Sống giữa hệ lụy trần gian đầy dẫy ma chướng; giáo lý của đấng Thế Tôn vẫn đủ khả năng thù thắng siêu việt - bạt nghiệp chướng xóa phiền não trong đời sống của người thành tâm cầu đạo giải thoát. Giáo lý mãi mãi vẫn là nguồn năng lực phấn đấu, sinh động tiềm tàng trong bốn mươi tám ngàn pháp môn, trong Tam Tạng kinh điển, châu liên ngọc kết - nâng nhẹ những tâm hồn, khai sáng những trí tuệ ở hầu hết các trình độ, giai cấp dân gian chỉ có pháp môn Tịnh Độ là được phổ cập nhất.
Kinh điển căn bản kết tập là châu ngọc của đấng Thế Tôn đầy đủ nghĩa lý chân thật khiến tâm thức con người đạt tới cảnh giới trang nghiêm, thanh tịnh, thấy cõi Phật sinh động hữu tình trước mắt mà khởi sinh trí tuệ từ bi chính là Kinh Vô Lượng Thọ.
Lời châu ngọc Thế Tôn chúc lũy cho chúng sinh ở thời kỳ mạt pháp trong Kinh Vô Lượng Thọ đã diễn đạt công năng tu tập của ngài Tỳ Kheo Pháp Tạng (chính là hiện thân của đức Phật A Di Đà) với 48 đại nguyện hóa độ chúng sinh vào những cảnh giới an vui, giải thoát, đã thể hiện thật rõ ràng chất nhân bản vượt thoát sự vây bủa của các ngẫu kiện phi lý, gột sạch ái nhiễm trần cấu bằng tâm thanh trịnh và trí quán xét minh mẫn nhằm hướng dẫn tâm thức tham đắm mộng huyễn trở về bản chân thanh tịnh, phá lưới vô minh và thực hiện cảnh giới như tâm nguyện.
Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng đã tận tâm phiên dịch từ bản Nho văn của ngài Khang Tăng Khải ra Việt ngữ, nhằm triển khai nghĩa lý vi diệu, duyên khởi trí tuệ quang minh và đức hạnh thâm mật cho hàng giả trong việc trì tụng kinh này.
Tôi nhận thấy sự hoan hỉ lạ lùng phấn chấn trong tâm hồn mình sau khi đọc toàn bộ kinh Vô Lượng Thọ mà Hòa Thượng đã trao cho tôi (niềm giao cảm thanh thoát này có chăng là do sự cố gắng chuyển ngữ của Hòa Thượng) vì không có phương diện ấn tống (hành) nên Hòa Thượng đã yêu cầu tôi phổ biến đến quảng đại Phật tử, nhằm khuyến hóa sự tu dưỡng tâm thức và bổ sung kinh điển trong phương trượng của thập phương đáp ứng nhu cầu hoằng pháp trong hoàn cảnh hiện tại.
Tôi mong cầu và hy vọng quý vị cũng sẽ phát tâm khuyến hóa góp phần công đức ấn tống và phổ biến kinh Vô Lượng Thọ, khai thông sâu rộng hơn nguồn nước từ bi đến những tâm hồn khao khát cuối cùng.
Nam mô A Di Đà Phật tác đại chứng minh.
Sa môn Thích Minh Phát
*
Nghi thức Lễ Tụng Lễ Tam Bảo Hết thảy cung kinh,
Nhất tâm đảnh lễ Tam Bảo thường trụ khắp pháp giới mười phương. (3 lễ)
Nguyện Hương (Quỳ chấp tay đọc)
Nguyện hương này như mây
Bay tỏa khắp mười phương
Trong vô biên cõi Phật
Hóa vô số diệu hương
Năm thứ hương thơm ngát
Trang nghiêm để cúng dường
Trọn đủ Bồ Tát Đạo
Thành tựu Như Lai hương
(Vừa lễ vừa đọc)
Cúng dường rồi, hết thảy cung kinh,
Nhất tâm đảnh lễ Tam Bảo thường trụ khắp pháp giới mười phương. (1 lễ)
Tán Phật (Đứng chấp tay đọc)
Sắc thân Như Lai đẹp
Thế gian không ai bằng
Chẳng sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ
Tướng Phật đẹp vô cùng
Trí tuệ Phật cũng thế
Tất cả pháp thường trụ
Vì thế con quy y
Trí lớn nguyện lực lớn
Độ khắp cả quần sinh
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sinh sang nước mát vui
Nay con sạch ba nghiệp
Quy y và lễ tán
Nguyện con cùng chúng sinh
Đồng sinh về Tịnh Độ.
