hỏi, thưa ngài Haider. Do đó, tôi cho rằng cuộc phỏng vấn này mang tính chất của một cuộc hỏi lấy cung chính thức, vậy đấy.
- Thì có gì khác đâu? - Halder hỏi ra vẻ tươi tỉnh.
Mason đáp:
- Ồ, khác quá đi chứ. Nếu chúng ta đang trò chuyện một cách bình thường thì thôi, còn nếu ngài đang nêu những câu hỏi theo quy cách có ghi sẵn trên một tờ giấy đã chuẩn bị thì tôi cần phải thận trọng suy nghĩ những câu mình sẽ trả lời chứ ạ.
Halder hỏi bằng một giọng thoáng biến thành ngờ vực:
- Tại sao? Sự thật thì lúc nào chẳng là sự thật?
Mason đáp:
- Ấy, đúng là như thế, nhưng hãy lấy câu hỏi vừa rồi của ngài làm ví dụ. Ngài hỏi tôi có vào ngôi nhà của Edward Davenport không?
Thái độ của Halder tỏ ra cảnh giác:
- Thì tất nhiên câu ấy có thể trả lời là có hoặc không thôi.
Mason:
- Đâu phải, đâu có dễ dàng như vậy được.
- Tại sao không?
- Chúng ta hãy cho là như thế này: Nếu cuộc phỏng vấn được tổ chức như là chính thức nghiêm túc thì tôi cần phải tỏ ra rất thận trọng khi phát biểu sao cho chính xác một trăm phần trăm.
- Vâng, tôi muốn như thế đấy, và tôi nghĩ rằng ông cũng muốn thế.
Mason nói:
- Do vậy, tôi muốn phát biểu rằng tôi đã đi vào một ngôi nhà nay đã thuộc quyền sở hữu của bà Edward Davenport.
Haider nói:
- Khoan đã nhé. Ngôi nhà ấy trước đây là nơi ông Davenport làm việc và...
Mason ngắt:
- Chính cái chỗ này đây. Chính đó là điểm tôi đang có lưu ý tới.
- Tôi không hiểu ý ông.
- Ngài không hiểu ư? Nếu ngài đang trò chuyện một cách bình thường và hỏi tôi có vào căn nhà của Ed. Davenport ở trên đó không thì, ấy, thì ắt sẽ trả lời một cách vô thưởng vô phạt và không do dự rằng “Quả đúng thế”. Còn nếu đây là cuộc phỏng vấn đàng hoàng chính thức và ngài hỏi tôi có vào căn nhà thuộc quyền sở hữu của Davenport thì lúc ấy tôi đơn thuần chỉ quan tâm tới vấn đề di sản của Edward Davenport ở Paradise bang California có thể bị tước đoạt một cách phi pháp hoặc trái phép, mà bởi vì có ai đó cảm thấy rằng Ed Davenport đã chết và có khả năng là... xin ngài lưu ý nhé, ngài cố vấn, tôi đang nói chuyện hoàn toàn về tình trạng tinh thần của kẻ, hay nhiều kẻ, đã gây áp lực đối với ngài - khả năng có thể xảy ra là bà Myrna Davenport có dính líu tới cái chết của người chồng. Có đúng như vậy không?
- Ông Mason, e rằng câu hỏi này tôi thấy khó trả lời dứt khoát đây.
Mason nói một cách ngọt ngào trôi chảy:
- Cứ như chỗ tôi được biết thì theo pháp định, một kẻ phạm tội giết người thì không được thừa hưởng bất cứ cái gì của người chết. Như thế có đúng không, thưa ngài cố vấn?
- Đúng thế.
- Vậy thì, giả như ngài đặt cho tôi một câu hỏi có liên quan đến quyền sở hữu một tài sản nào đấy, tức là câu hỏi về tình trạng quyền thừa kế hiện tại đối với tài sản đó, và xin nêu thêm giả thiết rằng đó chính là tài sản của Ed. Davenport trong lúc ông này còn sống, được ông ta để lại cho người vợ theo các điều ghi trong chúc thư mà xét trên giấy thì hoàn toàn có giá trị và trong các trường hợp bình thường sẽ đem lại cho người quả phụ quyền thừa kế ấy. Thế rồi, giả thiết là tôi, xin được phép làm phiền ngài một chút, trả lời rằng trong hiện tình, tài sản ấy không phải thuộc về bà Davenport, thì dám sẽ có người nào đó - tất nhiên không phải là ngài, thưa ngài cố vấn, vì tôi biết ngài không đời nào chịu lợi dụng chỗ sơ sót cỏn con này đâu - người nào đó có đầu óc máy móc sẽ dùng câu phát biểu ấy để coi đây như là dấu hiệu chỉ cho thấy, tôi đã thừa nhận là Davenport đã phạm tội giết người và bởi lẽ đó bà ta không được quyền thừa kế và cũng chưa có quyền thừa kế.
Mason ngả mình ra sau, tươi cười nhìn ba nhân viên thẩm vấn đang sửng sốt. Ông lấy hộp thuốc ở túi áo ra và hỏi:
- Có vị nào cần hút không?
Im lặng.
Mason rút một điếu, gõ nhẹ lên mặt hộp thuốc, châm lửa và nhả một làn khói lớn, nét mặt tươi tỉnh nhìn các nhân viên đang thẩm vấn mình.
Halder nói:
- Được, xin chờ một lát. Mở đầu thì tôi chất vấn ông, thế mà bây giờ đây hầu như tôi đang phải trả lời các câu ông chất vấn.
Mason nói:
- Dĩ nhiên, tôi muốn tính chất của cuộc phỏng vấn này được xác định một cách rõ ràng. Bây giờ tôi xin hỏi ngài đây, thưa ngài cố vấn pháp luật, với tư cách là một luật sư nói chuyện với một luật sư, ngài nghĩ như thế nào? Tôi có cần nói bất cứ điều gì biểu lộ hàm ý rằng thân chủ của tôi không đủ tư cách để thừa hưởng các di sản của người chồng quá cố để lại chăng?
- Tất nhiên là không rồi. Có ai yêu cầu ông làm chuyện ấy đâu.
- Đúng y thế đấy. Vì vậy, khi ngài hỏi tôi một vấn đề thuộc về tư cách, tôi cần phải rất ư thận trọng khi trả lời. Ngài có nghĩ như thế không?
Halder đáp:
- Bản thân tôi hiện không ở vào tư thế góp ý kiến cho ông được.
Mason thừa nhận:
- Đúng y như thế. Tôi hoan nghênh sự thẳng thắn của ngài cố vấn. Và vì lẽ ngài không ở vào tư thế góp ý kiến cho tôi nên tôi tự góp ý lấy. Vậy là ngài đã nêu lên một vấn đề rất đáng quan tâm. Trong hiện trạng, tôi không biết mình có được tự do để bình phẩm về vấn đề tư cách chủ quyền hay không đây. Tuy nhiên, ngài cứ việc tiếp tục phỏng vấn, tôi sẽ nhận ra những gì có thể làm được.
