Người dịch: Kim Lương
Phần 1
(Comment l’amour s’imposa an professeur Guildea)

Những người có đầu óc kém bén nhậy thường tự hỏi rằng làm thế nào mà cha Murchison và giáo sư Frediric Guildea lai có thể là những người bạn thân thiết được. Một người thì lòng tràn đầy tín ngưỡng, còn một người thì hoàn toàn theo thuyết hoài nghi. Trong lòng cha Murchison chỉ có tình thương. Trên chiếc áo lễ dài màu đen của ông, ông nhìn thiên hạ với một sự trìu mến gần như ấu trĩ, và cặp mắt dịu hiền của ông, mặc dù đã hoàn toàn rũ sạch mọi âu lo, có vẻ như lúc nào cũng bận rộn chiêm ngưỡng sự lương hảo hiện hữu trong nhân loại và cảm thấy hân hoan trước những gì được nhìn thấy. Ngược lại, vị giáo sư có một bộ mặt khắc khổ, sắc bén, tận cùng bằng một chòm râu dê đen, dữ tợn. Cái nhìn của ông linh hoạt, sắc sảo và đầy vẻ khinh mạn, những đường nét bao quanh cái miệng nhỏ có cặp môi mỏng dính của ông trông gần như hiểm ác. Giọng nói của ông thô cục và khô khan, và đôi khi trong những lúc nóng giận của ông, nó vút cao lên thành tiếng the thé. Nó phát ra những tiếng với một sự khô khan sắc bén. Thái độ thường ngày của ông giáo sư là một sự pha trộn tính đa nghi và nhu cầu hiểu biết. Thật không thể nghĩ rằng ở giữa những việc bận rộn của ông còn có thể có một chỗ cho tình thương, dù là tình thương một người, dù là tình thương nhân loại nói chung. Tuy nhiên, ông đã sống một đời trong việc khảo cứu khoa học đã mang lại cho thế giới những lợi ích lớn lao.
Cả hai người đều sống độc thân. Cha Murchison thuộc về một phẩm chức của Anh-Quốc-Giáo nên bị cấm không được lập gia đình. Giáo sư Guildea thì có ý coi thường hầu hết mọi vật và mọi người, nhưng trên hết là các phụ nữ. Hồi trước đây ông đã giữ chức giảng sư ở Birmingham. Nhưng khi danh tiếng của ông lớn lên vì những phát minh của ông thì ông tới cư ngụ tại Luân Đôn. Chính ở đó, trong một buổi diễn thuyết ông thực hiện tại khu Đông, ông đã gặp cha Murchison lần đầu tiên. Họ đã trao đổi với nhau vài câu. Có lẽ sự thông minh sáng chói của vị linh mục đã thu hút được nhà khoa học, người mà lúc bình thường vẫn nhìn giới tăng lữ với đôi chút khinh khi. Cũng có thể là ông đã bị chinh phục bởi sự thành thực trong sáng của người giáo đồ có một lương tri vững chắc này. Khi ông rời khỏi phòng họp, ông đã đột ngột mời ông cha tới gặp ông tại nhà ông ở Công viên Hyde Park. Ông cha, người hiếm khi đi tới khu Tây, ngoại trừ khi đi giảng đạo, đã nhận lời mời.
- Khi nào thì cha tới? Guildea nói.
Ông gấp tờ giấy màu xanh trên đó ông đã viết những lời ghi chú với nét chữ viết nhỏ, rõ ràng. Tiếng sột soạt khô khan của những tờ giấy làm sự hòa điệu với giọng nói rõ ràng và khô khan của ông.
- Vào Chủ nhật, tám ngày sau tôi thuyết giảng buổi chiều ở Saint Sanveur, trong các khu vực của ông - Ông cha nói.
- Tôi không đi nhà thờ.
- Không - ông cha nói, không có mảy may một chút âm sắc của sự kinh ngạc hay trách cứ nào trong giọng nói của ông.
- Sau đó mời cha tới dùng bữa ăn tối.
- Vâng, cám ơn.
- Vào mấy giờ thì cha sẽ tới?
Ông cha mỉm cười.
- Sau khi tôi đã chấm dứt bài giảng. Buổi lễ vào sáu giờ rưỡi.
- Vây là độ tám giờ, tôi nghĩ vậy. Xin cha đừng giảng quá lâu. Tôi ở số 100, công viên Hyde Park. Chào tạm biệt.
Ông buộc quanh những tờ giấy của ông một sợi dây thun, và rảo bước đi khỏi, không bắt tay vị linh mục.
Vào ngày Chủ nhật đã ước định, cha Murchison thuyết giảng trước một đám đông đặc nghẹt những tín đồ ở Saint Sanveur. Đề luận bài giảng của ông là cảm tình và sự vô dụng tương đối của con người trên hành tinh, nếu con người đó không học được cách yêu thương đồng loại của mình như chính mình vậy. Bài giảng có phần dài dòng và khi mặc một cái áo lót bông màu đen rộng thùng thình, đội một cái mũ tròn và cứng có những cái vành dẹp, từ trên chóp mũ lủng lẳng những đầu của một sợi dây tơ đen, nhà truyền giáo đi về phía nhà của ông giáo sư, thì những cây kim trên mặt dạ quang của cái đồng hồ ở Marble Arch đã chỉ tám giờ hai mươi nhăm phút.
