Tôi “thả” râu tự do cả năm nay, không thèm cạo, bởi lòng không còn muốn chăm chút khuôn mặt mình, nhưng tóc lâu lâu cũng phải đi hớt cho mát đầu, bớt ngứa. Có hớt tóc, tôi cũng đến hớt chỗ chú thợ đường Bà Triệu. Đó là một tiệm hớt tóc nhỏ, không bảng hiệu nhưng đặc biệt sạch sẽ, ngăn nắp. Chiếc ghế, cái kéo, cây tông đơ, xà-bông cạo, tấm gương... và cả tay nghề của chú đều chất lượng
Lúc này, tôi xem đồng hồ đúng 10 giờ sáng. Còn một tiếng rưỡi đồng hồ nữa, còi của tỉnh mới hụ báo mãn giờ làm việc, hớt xong tóc vẫn thừa thời gian nên tôi rất yên bụng. Sở dĩ tôi phải cẩn thận tính toán thời gian như thế, vì chú thợ hớt này rất ư là nguyên tắc. Còi tỉnh hụ báo mãn giờ, lập tức chú nghỉ lao động mặc dù chú không làm việc Nhà nước. Rất nhiều người lạ chưa biết “tật” nguyên tắc của chú nên nhiều phen dở khóc dở cười. Có người khách không biết “tật” này của chú, vào hớt hơi muộn, chú vẫn hớt như thường lệ, vì còn trong giờ làm việc. Chú cầm tông đơ ủi vào da đầu ông ta một đường trắng hếu như xa lộ xuyên qua rừng tóc, thình lình tai nghe còi tỉnh hụ báo hết giờ lao động, lập tức chú ngừng ngay, cất tông đơ, tháo khăn choàng ra khỏi cổ khách. Chú lễ phép, nói: “Xin lỗi ông anh. Hết giờ làm việc. Chịu phiền về nghỉ, 2 giờ chiều em hớt tiếp. Thông cảm nhá. Đây, em cho mượn cái mũ. Đội vào không ai biết gì cả”. Đấy, đấy,  nên tôi phải tính toán thời gian là vì vậy.
Tôi khoan thai bước vào tiệm hớt, ngồi ngay vào ghế đệm. Chú thợ hớt thấy tôi râu ria nhiều quá, liền bảo:
“Ông anh có ý định dưỡng râu thì phải chăm sóc cẩn thận chớ. Bỏ thí như thế này, không có bàn tay con người động vào, rõ ràng không ổn. Um tùm, rối beng, coi hoang phế quá. Muốn thế, xin ông anh đừng bận tâm về râu của mình. Cứ nửa tháng ông anh không hớt tóc cũng tạt vào đây, em sẽ chăm sóc bộ râu cho, như thế râu sẽ ra râu, ria sẽ ra ria, nghĩa là rất hoành tráng, đường bệ”.
Nghe thế, tôi cười... Lập tức, thấy một ông râu ria ở trong gương cũng cười. Tôi lại cười cái ông trong gương, ông ta cũng lại cười trả lễ. Dường như ông ta không phải người của thời hiện đại, nhưng cũng không đến nỗi nào. Tôi dựa lưng vào ghế, khoan khoái nói với chú thợ đang loay hoay cột chiếc khăn trắng vào cổ:
“Nếu được vậy, tốt quá. Cảm ơn chú. Từ nay, râu ria tôi giao hẳn cho chú đấy”.
Chú thợ xoạt xoạt chiếc kéo trong không khí, âm thanh nghe vui tai. Đó là quán tính nghề nghiệp, hễ cầm đến chiếc kéo, chú phải “xấp xấp” tía lia như vậy:
“Dạ, để đấy em lo. Chăm sóc râu không phải chuyện dễ. Ngạn ngữ nước Nga có nói: “Cạo râu là xóa hình ảnh của Thượng đế”, thế nên râu cần phải được bảo trì, chăm dưỡng bởi một tay chuyên nghiệp. Mà em... ông anh đã biết tay nghề rồi đấy. Ồ, tóc ông anh bị hói quá nhiều. Chú  dùng mũi kéo kỳ cọ vào mảng da đầu hói của tôi nghe lạnh ngắt, đoạn nói tiếp - một triệu chứng của thông minh đang lan rộng xuống vành tai và gáy”.
Tôi che miệng ngáp một cái. Nghe nói đầu mình bị hói là tôi phải ngáp một cái. Ngáp chán chường về mình vì “Trên đầu già đến rồi”. Còn nhớ tóc mình hồi trung niên dày lắm, cứ dày bịt, cứng như đinh. Thời gian và hàm răng cá sấu của nó không tha cái gì. Đến cả cái tóc nó cũng xơi tái, nhưng dường như râu nó không dám xơi. Điều này kể cũng lạ. Tôi liền hỏi chú thợ hớt:
“Chú này, tóc tôi cứ thưa dần rồi phủ trọc, nhưng râu càng ngày càng sum suê, mạnh mẽ là nghĩa lý gì? Có vấn đề gì không?”.