Halder lại nhìn xuống tờ giấy của mình, nói:
- Trong lúc ông đang có mặt trong ngôi nhà ấy, ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của Ed. Davenport ở Paradise, ông có nhặt khóa trên một bàn giấy nào đấy, mở một hộp có khóa, và lấy ra một phong bì có ghi dòng chữ do Davenport viết: “Để chuyển giao đến nhà chức trách trong trường hợp tôi chết”.
Mason yên lặng suy nghĩ. Halder hỏi:
- Ông không thể trả lời câu hỏi này sao?
Mason bật môi:
- Có khá nhiều yếu tố trong câu hỏi này. Tôi đang dùng trí để cố gắng phân tích chúng.
- Chắng hạn yếu tố gì?
Mason nói:
- Trước hết, một lần nữa ngài lại nêu vấn đề chủ quyển của ngôi nhà.
Halder nói:
- Ấy, thì chúng ta cứ hiểu với nhau rằng khi nào tôi nhắc đến ngôi nhà là nhà của Ed. Davenport, tôi chỉ nói một cách chung chung theo nghĩa của từ ngữ nên chúng ta cũng đừng cố tìm cách xác định quyền sở hữu thuộc về ai làm gì vào lúc này.
- Ồ không, nếu nói như thế thì mặc nhiên quy định rằng tôi không bị ràng buộc vào những lời phát biểu của mình. Giữa ngài và tôi thì điều này chẳng là gì cả, thưa ngài cố vấn pháp luật, nhưng nó sẽ không phải như vậy đối với một ai đó... Ấy, cứ cho là một viên luật sư lạnh lùng, tính toán và tàn nhẫn có thể là đang ở trong tư cách là đại diện cho một người thừa kế một di sản nào đấy.
- Người thừa kế nào khác nữa đây?
Mason nói:
- Ấy, hiện tại thì tôi chưa hình dung rõ, nhưng chẳng hạn như bà Sara Ansel. Chị của bà này lấy anh ruột của ông William Delano. Để tiện bàn luận, chúng ta hãy giả định rằng di sản của Delano không thể đến tay Myrna Davenport.
- Tại sao lại không?
- Ồ, bởi nhiều lý do pháp lý, chẳng hạn như vấn đề xin ngài lưu ý cho, đây chỉ là vấn đề có tính chất giả thuyết thôi - Myrna Davenport lỡ có bị buộc tội ám hại William Delano.
Haider nói:
- Bà ta không thể như thế. Bà ta bị buộc tội ám hại Hotense Paxton, còn Delano thì không bị ám hại. Ông ấy lúc bấy giờ đang hấp hối.
- Thế thì tôi đã được ngài bảo đảm rằng bà này không bị kết vào tội đã ám hại William Delano phải không? Và tôi cũng được ngài bảo đảm rằng William Delano không bị ám hại?
- Tôi không ở vào tư thế để có thể bảo đảm với ông về bất cứ chuyện gì cả.
Mason nói:
- Vậy ra là thế đấy. Chúng ta lại quay trở lại từ đầu. Theo ngài cố vấn, tôi thấy mình ở vào một tư thế kỳ cục... Tôi rất nóng lòng muốn cộng tác với ngài, thế nhưng...
- Ông muốn đi đến kết luận nào đây? Có phải là Sara Ansel có thể trở thành người thừa kế chăng?
Mason nói:
- Ấy, giả dụ rằng Myrna không đủ tư cách thừa hưởng di sản của William Delano theo bức chúc thư ông ấy để lại, vì lẽ bà ta bị kết tội ám hại ông ấy, điều đó có lẽ sẽ đưa bà Ansel đến chỗ có đủ tư cách pháp nhân để thừa kế di sản từ tay người em đã chết của Delano... hoặc có đúng vậy không? Thưa ngài cố vấn tư pháp, tôi thẳng thắn thừa nhận rằng tôi chưa tra xét tới luật thừa kế.
Halder nói:
- Tôi cũng vậy thôi.
Mason nói:
- Vậy thì có lẽ chúng ta nên tra cứu ngay bây giờ thôi.
Halder đáp:
- Ồ, khỏi, khỏi. Chúng ta chỉ làm cho vấn đề thêm rắc rối thôi. Tôi muốn những vấn đề do tôi nêu ra vẫn giữ tính đơn giản và tôi muốn có những câu trả lời thật giản đơn, dứt khoát.
Mason nói:
- Tôi cũng rất muốn như thế, nhưng việc này lại trở thành một phiên tòa tra hỏi có tính chất nghiêm túc khiến tình huống hóa ra quá phiền phức.
- Tôi đang cố gắng làm cho tình huống này trở nên bình thường thôi.
- Nhưng chính ngài lại bảo nó là nghiêm túc cơ mà.
- Ấy, cái đó còn tùy cách ông hiểu nghiêm túc là như thế nào.
- Ấy, tôi chỉ kết hợp những ý nghĩ của tôi thôi.
Mason nhìn Halder có vẻ trách móc:
- Thưa ngài cố vấn, điều ấy mà là lý do duy nhất để soạn sẵn các câu hỏi được sao? Cái lý do độc nhất đấy ư?
Halder bỗng lộ vẻ bối rối:
- Ấy, dĩ nhiên là như thế rồi. Tôi đã hội ý với các vị khác, những vị ấy đề nghị nêu những câu hỏi đặc biệt họ cần được giải đáp.
- Và bởi vì ngài chấp nhận các đề nghị của họ về những câu hỏi cần phải được giải đáp nên ngài đã ghi sẵn như vậy sao?
- Phần nào là như vậy.
Mason nói:
- Thế đấy. Cái câu hỏi mà bây giờ ngài đem ra hỏi tôi đã được biện lý ở Los Angeles nghĩ ra thuần túy nhằm mục đích dàn dựng một lý thuyết nào đấy về vụ án mà ông ta có sẵn. Và thế là ông ta có thể phân tích câu trả lời của tôi theo cách có tính chất kỹ thuật nhất.
- Nhưng thân chủ của ông đâu có bị kết tội trong vụ mưu sát William Delano, người cậu của bà ta. Bà ta bị kết tội vào vụ mưu sát cô Hotense Paxton.
- Và vụ mưu sát có tính chất giả định ấy làm cho bà ta có quyền hưởng phần lớn di sản của William Delano?
- Tôi hiểu tình huống là như vậy.
- Vậy xác của William Delano đã được khai quật chưa?
- Chưa.
- Tại sao chưa?