Úm phạ nhật la vật (3 lần)
Cửu bái Tây phương (Vừa lễ vừa đọc)
Nhất tâm đảnh lễ Phật A Di Đà, thân diệu pháp thanh tịnh, ở cõi Thường tịch quang, cùng khắp pháp giới chư Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Phật A Di Đà, thân tướng hải vi trần, ở cõi Thật báo trang nghiêm, cùng khắp pháp giới chư Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Phật A Di Đà, thân tướng nghiêm giải thoát, ở cõi Phương tiện thánh cư, cùng khắp pháp giới chư Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Phật A Di Đà, thân căn giới đại thừa ở cõi An Lạc phương Tây, cùng khắp pháp giới chư Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Phật A Di Đà, thân hóa vãng thập phương, ở cõi An Lạc phương Tây, cùng khắp pháp giới chư Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ, ba kinh Giáo, Hành, Lý, tuyên dương cả giới Chính, ở cõi An Lạc phương Tây, cùng khắp pháp giới Tôn Pháp. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm, thân tử kim muôn sắc, ở cõi An Lạc phương Tây, cùng khắp pháp giới Bồ Tát. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ Thánh chúng trong hải hội thanh tịnh, thân nghị nghiêm mãn phận, ở cõi An Lạc phương Tây, cùng khắp pháp giới Thánh chúng. (1 lễ)
Nay con vì khắp cả bốn ân, ba cõi pháp giới chúng sinh, nguyện dứt bỏ hết ba chướng, quy mệnh sám hối. (1 lễ)
Sám hối (Quỳ chấp tay đọc)
Đệ tử chúng con là... (hoặc kỳ vì hương linh là...) xin chí tâm sám hối.
Đệ tử con là... và chúng sinh trong pháp giới, từ đời vô thủy đến nay, bị vô minh che lấp, dáo dở mê lầm. Lại do sáu căn ba nghiệp, tập theo pháp chẳng lành, gây ra nhiều tội trong mười điều dữ, năm tội vô gián và tất cả tội khác, vô số vô biên, nói không thể hết. Mười phương các đức Phật, thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương báu đầy ắp, vị pháp ngập tràn, buông ánh sáng sạch, soi thấu tất cả, lý nhiệm thường trụ, đầy khắp hư không.
Con từ vô thủy đến nay, sáu căn mù mịt, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết. Vì nhân duyên ấy, trôi mãi trong vòng sinh tử, trải qua các nẻo luân hồi, trăm ngàn muôn kiếp, không hẹn ngày ra. Trong kinh nói rằng: "Đức Tỳ Lư Giá Na, hiện thân khắp cả chỗ", chỗ của đức Phật ở gọi là Thường Tịch Quang; vậy nên phải biết, tất cả các pháp, đều là Phật pháp. Song con chẳng rõ, lại theo giòng vô minh; thế nên ở trong trí giác ngộ, mà chẳng thấy thanh tịnh, ở trong cảnh giải thoát mà dấy lên ràng buộc. Nay mới thức tỉnh, nay mới đổi bỏ. Cung kính đối trước chư Phật và đức A Di Đà Thế Tôn, tỏ bày sám hối; cầu xin cho con cùng pháp giới chúng sinh, tất cả tội nặng, do ba nghiệp sáu căn, từ đời vô thủy, hoặc đời hiện tại, hay đời vị lai gây nên; hoặc chính mình gây, hay sai người khác gây; hoặc thấy, nghe, người gây mà mình vui theo; hoặc nhớ, hay chẳng nhớ; hoặc biết, hay chẳng biết; hoặc nghi, hay chẳng nghi; hoặc che giấu, hay chẳng che giấu; đều xin được trong sạch hết cả.