Chú thợ hớt bỏ chiếc kéo, với lấy chiếc tông đơ điện, nói:
“Điều này dễ hiểu. Nhà văn Giả Bình Ao bên Trung Quốc có giải thích, đại ý: Tóc không mất đi đâu cả, do đầu bị hói, nó mọc lên đỉnh đầu không được, buộc nó phải đâm xuống cằm, thế nên râu mới rậm dần. Cái râu cái tóc là góc con người, nhưng xem ra râu có hậu vận thịnh vượng hơn tóc. Thế nên, đặc biệt ở ta, trong ngôn ngữ phải nói trật tên cúng cơm của râu, cho râu khỏi bệnh đau, cho râu được mạnh giỏi, trường tồn”.
Chú hớt tóc hạ chiếc ghế ngả ra sau một chút, tôi ngả lưng, duỗi chân:
“Chú nói, tôi chẳng hiểu gì cả?”.
Tôi nghe tiếng  chiếc tông đơ điện chạy re re hai bên mang tai. Chú thợ hớt lại nói:
“Dễ hiểu thôi mà, ông anh. Ví như, râu mọc từ hai mang tai tấn công tùm lum xuống quai hàm và cằm, nom cứ như dân Tây hay dân Ả Rập Xê-Út, ngoại lai bỏ mẹ, thế mà lại gọi cái tên cực kỳ bản sắc truyền thống dân tộc là “Râu quai nón”. Còn râu chích bẹt ra hai bên mép, vểnh trét lên, trông đểu và hắc ám, lại có cái tên rất chất phác nhà quê là “Râu ngạnh trê”. Quai nón, quai thao, ngạnh trê, ngạnh lóc... cái quái gì? Dạng râu ông anh là râu Tây chính ngạch, không phải râu Ta, loại này quý hiếm lắm. Ngạn ngữ xứ Ả Rập có nói: “Mỗi người làm chủ râu của mình”, như thế đủ biết râu cũng là một tài sản tầm cỡ đấy. Cần phải giữ gìn”.
“Thế à”.
“Ở bên nước Nga, có dạo Nga hoàng phải ban lệnh cấm toàn thể đồng bào không được để râu dài quá 1 thước. Ngài lo sợ cho dân râu dài quá một thước, rất có thể bị vấp râu mà té trong lúc đi...”.
“Thế à”.
“Ông anh có ngoáy tai không?”
“Thế à”.
“Được rồi, em sẽ ngoáy. Râu là biểu tượng của sự khôn ngoan và thông thái, thế nên ông anh đừng cho nó rối chằng rối chịt nhé. Ông anh nên mua một chiếc lược nhỏ xíu, có gắn que giắt túi mạ vàng, trông cứ như cây bút máy, mà chải râu cho suôn sẻ, thẳng thớm. Được vậy, ông anh sẽ y như nhà thiên văn học Ga-li-lê xứ Ý Đại Lợi đã can đảm giữ vững lập trường rằng: Tuy vậy, địa cầu vẫn cứ xoay quanh mặt trời”.
“Thế à”.
“Đúng vậy, thưa ông anh. Những người giỏi giang thông thái phần nhiều râu ria rậm rạp cả. Điều này cắt nghĩa tại sao phụ nữ phần đông không ưa râu ria”.
Lúc này, chú thợ hớt dựng chiếc ghế dậy. Tôi tỉnh ngủ hẳn, tay lại che miệng ngáp một cái lê thê. Ồ, trong gương có một lão khác hẳn. Râu dài thòng nhưng đâu ra đấy, tóc tai gọn gàng sạch sẽ, thần thái sáng láng. Tôi hài lòng lắm. Tôi nhớ loáng thoáng lời nói của chú ta hồi nãy, liền hỏi:
“Vừa rồi chú nói câu gì?”.
“Phụ nữ đa số ghét râu ria”.
“Tại sao?”.
“Tại vì những người râu ria đều thông thái”.
Nghe vậy, tôi cười:
“Như thế, tôi thuộc dạng thông thái à? Lại bị phụ nữ không ưa à”.
“Chớ sao. Được cái này, mất cái kia. Mà ông anh làm nghề gì?”.
“Nhà văn”.
Chú thợ hớt tắt ngay tông đơ điện, giọng trầm trồ:
“Nhà văn à? Quá tuyệt!”.
“Tuyệt cái nỗi gì? Đói bỏ xừ!”.
Chú thợ hớt lại bật tông đơ điện, sửa tóc sau gáy:
“Đói của nhà văn khác đói của nhà nghèo. Nhà nghèo đói cơm, đói áo; nhà văn đói danh, đói tiếng. Ngài H. de Montherlant có nói: “Nhà văn không nuôi mình bằng thịt heo, thịt gà mà bằng lời ca tụng”.
Nghe thế, tôi nín thinh. Nhà văn quả là nghiệp báo. Đột nhiên, tôi nhớ đến tính nguyên tắc cứng ngắt của chú thợ hớt, tôi hỏi:
“Nay chú vẫn duy trì nguyên tắc còi hụ đấy chứ?”.
“Sao không? Còi vẫn còn mà. Đấy là nguyên tắc tốt, nguyên tắc đúng giờ. Tôi học được của thầy tôi đấy”.