- Vì cái chết của ông này là cái chết tự nhiên thôi.
- Làm sao ngài biết?
- Lúc ấy ông ta đang hấp hối. Ông ấy chết dần chết mòn trong nhiều tháng trước đó.
- Một người chết dần chết mòn thì khỏi bị chất độc tác hại sao?
- Bộ ông đang cố tình tạo ra sự hiểu ngầm rằng thân chủ của ông đã đầu độc William Delano hay sao đấy?
Mason nói:
- Trời đất, tôi biết là bà ta không làm như vậy rồi.
- Làm sao ông biết được?
- Bởi tôi biết bà ấy không đầu độc ai cả.
Halder nói:
- Bà ấy đầu độc Hotense Paxton và có thể đã đầu độc cả Edward Davenport.
- Ồ, đấy đấy, ngài đang ngang nhiên buộc tội đấy nhé.
- Ông Mason, tôi có nắm được nguồn tin hỗ trợ cho lời buộc tội này.
- Nguồn tin mà tôi không có?
- Chắc chắn như thế rồi.
Mason nói:
- Tất nhiên là điều này càng làm cho tình huống thêm rắc rối đây.
Haider nói một cách chới với tuyệt vọng:
- Tôi đang hỏi ông những câu hỏi đơn giản, thế mà ông cứ chơi trò chạy vòng vo tam quốc.
Mason đáp:
- Đâu phải là chuyện vòng vo tam quốc. Tôi chỉ xin yêu cầu ngài tự đặt mình vào tư thế của tôi đấy thôi, lúc ấy liệu ngài có thuận trả lời những câu hỏi liên quan tới quyền thừa kế chăng?
- Tôi không thể tự đặt mình vào tư thế của ông được. Tôi không thể góp ý kiến gì cho ông cả. Tôi có những vấn đề riêng phải lo.
Mason nói:
- Đúng như vậy. Thế thì do chỗ tôi không thể nhờ ngài giúp ý kiến, do chỗ ngài e ngại phải nhận lấy trách nhiệm...
- Ai ngại?
Mason đáp:
- Ấy, chính ngài.
Mặt Halder đỏ như gấc:
- Tôi không ngại gì cả. Thái độ của ông tôi thấy có lẽ khó tạo thiện cảm đấy.
Mason lấy giọng thân tình:
- Ấy, ấy. Đề nghị chúng ta chớ nên vì chỗ tư thế khác nhau mà gây ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ cá nhân giữa chúng ta, thưa ngài cố vấn. Tôi chỉ có ý nêu nhận xét là ngài, trong tư cách của mình, đã có ý ngại lãnh trách nhiệm đóng góp ý kiến cho tôi đấy thôi...
- Tôi đâu có ngại lãnh trách nhiệm.
- Vậy là ngài có hảo ý góp ý kiến cho tôi?
- Tất nhiên là không. Tôi không ở vào tư thế góp ý kiến cho ông. Tôi đại diện cho nhân dân ở bang California. Tôi đại diện cho quận này. Ông đại diện cho thân chủ của ông. Ông cần phải xác định trách nhiệm riêng của ông.
Mason nói:
- Tất nhiên thôi, thưa ngài cố vấn, có cảm tưởng rằng ngài trả lời như vậy là để tránh né câu hỏi.
Halder nói như quát:
- Tôi tránh né câu hỏi?
- Đúng như thế. Ngài không chịu trả lời dứt khoát rằng với tư cách là luật sư đại diện cho bà Myrna Davenport như tôi thì liệu tôi có nên trả lời các câu hỏi của ngài nêu ra chăng?
- Tôi không ở vào tư thế để góp ý kiến cho ông về bất cứ chuyện gì cả.
Khuôn mặt của Mason bỗng rạng rỡ nụ cười như thể ông đã tìm ra giải pháp cho toàn bộ vấn đề.
- Vậy thì liệu ngài có đồng ý bảo đảm với tôi rằng, nếu tôi cứ tiếp tục trao đổi và thảo luận vấn đề tư cách pháp nhân với ngài, thì liệu các câu trả lời của tôi có lúc nào phương hại cho thân chủ của tôi hay không?
Halder ngần ngừ một lúc, nói:
- Ấy, theo tôi... tôi không thấy có chỗ nào là có hại cả.
Mason hỏi:
- Nhưng ngài có chịu trách nhiệm dứt khoát bảo đảm với tôi không? Ngài có chịu lãnh trách nhiệm không? Ngài có chịu bảo đảm như thế không?
- Tất nhiên là không?
Mason nói:
- Thế đấy.
Nhà luật sư ngả mình ra sau ghế, hút thuốc ra chiều đăm chiêu, như thể đang có dự định tốt đẹp để tìm lối thoát cho chỗ bế tắc.
Halder đưa mắt liếc nhìn viên Quận trưởng, rồi ngó sang người phụ tá. Đột ngột ông nói:
- Ông Mason, xin ông và cô Street vui lòng cho chúng tôi có việc riêng vài phút nhé. Quý vị hãy chờ ở đây. Tôi cần hội ý với các phụ tá. Xin mời ngài Quận trưởng và ông Oscar bước sang văn phòng đây với tôi.
Ba người đẩy ghế lùi ra sau, bước chen qua cửa vào văn phòng thứ hai.
Della Street quay sang Mason:
- Ấy, ông chủ dường như...
Mason đưa một ngón tay lên môi ra dấu cảnh giác và đảo mắt nhìn khắp căn phòng đoạn nói:
- Dường như tôi đang rơi vào chỗ bí, đúng không, Della? Ý tôi muốn chân tình với Halder và muốn tỏ ra thẳng thắn. Nhưng khốn nỗi lại không thể nào làm ngơ trước sự thật là mình có trách nhiệm đối với thân chủ. Bây giờ nêu vấn đề tư cách pháp nhân ra thì lại càng thêm phức tạp.
Della Street nói:
- Vâng ạ, tuy mới qua mấy câu hỏi sơ bộ mà tôi đã thấy phức tạp rồi. Viên biện lý ở đây lại có sẵn một bản đánh máy các câu hỏi dài tới mấy trang.
Mason nói:
- Ấy, dĩ nhiên tôi muốn cộng tác với ông ta, Della ạ, nhưng còn bao nhiêu công việc khác phải làm nữa. Chúng ta không thể ở nán lại đây vô hạn định. Tôi rất mong ông ta tiến hành thật chóng vánh.
Della Street mỉm cười.
Mason nháy mắt ngó nàng:
- Hút thuôc nhé. Della?
- Không. Xin cảm ơn ông chủ.
Mason ngả người ra sau hút thuốc. Một lúc sau ông nói:
- Tôi mong rằng họ hội ý lẹ lẹ cho. Chúng ta lại đang giữ một chiếc máy bay thuê riêng tại đây, trong khi ở văn phòng còn bề bộn việc cần giải quyết.