Con sám hối rồi, sáu căn ba nghiệp, sạch không lầm lỗi, căn lành tu được, cũng đều trong sạch, hết để hồi hướng, trang nghiêm Tịnh Độ, khắp cùng chúng sinh, đồng sinh về nước Cực Lạc.
Nguyện xin đức Phật A Di Đà, thường lai hộ trì, khiến căn lành con hiện tiền thêm lên, chẳng mất nhân tốt; tới giờ mệnh chung, thân an niệm chính, trông, nghe rõ ràng; trước mặt thấy đức A Di Đà cùng các thánh chúng, tay cầm đài hoa, tiếp dẫn độ con, chỉ trong giây phút, sinh ở trước Phật, trọn đạo Bồ Tát, độ khắp chúng sinh, đồng thành Phật đạo. (vừa lễ vừa đọc)
Sám hối, phát nguyện rồi
Quy mệnh kính lễ đức Phật A Di Đà cùng hết thảy Tam Bảo. (1 lễ)
Tán hương (ngồi kiết già tụng)
Lư hương vừa bén chiên đàn
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu cát tường
Chư Phật thấy biết ngọn hương chí thiền.
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phúc liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
Chú sạch khẩu nghiệp Tu lị tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, tát bà ha. (3 lần)
Chú sạch thân nghiệp Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha. (3 lần)
Chú sạch ba nghiệp Án, sa phạt bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
Chú yên thổ địa Nam mô tam mãn đá một đà nẫm, độ rô độ rô, địa vĩ tát bà ha. (3 lần)
Chú phổ cúng dường Án, nga nga nẵng, tam bà phạ, phiệt nhật la hộc. (3 lần)
Kệ khai kinh Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu,
Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu.
Con nay nghe thấy, xin trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa thật sâu.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
*
Kinh Tâm Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, khi tu hành tinh thâm pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ thoát hết thảy khổ ách.
Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, thành, thức, cũng lại như thế.
Này Xá Lợi Tử! Cái tướng chân không của các pháp ấy, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt.
Bởi thế, trong chân không ấy, không có sắc, không có thụ, tưởng, hành và thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có sắc, thanh, hương, vị xúc và pháp; không có từ nhãn thức giới đến ý thức giới; không có từ chi vô minh đến chi lão tử; cũng không có từ vô minh tận đến lão tử tận. Không có khổ, tập, diệt vào đạo; không có trí, cũng không có đắc, vì không có chi là sở đắc cả.
Các vị Bồ Tát y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên tâm các ngài không hề trở ngại, vì không trở ngại, nên không sợ hãi. Chư Phật ba đời y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên mới chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Vậy biết Bát Nhã Ba La Mật Đa, là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng, trừ hết mọi khổ, đúng thực chẳng hư.
Nên lại nói cả bài chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, bài chú ấy là: "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha."
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. (3 lần)
*
Bài tụng kinh Sám Hối và Hồi Hướng Đệ tử chúng con, vì nghiệp ma ngăn cản, thần chí lẫn rối, căn tính u minh, tự nhiên sinh ra, ý nghĩ quanh co, dáo dở chất chồng. Tuy mắt nhìn tới chữ mà tâm chạy theo việc khác, lầm cả chữ, sai cả câu. Giọng đọc thì nặng nhẹ không đều, hiểu biết lại chấp theo tà kiến. Hoặc vì công việc lấn cướp mất chí, tâm chẳng để vào kinh. Tụng niệm thì lúc đứng lúc ngồi, đứt đoạn, bỏ dở, cách quảng, lướt qua. Tụng lâu sinh ra trễ nãi, vì việc trái ý sinh ra tức giận. Chốn nghiêm tịnh, hoặc làm cho dơ dếch, nơi tôn kính, hoặc trở lại khinh nhờn. Thân miệng y xiêm, chẳng được thanh tịnh, y hậu lễ lạy, thiếu vẻ trang nghiêm; cúng dường chẳng được đúng phép, ở vào nơi không phải chỗ. Kinh sách mở gấp, làm cho nhàu rối; hoặc để rơi rớt, dơ bẩn, rách nát. Tất cả đều chẳng chuyên chẳng thành, rất thẹn hổ, rất sợ hãi. Kính xin chư Phật, Bồ Tát khắp pháp giới, hư không giới, cùng hết thảy Thánh chúng, hộ pháp thiện thần, thiên long từ bi thương xót, do chúng con được sám hối, sạch hết tội lỗi, khiến công đức tụng kinh này, được vẹn tròn vừa ý.
