Kỷ niệm một thời nội trú ở trường Nữ Trung học xưa nhất miền Nam Việt nam
Kết quả cuộc thi tuyển vào lớp một Trung học đệ nhất cấp vừa được niêm yết là phụ huynh học sinh ở 21 tỉnh miền Nam bấy giờ vội vã nộp đơn xin cho con vào nội trú. Thời kỳ nầy, quan niệm ‘nam nữ thụ thụ bất thân’, tên còn nam Văn, nữ Thị, huống hồ trường đào tạo những mầm non trí thức khoa bảng tất phải phân định rõ ràng theo truyền thống nước nhà. Trường Việt dành riêng cho nữ sinh miền Nam nổi tiếng nhất dưới thời kỳ Pháp thuộc nầy là ‘Collège Gialong’ dạy từ năm thứ nhất đến năm thứ tư, trước kia còn gọi nôm na là trường Áo tím.
Nhớ lại những năm củi quế gạo châu, Nhật thiếu chất đốt dùng lúa thay dầu, than đước, cưởng bức dân ta trồng bông vải thay bắp khoai. Miền Bắc trên một triệu người chết đói, ngay cả ở ‘’vựa lúa’’miền Nam, dân nghèo phải dùng bao bố tời che thân. Niên học nầy, có lẻ ảnh hưởng sâu đậm của hậu thế chiến thứ hai thắt lưng buộc bụng, đồng phục học sinh không là áo dài mà áo ngắn trắng, quần dài có thể trắng hoặc đen. Hiệu trưởng là bà Dubois, vị Hiệu trưởng Pháp cuối cùng của trường. Giám thị hầu hết là Việt như cô ba Trí, cô ba Liễu, cô tư Hạnh, cô năm Hoằng,...và độc nhất một cô Pháp chính cống mà học sinh gọi là ‘cô ba Chệt’. Ðây là trường công lập, trúng tuyển vào học miễn phí hoăc được cấp học bổng nên cuộc thi tuyển thật khó khăn.
Các tỉnh miền Nam thời trước đâu có nhiều trung học như ngày nay, ngay cả trường dành riêng cho nam sinh cũng ít, huống hồ cho các cô gái. Ông bà ta quan niệm phái yếu ‘khuê môn bất xuất’, không thích cho con gái học cao, có lẻ vì phải đi xa, bất trắc khó lường, không kiểm soát bảo vệ được nên thường lập luận ‘‘con gái biết chút ít chữ nghĩa là đủ rồi, học nhiều mà làm chi,...chỉ để viết thư cho mèo, nguy hiểm lắm’’. Óc ‘tang bồng hồ thỉ’ xuôi ngược dọc ngang, đi học ‘’dài lưng tốn vải ăn no lại nằm’’ thường dành riêng cho nam nhi chi chí. Thời điểm nầy, dù có cởi mở chút ít rồi, nhưng vẫn còn hạn chế, không phải thành phần xã hội nào cũng đủ tài chánh để lo cho con cái đuợc.
Mừng là còn được tiếp tục học nhưng nghĩ phải xa nhà, tôi cảm thấy vừa lo âu, nôn nả, luyến tiếc vì lần đầu tiên rời gia đình, bạn bè quen thuộc. Nhìn mẹ bận rộn sắm sửa theo chỉ dẫn qui định của trường, năm bộ đồng phục, mền mùng chiếu gối, giày guốc,... tất cả đều mang số (tôi 36, Vỏ thị Mầu 35, Nguyễn thị Hạnh 34), tôi lửng thửng ra hành lang nằm chèo queo trên võng chẳng buồn đưa. Nhìn ra vườn, cây sơ ri đơm bông tím nhỏ lốm đốm vài chùm trái đỏ vàng xanh, cây táo sum suê, mỗi lần gió thổi lá vàng bay rơi rơi cùng bao quả rụng. Trước đây, không bao giờ tôi bỏ lỡ cơ hội nầy đâu, thế nào cũng vội chạy ra lượm nhanh trái táo chua chua dòn rụm, chùi sơ sơ vào áo, rồi nhanh như cắt chạy tìm đĩa mắm tôm chà mẹ phơi nắng trên nắp lu nước mưa ngoài trời, quệt lén một chút, ngon ơi là ngon!