Lát sau, Mason lại nháy mắt với Della và nói:
- Đúng như thế đấy, Della. Thôi hãy ngả đầu, cố mà ngủ qua loa đôi chút. Dẫu sao thì cô cũng bị mất ngủ khá lâu rồi, cứ phải thức suốt tối hôm qua.
Della Street hỏi một cách hồn nhiên:
- Thế tôi có nhắm mắt không?
Mason đáp:
- Có chứ. Nếu có cách nào mà ngủ gà ngủ gật được thì cứ việc.
Nói đoạn, Mason đưa một ngón tay lên môi, ra dấu bảo Della im lặng.
- Tốt, xin cảm ơn. - Della vừa nói vừa ngáp mạnh.
Có một khoảng im lặng kéo dài nhiều phút, trong phòng hoàn toàn yên ắng. Della Street ngả đầu ra sau lưng ghế, mắt nhắm lại. Mason hút thuốc vẻ đăm chiêu, chốc chốc lại cầm điếu thuốc đưa ra trước mặt, nhìn kỹ làn khói lượn lờ.
Cuối cùng, cánh cửa phòng bên cạnh mở. Ba người lúc nãy lại quay trở ra, có thêm một nhân vật thứ tư.
Mason nhìn người này và nói:
- Ấy, hóa ra là ông Sidney Boom. Chào ông Boom. Gặp lại ông thật hên quá.
Boom đứng lên bắt tay.
Della Street chìa bàn tay cho Boom bắt.
- Hân hạnh gặp lại ông.
- Xin cám ơn.
Lại có tiếng ghế cọ trên mặt sàn. Halder trông lúc ấy có vẻ như đã tìm được cách tấn công mới. Ông ta quay sang hỏi Boom:
- Anh là sĩ quan phục vụ ở Paradise?
- Vâng.
- Anh là phụ tá, công tác ở ngoài văn phòng Quận trưởng tại địa phương này?
- Thưa vâng.
- Tối hôm qua anh làm công tác phụ tá?
- Thưa vâng.
- Có phải tối qua anh được gọi đến nhà của Ed Davenport?
- Đó là chỗ ở đường Crestview Drive?
- Đừng hỏi tôi ở chỗ nào. Tôi vừa hỏi anh đấy.
- Ấy, tôi không dám chắc ai là chủ nhân ngôi nhà đó ngoại trừ... Vâng, tôi biết rồi. Người đàn bà có nói cho tôi rõ.
Mason hỏi:
- Bà nào?
- Cô thư ký, Mabel Norge.
Mason nói:
- Khoan. Tôi không thể ngồi yên không phản đối các phương pháp xác định quyền sở hữu như thế này được.
Halder giận dữ nói:
- Tôi đâu có xác định quyền sở hữu. Tôi chỉ muốn tìm cách cho ông tận mắt thấy một phần nào chứng cớ mà chúng tôi có thôi.
- Nhưng rõ ràng ngài đã hỏi anh ấy về việc ai là chủ nhân của ngôi nhà, còn anh ta thì trả lời cho ngài rằng anh ta biết chỉ là do một câu phát biểu của cô Mabel Norge. Tôi xin nêu ý kiến là cô Mabel Norge không phải là chuyên viên thông tạo các điều luật về quyền sở hữu bất động sản, do đó bất cứ lời phát biểu nào của cô ấy với anh ta chỉ đơn thuần có tính chất nghe nói thôi và...
Halder nói:
- Thôi được, thôi được. Đây không phải là một phiên tòa. Chúng tôi không xét xử quyền sở hữu tài sản đâu.
- Nhưng chính ngài nêu ra vấn đề sở hữu cơ mà.
- Tôi chỉ mô tả về ngôi nhà thôi.
- Thế tại sao không mô tả bằng cách nhắc tới số nhà ở Crestview Drive?
Haider nói:
- Được, chúng ta sẽ tiến hành theo cách đó. Anh được gọi tới một nơi ở đường Crestview Drive, ở chỗ nào vậy?
- Đi tới đường Crestview Drive và đến hết đường này thì nó ở cuối cùng nằm bên tay phải - một tòa nhà to lớn lạc lõng, chung quanh có cây ăn quả và cây rợp bóng mát.
Mason hỏi:
- Trong trí anh đã phân biệt cây ăn quả với cây rợp bóng mát?
- Quả như vậy.
- Thế mà thực tế thì cây ăn quả vẫn có thể cho bóng mát. Hãy cứ lấy cây và làm ví dụ, tôi cho rằng người ta ắt gọi chúng là cây ăn quả, còn...
- Khoan đã - Halder chặn ngang, có vẻ tức tối - Tôi đang tiến hành cuộc điều tra này, ông Mason ạ. Tôi đang thẩm vấn ông Boom, vậy xin ông vui lòng im lặng cho.
- Không cần lưu ý gì đến những chỗ thiếu chính xác trong cách phát biểu của ông Boom hay sao?
Halder nói:
- Không cần lưu ý gì cả. Xin ông vui lòng im cho.
Mason nói:
- Được thôi. Tôi tin rằng mọi người có mặt ở đây đều hiểu cho rằng tôi đã được yêu cầu giữ im lặng bất chấp lời phát biểu của ông Boom có những chỗ không chính xác. Vậy xin lỗi ngài cố vấn, tôi sẽ không ngắt lời đâu. Cứ tiếp tục.
Halder hỏi:
- Anh đi thẳng tới ngôi nhà ấy?
Boom đáp:
- Thưa vâng.
- Ai yêu cầu?
- Cô Mabel Norge.
- Cô ấy là ai?
- Theo chỗ tôi biết thì cô ấy là thư ký riêng của Edward Davenport. Tôi cũng đã từng thấy mặt cô ấy ở Paradise.
- Anh có quen biết ông Davenport lúc ông ấy còn sống?
- Có. Tôi có nói chuyện với ông ấy một đôi lần.
- Anh đi thẳng đến ngôi nhà này theo lời yêu cầu của Mabel Norge?
- Đúng như vậy. Cô ấy gọi cảnh sát đến.
- Anh trông thấy gì ở đấy?
- Tôi thấy cánh cửa chính không bị khóa, đèn bật sáng, còn ông Mason và cô Street đang ngồi nghỉ rất thoải mái.
- Gì nữa?
- Cô Mabel Norge hướng dẫn tìm một lá thư do ông Davenport viết và để lại cho cô ta với lời dặn đó là lá thư chỉ được mở trong trường hợp ông ấy chết.
- Thế anh xử lý như thế nào?