Tôi ngạc nhiên:
“Thầy dạy hớt tóc à?”
Chú thợ hớt hăng hái:
“Không. Ông ấy là thầy dạy chữ hồi trung học, thầy tên Giàu, dạy văn. Đến tiết thầy Giàu giảng bài hay lắm, ví dụ thầy đang dự định nói đến hai tiếng tự do, nhưng vừa nói tiếng “tự” thì gặp lúc trường xổ trống hết giờ, thầy lập tức ngậm miệng lại ngay. còn tiếng “do” giờ đó tuần sau, thầy sẽ nói tiếp”.
Tôi xoay xoay cần cổ kêu rắc rắc:
“Ôi trời! Thầy trò ngang cựa. Nhưng mà này, thế “chuyện kia” chú cũng nguyên tắc vậy à?”
Chú thợ liền gắt:
“Chuyện “kia” xảy ra ngoài giờ lao động, cần chi nguyên tắc. Em góp ý ông anh nên thường xuyên gội râu, nếu không sẽ sinh bọ chét đấy”.
“Nhớ rồi. – Tôi liếc thấy có quyển Mái Tây trên mặt quầy, liền hỏi – Chú đọc sách của Vương Thực Phủ à?”.
Nghe vậy, chú thợ hớt đột ngột vui vẻ:
“Tuy sách là của Vương Thực Phủ nhưng Kim Thánh Thán có viết ké vào dưới hình thức “Lời dẫn truyện và bình”. Em chỉ đọc Kim Thánh Thán thôi”.
Tôi nói:
“Ông ta hay lắm đấy”.
Chú thợ hớt cười:
“Ông anh khen ngài Kim Thánh Thán văn hay chẳng khác nào khen Đức Phật là giỏi đạo đức”.
Tôi nín thinh. Chú thợ hớt hạ cốt ghế thấp hơn nữa. Tôi hoàn toàn nằm dài. Chú bắt đầu ngoáy tai. Chú không dùng cây ngoáy bằng kim loại mà chỉ dùng cây bông nhúng ướt để xoay tròn trong lỗ tai. Ngoáy như thế này rất an toàn cho tai. Tôi hài lòng lắm.
Chú thợ hớt nói:
“Ngày xưa, có lần ngài Kim Thánh Thán đi thi tú tài, đề mục thi viết bốn chữ. Bài của ngài như sau: “Xuất kỳ Đông môn, Tây Tử bất lai/ Xuất kỳ Nam môn, Tây Tử bất lai/ Xuất kỳ Tây môn, Tây Tử bất lai/ Xuất kỳ Bắc môn, Tây Tử bất lai/ Tây Tử lai hồ?/ Tây Tử lai hồ?”.
“Là sao?” – tôi hỏi.
Chú thợ đáp:
“Đi ra cửa Đông, Tây Thi không đến/ Đi ra cửa Nam, Tây Thi không đến/ Đi ra cửa Tây, Tây Thi không đến/ Đi ra cửa Bắc, Tây Thi không đến/ Nàng có đến không?/ Nàng có đến không?”.
Tôi nói:
“Bài văn lạ kỳ”.
Chú thợ lại nói:
“Thầy giáo chấm thi đọc thích quá, liền hạ bút phê:
 “Trí chi nhất đẳng, vô thị lý dã.
 Trí chi nhị đẳng, vô thị lý dã.
 Trí chi tam đẳng, vô thị lý dã.
 Trí chi tứ đẳng, vô thị lý dã.
 Tú tài khứ hĩ/ Tú tài khứ hĩ”.
“Là sao?’ – tôi lại hỏi.
Chú thợ đáp:
“Xếp bài hạng nhất, thật là vô lý.
 Xếp bài hạng nhì, thật là vô lý.
 Xếp bài hạng ba, thật là vô lý.
 Xếp bài hạng tư, thật là vô lý.
 Tú tài trượt rồi/ Tú tài trượt rồi”.
Tôi cười:
“Bài phê của giám khảo lại hay hơn bài của Thánh Thán”.
Chú thợ cũng cười:
“Thầy bắt chước nhại lại bài của trò đấy mà”.
Lúc này có một ông khách đi vào hớt tóc. Thấy ông ta vào, tôi liền nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình: 11 giờ 15 phút. Tôi thật sự lo cho ông ta, vì gần đến giờ còi hụ.
Chú thợ hớt dựng ghế thẳng đứng. Chú dùng khăn ướt lau mặt, rồi chải lại tóc và râu của tôi. Chú bóp bóp hai bả vai của tôi và nói cộc lốc:
“Xong”.
Tôi đứng dậy, ra khỏi ghế. Ông khách lạ liền ngồi vào. Tôi ái ngại nhìn ông ta, nhưng vẫn không nói gì. Tôi trả tiền và đi ra khỏi tiệm. Đột nhiên, tôi cảm thấy tội nghiệp ông khách quá chừng, chắc chắn ông ta sẽ được chú thợ hớt cho mượn cái mũ mà đội về, vì tóc hớt dở dang...

Xem Tiếp: ----