Đệ tử chúng con lại thành tâm phát nguyện, hồi hướng, vì còn lo sợ việc phiên dịch, nhuận sắc sai lầm, chú giải không đúng; truyền dạy có sai lạc, âm thích có lầm lẫn, so sánh sửa đổi có thiếu sót, viết chép in cắt có lẫn lộn. Những lỗi lầm đó, dù các vị pháp sư hay mọi người khác, chúng con cũng hết xin vì họ mà sám hối. Kính nhờ sức uy thần của Phật, khiến cho tội chướng được tiêu trừ. Và xin chư Phật thường quay bánh xe pháp, cứu vớt cho muôn loài.
Sau nữa, nguyện đem công đức tụng kinh, trì chú này, hồi hướng cho các vị hộ pháp, long thiên, thần linh núi sông trong ba cõi, các vị thiện thần giữ gìn chốn già lam, cầu mong được hạnh phúc, an lạc, hòa bình, chí thiện, để trang nghiêm đạo quả Vô Thượng Bồ Đề và nguyện cho khắp cả chúng sinh trong pháp giới; cùng vào được cảnh giới pháp thân của chư Phật.
(ba tiếng chuông sang hiệu mõ)
*
Bài niệm Phật của ngài Đại Thế Chí Bồ Tát (Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Ngài Đại Thế Chí, con của đấng pháp vương, cùng năm mươi hai vị đại Bồ Tát đồng hành với ngài, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy dập đầu lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng:
Con nhớ đời xưa, cách đây nhiều kiếp, như cát sông Hằng, có Phật ra đời, hiệu ngài là Vô Lượng Quang; mười hai Như Lai, cùng nối ngôi nhau, ra trong một kiếp, Như Lai cuối cùng, hiệu ngài là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Ngài dạy con phép "Niệm Phật Tam Muội."
Ví như hai người: một người chuyên nhớ, một người cứ quên; hai người như thế, dù có gặp nhau, cũng như không gặp; dù có thấy nhau, cũng như không thấy. Vậy hai người phải cùng nhớ đến nhau, rất là thân thiết, cứ như thế mãi, cho hết kiếp này, lại sang kiếp khác, như bóng với hình, chẳng xa rời nhau.
Mười phương Như Lai, thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con; nếu con trốn chạy, thì mẹ dẫu nhớ, còn làm gì được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời, chẳng rời xa nhau. Nếu tâm chúng sinh, nhớ Phật niệm Phật, đời này đời sau, quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa. Chẳng nhờ đến phép phương tiện nào khác, mà cũng tỏ ngộ được tâm của mình, như người ướp hương, thân có mùi hương; phép này gọi là "Hương quang trang nghiêm."
Chỗ bản thân con, dùng tâm niệm Phật, vào vô sinh nhẫn. Nay ở cõi này, tiếp người niệm Phật, về nơi Tịnh Độ. Phật hỏi đến con, phép tu viên thông, con không chọn lựa, con chỉ thu nhiếp, tất cả sáu căn, chuyên một tịnh niệm, nối nhau liền liền, được phép chính định, ấy là thứ nhất.
*
Bài niệm Phật Thân Phật Di Đà vàng chói lọi,
Tướng tốt rực rỡ chẳng ai bì,
Mắt xanh trong lặng bốn biển lớn,
Mi sáng toả lồng năm núi Di.