- Tôi tìm ra lá thư ấy... có nghĩa là tôi tìm thấy một cái hộp có khóa đựng một phong bì đã được niêm. Trên phong bì có chữ của ông Davenport ghi là phong bì này phải được gửi đến các nhà chức trách trong trường hợp ông ấy chết.
- Thế anh xử lý cái thư ra làm sao?
- Tôi cất để bảo quản.
- Anh có sẵn cái phong bì ấy không?
- Có đây.
- Được, anh trao cho tôi, nhá?
- Được ạ.
- Tôi giữ nó ở trong bàn giấy này đây. Nếu trông thấy chắc anh nhận ra chứ?
- Tất nhiên ạ.
- Làm sao anh nhận ra được?
- Vì tôi có ghi tên tôi ở trên đó.
- Thế còn ngày tháng?
- Có ghi ở đấy luôn.
- Thế rồi sau đó anh xử lý phong bì ấy ra sao?
- Tôi đưa cho ông.
- Chúng ta có thảo luận sơ về cách xử lý lá thư, phải không?
- Đúng thế ạ.
- Và sau đó tôi bỏ nó vào trong tủ sắt?
- Tôi tin là như vậy. Ông có bảo với tôi rằng ông bỏ nó vào trong tủ sắt.
- Thế rồi sáng nay chúng ta lại gặp nhau.
- Đúng.
- Và chúng ta cắt phong bì ra.
- Vâng ạ.
- Trong đấy chẳng có gì cả ngoài mấy tờ giấy để trắng?
- Đúng như vậy.
- Thế rồi, chúng ta bắt đầu xem xét kỹ phong bì, nhất trí là phong bì ấy trông như thể đã bị ai bóc rồi?
- Vâng.
- Vì vậy chúng ta đã mời tới một người thành thạo về những vụ này, anh ta bảo rằng loại keo dán đặc biệt hay gì gì đấy, bôi sẵn trên phong bì dùng để dán lại đã bị thay một cách khá tài tình bằng cách dùng nước thấm và phong bì đã được hơ nóng để mở ra, rồi sau đó dán lại bằng keo thường, việc này đã được thực hiện có lẽ trong vòng hai mươi bốn giờ qua?
- Đúng như thế.
Haider quay sang Mason và nói:
- Được rồi, ông có cần phát biểu gì về chỗ này không?
Mason nói:
- Phải nói là ngài nêu các câu hỏi quá nhanh, còn anh Boom này thì lại trả lời không chút ngần ngừ.
- Không, không, tôi không có ý hỏi như thế. Tôi chỉ muốn hỏi là ông có cần phát biểu gì về tính đúng đắn trong những câu phát biểu của anh ta không?
- Trời đất. Ngài làm tôi bất ngờ quá. Ngài đã chỉ bảo tôi phải im lặng thôi.
- Ấy, bây giờ tôi mời ông nói chuyện với tôi đây.
- Nói như thế nào cơ?
- Tôi mời ông nhận xét về những lời phát biểu của Boom.
Mason nói:
- Tôi hoàn toàn đoan chắc rằng những lời phát biểu ấy đều không đúng đắn. Khoan đã, ông Boom, xin ông chớ vội nóng giận. Tôi nghĩ rằng ông cảm thấy chúng là đúng, còn tôi, tôi không nghĩ chúng là đúng.
Halder hỏi:
- Sai là sai về mặt nào?
- Ồ, sai về nhiều mặt. Chẳng hạn tôi nhớ ngài có nói là Davenport đích thân viết trên phong bì rằng trong trường hợp ông ta chết, phong bì ấy phải được chuyển giao cho các nhà chức trách?
- Đúng thế.
Mason quay sang Boom:
- Ông có gặp Davenport lúc ông này còn sống?
- Thưa có.
- Ông không biết là ông ta chết?
- Cho tới bây giờ tôi cũng đâu có biết rằng ông ấy đã chết. Tôi nghe người ta báo cáo là ông ấy đã chết, thế thôi.
Mason mỉm cười, nói:
- Ông đang trả lời những câu hỏi theo cái cách mà ông cần phải trả lời đấy. Ông đang giới hạn những câu phát biểu của mình theo hiểu biết riêng. Ông có nói rằng chữ viết trên phong bì là của ông Davenport. Ông có chắc đó là chữ của ông ấy hay không?
- Cô Mabel Norge bảo với tôi đó là chữ của ông ấy.
Mason nói:
- Tôi biết, tôi biết mà. Đó chỉ là nghe nói thôi. Thật sự ông không biết đó có phải là nét chữ của ông Davenport hay không nữa.
- Chắc chắn là không biết.
Halder nói:
- Khoan. Tôi không đưa ông Boom vào đây để bị chất vấn.
Lần đầu tiên Mason nổi giận. Ông hỏi:
- Ngài định đối xử với tôi như thế nào đây? Có phải ngài đang cố tình đẩy tôi tới chỗ có thể bị ong đốt chăng?
Haider bật chồm khỏi ghế, hỏi lại:
- Ông có ẩn ý gì nào?
Mason nói:
- Tôi không có ẩn ý nào cả, tôi chỉ hỏi thôi. Lúc đầu ngài bảo tôi đừng nói gì cả nếu những lời phát biểu của ông Boom không đúng. Sau đó, ngài thách tôi nêu ra những chỗ sai. Tôi bắt đầu hỏi ông Boom để chỉ ra cho ông ta thấy những chỗ trả lời không đúng thì ngài chồm lên, bảo là tôi không có quyền chất vấn ông này.
- Ấy, tôi đâu làm thế.
- Tôi cũng không làm thế.
- Tôi có cảm tưởng là như vậy đó.
- Lúc này tôi đang cố làm theo những điều ngài yêu cầu, để vạch ra chỗ sai trong lời phát biểu của ông Boom.
- Ấy, đó chính là chỗ mà tôi gọi là chất vấn đấy. Hãy nêu rõ có chỗ nào ông ấy phát biểu sai không? Tôi thách ông nêu ra chỗ nào ông ấy phát biểu mà không đúng sự thật đấy.
Mason nói:
- Ồ nhiều lắm.
Halder thách:
- Hãy đơn cử.
- Chẳng hạn, có đôi lúc ngài nói rằng phong bì ấy có lời xác định bằng chữ viết của Davenport là trong trường hợp ông ấy chết đi thì phong bì phải được chuyển giao cho các nhà chức trách.
Boom nói:
- Ấy, tôi có giải thích tôi chỉ biết đó là chữ viết của ông ấy qua lời của cô Mabel Norge nói với tôi thôi mà.
- Như vậy thì ông đâu biết đó là chữ viết của ông ấy?
Boom to tiếng:
- Tôi không biết, đúng như thế.
Mason nói:
- Vậy thì làm sao ông biết rằng phong bì có lời xác định là nó phải được giao cho các nhà chức trách trường hợp ông ấy chết?