Ðêm đầu tiên nhập nội trú, tôi nhớ nhà quá khóc rưng rức làm cô tư Hạnh giám thị đến hỏi thăm:
’’ Bịnh hả? Có chuyện gì vậy?’’.
Sợ quá mếu máo trả lời:
’’Em nhớ má em quá cô ơị’’
Cả ‘dortoir’ cười rộ và từ đó tôi nổi danh’’mít ướt’. Về y phục, má tôi cẫn thận chuẩn bị trước thời kỳ ‘trổ mã’ của con gái nên mẹ tôi may ba bộ thật vừa vặn, hai bộ phòng hờ. Ðến đây quả là ‘’mưu sự tại nhân thành sự tại’’... nhân viên. Vì sau khi giặt ủi xong, phân phối lại, có khi cũng bộ đồ nhưng quần nầy áo nọ. Có lần tôi mặc phải áo ‘tương lai’ của tôi rộng thùng thình, dài gần tới đầu gối, tay dài như ‘trò lễ’ xăng lên hai cuộn vẫn còn dài cùng với chiếc quần cao khỏi mắt cá. Ngược lại, đôi khi quần quá dài, may là bấy giờ còn dùng giây lưng vải nên lắm lúc không tài nào xắn ống cao được nữa, đành phải kéo lên đến nách buộc thắt nút dễ dàng.
Trên 50 năm, tôi vẫn còn nhớ hai chị nằm cạnh, chị Bùi thi Tuyết Mai, em gái Bùi thị Tuyết Hồng (Cần thơ) cùng lớp và Huỳnh thị Ngà (Bến tre), Ngoài ra còn có các chị Trần thị Kim Tiếng, Nguyễn thị Chính (Vĩnh long). Trần Mỹ Dung (Gò dầu hạ, Tây ninh), Nguyễn thị Bạch Hồng (Cần giuộc), chị Ðông Ba ( Huế ), chị Khương (Vĩnh long)... Niên khóa nầy còn có Quách Thanh Tâm, Nguyễn thị Hạnh (Gò công), Phạm ngọc Diệp (Vĩnh long), Khưu thị Ngọc Sang (Bạc Liêu), Nguyễn thị Yến (Bình Chánh), Vỏ thị Mầu(Gò công)...
Kỷ luật lúc bấy giờ khá khắt khe, học sinh thường cho là độc đoán, bất công. Sợ trực tiếp là các giám thị, đại diện quyền uy, phạt nhiều thưởng ít, nhất là phê hạnh kiểm, ‘consigne’, chúa nhật không cho phép giám hộ rước ra. Tuyệt đối cấm không được mở cửa sổ lầu quay ra phía đường Legrand De La Liraye, người đi rước không thể là cậu trai trẻ đại diện. Mỗi chiều, 5giờ có bán bánh mì ‘baguette’, ai mua trước thì còn, chậm chân thì hết, nhịn chờ cơm tối. Sau đó là phát thơ. Tin nhà thì nhận được, chứ tin khác thì khó qua lọt sự kiểm duyệt gắt gao của văn phòng.
Có sống chung nhau, cá tính mới dễ lộ rõ, tốt có xấu có. Câu ‘’nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò’’được thể hiện qua hỗn danh gán ghép ‘vô tội vạ’ vào khuyết tật của cô nào ít được lòng học sinh như cô ba Lép, cô ba Chệt’. Thật sự, trên đời, không ai hoàn toàn cả, thế mà phê phán chê bai, dù biết rằng vô căn cứ đi chăng nữa, vẫn có người thích nghe, phổ biến.