Hào quang hóa ra vô số Phật;
Lại hóa rất nhiều các Bồ Tát.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh;
Chín phẩm đều lên bờ Đại Giác.
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. (3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật (1 hay 3 tràng)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Đại Tạng Vương Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần dứt mõ)
*
Lễ Tổng (đứng hoặc quỳ, vừa đọc vừa lễ)
Quy mệnh kính lễ tất cả Tam Bảo, thường trụ suốt ba đời khắp mười phương, hết cả hư không và pháp giới. (1 lễ)
Quy mệnh kính lễ đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, là giáo chủ cõi Ta Bà. (1 lễ)
Quy mệnh kính lễ đức Phật A Di Đà, là giáo chủ ở cõi Cực Lạc phương Tây. (1 lễ)
Quy mệnh kính lễ đức Phật Di Lạc, là giáo chủ ở cõi Ta Bà đời mai sau. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù cùng các vị đại Bồ Tát ở khắp pháp giới. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền cùng các vị đại Bồ Tát ở khắp pháp giới. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm cùng các vị đại Bồ Tát ở khắp pháp giới. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ đức Bồ Tát Đại Lực Đại Thế Chí cùng các vị đại Bồ Tát ở khắp pháp giới. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ đức Bồ Tát Địa Tạng Vương cùng các vị đại Bồ Tát ở khắp pháp giới. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ các vị Bồ Tát trong hải hội thanh tịnh cùng các vị hiền thánh tăng ở khắp pháp giới. (1 lễ, 1 tiếng chuông)
Nhất tâm đảnh lễ các vị Bồ Tát Lịch Đại Tổ Sư. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ các vị Bồ Tát Hộ Pháp chư Thiên. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ đức Bồ Tát Hộ pháp Vi Đà, là bậc được các cõi trời tôn kính và ba châu vàng theo. (1 lễ)
Con nay nguyện vì khắp cả bốn ân, ba cõi, pháp giới chúng sinh, dứt khỏi ba chướng, chí thành phát nguyện. (1 lễ)
*
Phát nguyện Tịnh Độ (quỳ tụng)
Đệ tử chúng con (đệ tử con là...)
Nhất tâm quy mệnh
Phật A Di Đà
Ở cõi Cực Lạc;
Xin lấy Tịnh Quang
Soi cho chúng con
Xin đem Từ tuệ
Thu nhiếp chúng con.
Nay con chính niệm
Niệm danh hiệu Phật
Vì đạo Bồ Đề
Cầu sinh Tịnh Độ.
Phật xưa đã thề:
"Nếu có chúng sinh
Muốn sinh sang nước
Cực Lạc của ta
Dốc lòng tin ưa
Từ người niệm nhiều
Cho đến những người
Niệm mười danh hiệu
Nếu chẳng được sinh
Thì ta thề quyết
Chẳng lên ngôi Phật."
Vì nhân duyên ấy
Mà người niệm Phật
Mới được vào trong
Bể đại thệ nguyện
Của đức Như Lai.
Nhờ từ lực Phật
Mọi tội tiêu hết
Căn lành thêm lớn
Đến giờ lâm chung
Tự mình biết trước
Thân không đau khổ
Tâm chẳng tham luyến
Ý chẳng điên đảo
Như vào thiền định.
Phật cùng Thánh chúng
Tay cầm đài vàng
Lại đón tiếp con
Chỉ trong giây lát
Sinh sang Cực Lạc;
Hoa nở thấy Phật
Được nghe Phật thừa
Phật tuệ liền khai
Độ khắp chúng sinh
Bồ Đề mãn nguyện.
(dứt mõ 3 tiếng chuông)
*
Tam Tự Quy (vừa đọc, vừa lễ)
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu rõ đạo lớn, phát tâm Bồ Đề. (1 lễ)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thấu suốt kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
Tự tuy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, thống nhất đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
Kính lạy chư vị Thánh Hiền.
(1 vái, chấp tay đọc)
Nguyện đem công đức này,
Hồi hướng cho tất cả,
Chúng con và chúng sinh (hoặc vong linh)
Đều cùng thành Phật đạo.