Boom hầm hừ.
Mason nói:
- Khoan đã, đừng nóng giận như thế, ông Boom ạ. Ông là một sĩ quan dễ mến và có ý tứ kia mà. Ông có nói ra như vậy đâu.
- Tôi nói thật từng lời một đấy.
Mason nói:
- Trên phong bì có ghi như thế.
- Ấy, cái đó là do ảnh hưởng thôi. Tôi nhớ là chính cô Mabel Norge có nói cho tôi rõ là trên phong bì có ghi như thế.
- Đúng là như vậy. Bây giờ nếu ngài biện lý chịu đưa phong bì ra cho ông xem, ông Boom à, thì ông sẽ thấy rằng trên phong bì không có ghi như thế. Những chữ duy nhất trên phong bì là “Chỉ được mở ra trong trường hợp tôi chết và những giấy tờ bên trong phải được chuyển đến cho các nhà chức trách”, tiếp theo đấy là chữ viết gần như là chữ ký của ông Ed. Davenport.
Haider hỏi:
- Ấy, vậy thì có gì khác?
Mason đáp trả:
- Tất nhiên là khác chứ. Một mặt, những lời dặn dò lúc ấy sẽ có nghĩa là phong bì đã được để lại như một bằng chứng để giao cho các nhà chức trách không được mở ra trước. Nhưng căn cứ theo lời dặn dò thực tế ghi ở mặt sau phong bì thì ông Davenport dặn những người đại diện theo pháp lý của mình - dĩ nhiên nếu những chữ ấy là do chính ông ta viết ra cơ - trước tiên là mở phong bì, rồi sau đó, chỉ sau đó thôi, mới chuyển giao giấy tờ bên trong cho các nhà chức trách.
Bầu không khí trong phòng lúc bấy giờ lặng như tờ, một sự yên lặng đến khó thở.
Khuôn mặt rạng rõ nhìn Boom, Mason nói:
- Đấy ông thấy không. Cô Mabel Norge mô tả một phong bì hoàn toàn khác cơ. Hóa ra đâu phải những trang giấy ở bên trong phong bì đã bị thay mà chính là cả phong bì. Cái phong bì có đựng những lời dặn dò mà cô Mabel Norge mô tả cho ông thì lại không tìm thấy đâu cả. Phong bì cô ấy đem ra hoàn toàn khác với cái cô ta nói tới bởi lẽ nó có một nội dung dặn dò khác hẳn.
Halder nói:
- Khoan đã, thật là cực kỳ vô lối. Ông rõ là đang cố tình làm rối vấn đề lên.
Mason nói:
- Thưa ngài, tôi cho đó là một lời sỉ nhục. Tôi chỉ cố tìm cách làm sáng tỏ vấn đề thôi. Tôi thách ngài phân tích bất cứ câu phát biểu nào của tôi ở đây cho thấy cố ý làm rối vấn đề? Tôi đến đây với tinh thần cộng tác. Đáng lý ra tôi có thể bảo ngài làm gì tùy ý. Tôi đã có thể bảo ngài lấy trát đòi hầu tòa hay gởi trát bắt giữ, hay tìm cách đưa tôi ra trước bồi thẩm đoàn... mà nếu phải ra trước bồi thẩm đoàn thì tôi nhất quyết yêu cầu các câu hỏi của ngài phải rất chính xác về mặt kỹ thuật. Vì không phải như vậy nên tôi mới thuê hẳn một máy bay cực kỳ tốn kém do tôi phải chịu chi. Tôi đã đóng cửa văn phòng suốt một ngày nhằm vào lúc bao nhiêu công việc tối khẩn đang cần phải giải quyết. Tôi đã giải thích tình huống của tôi cho ngài rõ rồi. Tôi đã yêu cầu ngài tự đặt mình vào tư thế của tôi và đóng góp ý kiến cho tôi nếu lỡ ra tôi có làm điều gì khác chăng. Chính ngài, là một luật sư, lại không dám đóng góp ý kiến cho tôi để làm một cái gì khác cả, thế mà lúc này ngài lại buộc tội tôi làm rối vấn đề. Tôi không thích như vậy. Tôi... chẳng cần, thưa ngài, có thể coi như tôi đã rút ý định cộng tác. Tôi không còn gì để phát biêu thêm nữa.
Halder nói:
- Ông sẽ còn phải phát biểu thêm nhiều điều nữa. Hiện giờ ông đang ở trong quận của tôi. Ông không được phép ra khỏi đây khi tôi chưa cho phép.
- Ngài nói thế là thế nào?
- Tôi muốn nói là tôi có thể đưa trát đòi ông ngay tại đây. Tôi có thể... bắt ông.
- Vì tội gì?
- Vì tội tòng phạm trước... sau khi xảy ra tội hành.
- Tòng phạm vì tội gì?
- Giết người.
- Giết ai?
- Giết Ed. Davenport.
Mason hỏi:
- Như thế nào? Một kẻ tòng phạm trước hay sau khi xảy ra tội hành?
- Tôi không biết. Tôi... phải, tôi biết. Tội tòng phạm sau khi xảy ra tội hành.
Mason hỏi:
- Hãy cho biết các yếu tố của một vụ giết người?
- Ông cũng biết như tôi thôi.
Mason nói:
- Ngài hãy chứng minh đi. Một trong các yếu tố đầu tiên của tội giết người là có xảy ra hành động giết, có một vụ giết người, có một cái xác chết.
- Chúng tôi hiện chưa tìm ra xác nạn nhân nhưng cũng sắp ra thôi.
Mason nói:
- Ngài thật là quá liều. Tại sao ngài không chịu tỉnh táo.
- Tỉnh táo về cái gì?
- Để xét tới khả năng là Ed. Davenport đã nhảy ra khỏi cửa sổ phòng trọ và cùng đào tẩu với cô thư ký xinh đẹp là Mabel Norge. Mabel Norge hiện giờ ở đâu? Tóm lấy cô ấy. Điều cô ấy ra đây. Cô ấy tố cáo tôi đã đụng tới phong bì. Hãy để cô ấy tố cáo ngay trước mặt tôi xem nào.
- Tôi... cho tới lúc này vẫn chưa tìm ra chỗ của cô ấy.
- Ngài nói “vẫn chưa” là còn lâu lắm đấy.
- Cô ấy mấy ngày hôm nay bị xúc động mạnh trước các sự việc xảy ra.
Mason giận dữ nói:
- Tôi tin là có như vậy. Tôi là một luật sư đang có thân chủ. Tôi không thể ngồi yên ở đây để bị cô Mabel Norge kết tội là đã phạm tội ác. Tôi yêu cầu đem cô ta ra trình diện và để cô ta đứng trước mặt tôi mà buộc tội. Tôi muốn chất vấn cô ta về vấn đề này.