Niên học nầy còn đánh dấu nhiều biến chuyển quan trọng. Lần đầu tiên, nữ sinh nội trú đã làm reo, tuyệt thực, khóa phòng ngủ, nhốt giám thị, đả đảo Ban Giám đốc, mặc tình cho bà Dubois Hiệu trưởng đến từng nơi kêu gọi mở cửa, vô hiệu. Cũng năm nầy, leo rào cổng chính đi biểu tình đến tận dinh Phó Thủ tướng Trần văn Hữu đường Gia long, bị giải tán bằng ma-trắc dùi cui, lựu đạn cay chạy rã hàng đến chợ Saigon. Hậu quả trường bị đóng cửa, học sinh nghỉ học.Tiếp đến là Phong trào Sinh viên, Học sinh vùng lên, rồi cái chết của anh Trần văn Ơn với đám táng đông đảo nhất qui tụ mọi thành phần dân chúng làm chính quyền lung lay. Từ đấy, mấy năm liên tiếp, không còn nội trú vì đấy là nơi tập trung lực lượng trẻ trí thức miền Nam dễ gây bạo động chống chính phủ, chế độ.
‘Ðèn nhà ai nấy sáng’, trường ai nấy bảo vệ uy danh. Thế nên, trong những lần rảnh rang tán gẫu, nhiều ý kiến bàn về tên trường Gialong. Ðây là Nữ Trung học, hơn thế nữa, trong quá trình lịch sử ta đâu thiếu anh thư, mẫu nghi, thi sĩ, thế mà miền Nam có Gialong, miền Trung có Ðồng Khánh!!!
Nhớ thời kỳ ‘’tù có số’’ thích nhìn những cây mít trong sân, thèm thuồng mong đợi’’dái mít’’ lố nhố đầy cành, rồi đến quả tòn teng bám thân cành nồng thơm nặng trĩu. Làm sao quên được hàng cây cao rợp lá dọc hai bên đường chính như hàng rào danh dự. Ngày chúa nhật, vào trưa vắng học sinh, chờ chị phụ bếp đi về đội một vừng cơm cháy chảo vàng khếu, thoa muối mỡ hành như chiếc nón bài thơ trở ngược, nữ sinh bao quanh ‘xin’ miếng ngon dòn. Ai mua được, chia bạn bè người một tí, ‘’của ít lòng nhiều’’, bầu bạn xẻ chia. Có lần mẹ gởi mạch nha lên, dù không có bánh phồng, tay thắm nước, rao ‘kẹo kéo đây ’vừa mềm vừa ngọt. ‘’Sống lâu hơn ở sạch’’, mút tay cho thật kỹ, nước miếng cũng là thứ sát trùng thôi.
Lưu bút phai màu, album sờn bìa được lần giở lại, gương mặt ngày xưa sao mà lạ hoắc, dễ thương. Có những bức ảnh buồn cười mình từng chê dấu kỹ, nay nhìn lại sao mà nhắc gợi mình bao kỷ niệm khó quên. Chữ viết gò nắn nót lồng trong khung trang trí trình bày bằng nét vẽ tim hoa cành lá, mỗi người mỗi vẻ diễn tả ý tình riêng. Sâu đậm nhất là thời kỳ nội trú, sống cạnh nhau, chia xẻ lo sợ vui buồn, rèn luyện như thép được tôi ròng. Bây giờ, con đàn cháu đống, tóc bạc da nhăn hay còn son giá, dù ở hoàn cảnh nào đi chăng nữa, lâu lâu, phim kỷ niệm bất chợt chớp hình phóng ảnh bồng bềnh, chuỗi ngày nội trú vẫn là khoảng thời gian trui luyện tập tành công hiệu nhất của một thời tươi trẻ hồn nhiên.
Trần Thành Mỹ

Xem Tiếp: ----