- Tôi đang chất vấn ông đây. Đó là mục đích của tôi.
Mason nói:
- Ngài đang ném vào mặt tôi những lời buộc tội do ông Boom và cô Mabel Norge bày ra thế mà ngài lại không chịu đưa các nguyên cáo ra đây.
- Ông Boom đang có mặt ở đây.
- Lời tố cáo của ông ta toàn là nghe nói cả thôi.
- Có một số không phải như vậy.
- Tất cả đều là nghe nói cả.
Mason quay mạnh về phía Boom.
- Cô Mabel Norge có nói gì với ông về lý do cô ấy có mặt tại ngôi nhà vào giờ đêm hôm đó không?
- Cô ấy nói lúc ấy cô ta đang lái xe đi tạt qua.
Mason nói:
- Ông cũng biết rằng nói như thế là không đúng sự thật rồi. Ở khu ấy không có chỗ nào cho cô ta lái xe tới cả.
- Cô ấy có thể đảo một vòng ở khúc lộ đó rồi lái xe quay trở ra.
- Đúng. Như thế thì không thể nào có chuyện lái xe tạt qua được. Con đường đến khu đó là cụt. Cô ta không nói rằng cô đi tới ngôi nhà để xem qua tình hình công việc. Cô ấy nói là chỉ tình cờ đi tạt qua, và lúc tôi chất vấn về chuyện này thì cô ta lại bảo đó là nói lỡ nói nhầm, đúng vậy không?
- Ấy... tôi không dám chắc, nhưng cô ấy có nói thế.
- Và cô ấy cũng đâu có nói với ông về chuyện cô đã mặt ở đấy trước lúc đó vào buổi tối, phải không?
- Ấy, cô ta làm việc ở chỗ ấy cơ mà. Tôi cho là...
- Có mặt ở đấy trước khi tôi đến chừng ba mươi phút.
- Trước lúc ông đến chừng ba mươi phút! Cô ấy có mặt vào lúc ấy? - Boom hỏi.
Mason hỏi:
- Cô ta không nói với ông điều ấy chứ?
- Không ạ.
- Cô ta không nói với ông về chuyện mở hộc bàn giấy, lấy cái hộp có khóa đựng phong bì và thay vào một phong bì khác.
- Không, dĩ nhiên là không rồi. Ông cũng có mặt ở đó.
- Ông đã nghe câu chuyện rồi.
Mason nói:
- Cô ấy lái xe cùng đi với ông. Cô ta không nói với ông về chuyện đó sao?
- Không ạ.
- Và cô ấy cũng chẳng nói với ông về chuyện đi tới ngân hàng trong buổi chiều ngày hôm đó, và rút hết không còn một xu ở trương mục của ông Ed Davenport với một tấm ngân phiếu do ông ta giao sẵn, tấm ngân phiếu đã được ký sẵn vào chỗ trống với ý định sẽ được sử dụng trong những trường hợp như thế?
Boom bật lên:
- Quả thực cô ta chẳng nói gì với tôi về chuyện đó cả. Về sau tôi mới phát hiện ra tại ngân hàng...
- Ấy, thấy không - Mason vừa nói một cách giận dữ vừa quay sang Halder - Tại sao ngài lại chẳng tóm những người ở ngay tại trong quận của ngài? Tại sao ngài không làm sáng tỏ sự việc này mà chẳng cần phải để cho một vị biện lý mãi tận Fresno hay ở Los Angeles tìm cách báo cho ngài hay là có một vụ án mạng và khiến ngài thành kẻ ngơ ngác như vậy? Tại sao ngài không tóm lấy tội phạm ngay tại địa phương để làm sáng tỏ vụ việc này và đưa ra ánh sáng các sự việc, thay vì phải đi mời một luật sư ở tận Los Angeles đến đây gây biết bao bất tiện cho ông ta, để trả lời một loạt câu buộc tội do một phụ nữ đã tìm đường bôn tẩu bịa ra như vậy?
Halder nói với Mason:
- Làm cách nào mà chính ông lại phát hiện ra vụ rút tiền ở ngân hàng và chuyện cô Mabel Norge đã mất tích?
Mason hỏi lại:
- Sao ư? Tôi không có quyền hay biết chuyện đó sao?
- Không ai hay biết cả. Đó là một bí mật được che giấu rất kỹ. Tôi đã bảo nhân viên của tôi không được tiết lộ với ai cả.
Mason nói:
- Trời đất. Tôi lại nghĩ là chuyện này đã lộ rõ ngay từ phút đầu cơ. Hãy cứ theo sát toàn bộ sự việc diễn biến thì thấy.
- Nếu đã như vậy... cứ theo lời tuyên bố của ông... thì lập trường của ông là cho rằng chẳng có án mạng nào cả sao?
Mason nói:
- Án mạng? Ai bảo rằng có một án mạng?
- Ông bác sĩ nói là ông ấy đã chết.
- Còn nhân chứng thì lại cho là cái xác trèo qua cửa sổ.
Halder cắn môi. Mason nói:
- Như thế này thì cần phải làm rõ chuyện thôi. Lúc nãy ngài cố tình giấu tôi nguồn tin này phải không?
- Tôi chỉ không công bố tin ấy thôi.
- Ngài cố tình không cho tôi phát hiện gì về chuyện này chứ gì?
- Ấy, nếu ông muốn nói vậy thì cũng đúng thôi.
Mason nói:
- Theo tôi, trong trường hợp như thế này, thì tôi có mặt ở đây để ra sức cộng tác với ngài như vậy cũng đã khá lâu rồi, tôi xin chính thức tuyên bố là tôi không còn gì để nói nữa. Tôi đã bộc trực trả lời các câu chất vấn của ngài. Tôi đã dành cho ngài gần một tiếng đồng hồ rồi đấy.
- Đâu mà lâu đến thế.
- Thôi được, thì cũng khá lâu rồi. Dù thời gian cho ngài che giấu tình huống sự việc khá kỹ. Tôi xin quay trở về văn phòng của tôi.
- Ông không thể rời khỏi địa phương này cho tới khi nào ông được phép rời.
- Làm quái gì mà tôi không đi được. Hãy tìm cách ngăn cản tôi đi.
- Tôi có rất nhiều cách để ngăn cản ông.
- Hãy cứ làm thử đi. Tới sáng mai thì mặt ngài sẽ đỏ như tôm luộc cho xem.
Perry Mason gật đầu ra hiệu cho Della Street ra khỏi phòng, để lại đằng sau một đám người hơi sững sờ đang vội vàng tụ lại với nhau để hội ý.
Các phóng viên nhà báo xúm quanh Mason khi ông vừa bước ra.
- Sao, có chuyện gì vậy?
Mason cẩn thận đóng cửa lại, tươi cười và nói:
- Theo chỗ tôi biết thì ngài biện lý đã có nói với quý vị là ông ta sẽ ra công bố sau cuộc phỏng vấn để cho quý vị biết mọi tin tức. Nếu quý vị cứ đi vào mà phỏng vấn thì tôi chắc ông ta sẽ vui lòng trả lời, còn trong hiện tình thì tôi thích cứ để cho ông ta làm việc này hơn.
Bắt gặp ánh mắt của nhà phóng viên tạp chí Oroville Mercury, Mason nháy mắt với người này.
Đám phóng viên mở cánh cửa văn phòng và nhào vào phòng trong.
Pete Ingram đến gặp Mason, hỏi:
- Êm đẹp cả chứ?
Mason nói:
- Cho chúng tôi lên xe anh và ra khỏi phi cảng nhanh lên. Dọc đường tôi sẽ nói hết.
Ingram nói:
- Đi lối này.
Họ cùng bước vội ra khỏi văn phòng Quận trưởng. Chiếc xe của Ingram đỗ tại khúc quanh. Mason nói với anh ta:
- Gọn lẹ nhé.
- Có chuyện gì nào? - Ingram vừa hỏi vừa rồ máy.
Mason nói:
- Hoàn toàn là một cuộc phỏng vấn. Anh có nghe gì về cuộc phỏng vấn này không?
- Chỉ được biết là cuộc phỏng vấn diễn ra khá lâu, tôi có nghe hơi lớn tiếng rồi gần chót thì bắt đầu nghe to tiếng giận dữ. Rõ ràng là cuộc phỏng vấn bắt đầu bằng khúc nhạc êm ái thuận hòa nhưng kết thúc bằng âm điệu chua cay.
Mason nói:
- Cuộc phỏng vấn được thu băng. Tại sao anh không đòi...?
- Đâu có dịp may nào. Thậm chí ông ấy còn không chịu nhận là có thâu băng nữa kia.
- Thôi, để tôi lái cho. Anh cứ nêu câu hỏi và ghi chép, còn tôi thì trả lời, bởi vì khi vừa tới phi cảng thì chúng tôi bay đi ngay.
Người phóng viên dừng xe lại, mở cửa rồi chạy vòng để vào phía bên kia. Mason chuồi mình sang giữ tay lái, nói:
- Được rồi, bắt đầu đi.
Ingram hỏi:
- Sự việc diễn ra thế nào?
Mason nói:
- Trước tiên, viên biện lý tuyên bố cuộc phỏng vấn sẽ có tính chất nghiêm túc, vì thế sẽ được tiến hành trên nền căn bản đó. Mỗi lần ông ta hỏi một câu, chẳng hạn cứ nhắc đến ngôi nhà ở Paradise như thể là nhà của Ed Davenport, thì tôi lại tranh luận về vấn để quyền sở hữu ngôi nhà ấy.
- Trên căn bản nào?
Mason khái quát vấn đề đã được đem ra thảo luận, sau đó tiếp tục đi vào chi tiết trong lúc cho xe đến phi cảng, để cung cấp cho Ingram một bảng tóm lược đầy đủ về cuộc phỏng vấn.
Tại phi cảng, Mason và Della Street bước xuống xe và tiến về phía chỗ viên phi công đang nghe máy thu thanh. Mason nói:
- Xong rồi. Chúng ta hãy đưa cuộc trình diễn văn nghệ này lên đường.
Viên phi công nói:
- Liền ngay thôi. Này, các vị có nghe đài đưa tin mới xảy ra không?
Mason hỏi:
- Về chuyện gì vậy?
- Ông đang quan tâm đến vụ án ở Fresno. Họ đã tìm thấy cái xác đó rồi.
- Xác của ai?
- Của ông Davenport bị bà vợ giết ấy mà.
- Xác tìm thấy ở đâu?
- Chôn dưới một cái huyệt cạn ở ngoài Crampton, chừng ba bốn cây số. Họ bảo đó là xác của Davenport. Xác mặc bộ đồ ngủ có chấm hay hình màu đỏ. Mới tìm thấy cách đây vài phút thôi. Hiện vẫn còn đang đào. Hãng thông tấn đưa tin qua đài.
Mason thoáng đưa mắt nhìn Ingram. Ingram cười. Mason nói với viên phi công:
- Hãy cho máy bay nóng máy và làm thật nhanh. Khi nào chạy được thì cho ra bãi ngay. Đến cuối bãi, hãy cho nổ các động cơ rồi cất cánh liền. Cứ việc bay, dầu cho có ai cố tình ngăn cản. Lẹ lẹ nhé. Đi thôi. Thêm một trăm tiền thưởng nếu bay đi trước khi có người ra chặn chúng ta.
Họ cùng leo lên máy bay. Viên phi công mở các động cơ, vài giây sau từ từ lái máy bay chạy xuống tận đằng cuối bãi và tại đây anh ta đảo máy bay vòng lại, cho nóng máy các động cơ.
Mason chồm tới trước và nói to trong tiếng máy nổ rền:
- Thế nào? Sẵn sàng bay chưa?
- Vài giây nữa thôi.
- Có một chiếc xe đang chạy vào kìa. Tôi muốn bay trước khi nó đến kịp. Không trì hoãn gì cả.
- Ồ, hắn đang dừng lại ở đó để...
Mason nói:
- Hắn đâu có dừng.
- Thì tôi cũng đâu có dừng. - Viên phi công vừa nói vừa cho các động cơ đồng loạt nổ rền.
Máy bay bắt đầu lướt theo bãi.
Chiếc xe kia đảo lại cho các đèn pha chiếu thẳng ngang đường chạy của máy bay. Một ngọn đèn chiếu tập trung màu đỏ bật sáng rực và một hồi còi inh ỏi rú lên. Viên phi công vừa cười vừa nhẹ nhàng cho các bánh dưới thân máy thu lại để rời khỏi mặt đất. Anh ta nói:
- Mấy cái động cơ này kêu ầm ĩ quá sức khiến lúc cất cánh khó mà nghe được cái gì nữa. Chừng một phút tôi nghe như có tiếng còi.
Mason nói với anh ta:
- Tôi chẳng nghe gì cả.
Viên phi công hỏi:
- Quay trở lại Sacramento chứ?
Mason đáp:
- Khỏi. Đến Fresno. Sẽ rất hợp ý tôi nếu anh thả tôi xuống đó mà chẳng cần đăng ký phương án bay, làm thế để không ai biết là chúng ta đáp xuống đâu cả.
- Ông không cần đáp xuống Sacramento?
Mason nói:
- Cứ bay vượt qua Sacramento, càng cao càng tốt.