Ông cha rảo bước, mở một lối đi xuyên qua đám đông ồn ào, những người lính đứng bất động, những người đàn bà đang nói ba hoa và những đứa trẻ lang thang mặc quần áo ngày lễ cười nói om sòm. Đó là một buổi tối ấm áp của tháng Tư, và khi ông đi tới số nhà 100 ở Công viên Hyde Park thì ông đã thấy vị giáo sư để đầu trần, đứng trên bậc cửa nhìn về phía hàng rào song sắt của công viên và thích thú với không khí ấm áp và ẩm ướt, ở cuối cái hành lang có đèn sáng rực.
- A! bài giảng lâu quá! Ông nói lớn. Mời cha vào.
- Vâng, tôi cũng sợ như vậy - ông cha nói, vui vẻ theo lời mời. Tôi là một trong những kẻ nguy hiểm đó, một thầy giảng hay nói ứng khẩu.
- Khi ta có thể nói mà không cần những lời ghi chép mới thú vị hơn chứ. Xin cha hãy quặc mũ và áo khoác ngoài lên - không áo nhà tu của cha - ở đây. Chúng ta sẽ ăn buổi tối ngay tức thì. Đây là phòng ăn.
Ông mở một cái cửa phía bên phải và họ đi vào một căn phòng dài, hẹp, được trải một lớp giấy màu vàng, với một cái trần màu đen từ đó lủng lẳng một ngọn đèn điện với một cái chụp đèn màu vàng. Trong căn phòng có kê một cái bàn hình bầu dục trên đó người ta đã đặt sẵn hai bộ đồ để dùng trong bữa ăn. Ông giáo sư bấm chuông. Rồi ông nói.
- Hình như người ta nói năng thoải mái xung quanh một cái bàn hình bầu dục hơn là xung quanh một cái bàn vuông.
- Thật à? Ông nghĩ thế à?
- Phải, tôi đã có hai lần mời cùng một người khách, một lần ngồi ở cái bàn vuông, một lần ở cái bàn hình bầu dục. Bữa ăn thứ nhất thật buồn nản, bữa thứ hai thật rạng rỡ. Xin mời cha ngồi xuống.
- Ông giải thích sự khác biệt đó ra sao? Ông cha nói, trong lúc ngồi xuống và thận trọng vén cái vạt áo nhà tu dưới chân ông.
- Hừ! Tôi biết là chính cha sẽ giải thích điểm này thế nào rồi.
- A! Phải. Vậy thì như thế nào?
- Ở một cái bàn hình bầu dục, vì không có các góc cạnh nên sợi dây đồng cảm của con người, luồng điện được liên lạc nhiều hơn. Xin phép cho tôi múc món súp cho cha.
- Cám ơn.
Ông cha chìa cái đĩa của ông ra, và khi làm cử chỉ đó, ông quay về phía người chủ nhà một cái nhìn rạng rỡ của đôi mắt màu xanh của ông. Rồi ông mỉm cười.
- Rồi sao nữa - ông nói với giọng cao nhẹ êm ái của ông - Ông có đôi khi đi nhà thờ không?
- Chiều nay, lần đầu tiên từ nhiều thế kỷ và hẳn cha đã biết rõ, tôi đã thấy bực bội một cách khủng khiếp.
Ông cha vẫn mỉm cười, và cặp mắt xanh của ông long lanh một cách duyên dáng.
- A! thật thế! - ông nói - Thật là uổng quá!
- Những bài giảng không dính dáng gì tới chuyện này. Guildea nói thêm. Đó không phải là một sự khen ngợi. Tôi nói lên một sự việc. Bài giảng đã không làm tôi bực bội. Nếu không, tôi đã nói ra điều này, hoặc là tôi sẽ nín thinh.
- Và trong hai phe đó thì ông đứng về phe nào?
Vị giáo sư mỉm cười với một vẻ gần như vui thích.
- Tôi không biết - ông nói. Cha uống rượu gì?
- Không uống rượu gì cả, xin cảm ơn ông. Tôi là người chống rượu. Trong nghề nghiệp và môi trường của tôi, đó là điều thiết yếu. Vâng, tôi sẽ uống một chút nước Sellz. Tôi tin rằng ông sẽ chọn phe thứ nhất.
- Rất có thể, và hẳn là đã chọn một cách sai lầm. Việc đó sẽ không làm cha quá xúc cảm.
- Không, tôi không tin.
Họ đã trở thành thân mật. Ông cha rất thoải mái dưới tấm trần nhà màu đen. Ông uống một chút nước Seltz và có vẻ thích thú nó hơn là vị giáo sư với rượu bordeaux của ông.
- Tôi thấy rõ, ông đã mỉm cười về cái thuyết sợi dây đồng cảm của con người này - ông cha nói. Vậy thì ông giải thích thế nào về sự thất bại của bữa ăn ở bàn vuông với các cạnh góc của ông, và sự thành công của bữa ăn ở bàn hình bầu dục, không có cạnh góc của ông?
- Có thể do sự kiện là vào dịp thứ nhất linh hồn tươi đẹp của cái bàn bị đau gan sau một cơn cảm lạnh, khi trong bữa ăn thứ hai thì nó hoàn toàn khỏe mạnh. Tuy nhiên, như cha đã thấy đó, tôi đã chọn cái bàn hình bầu dục.
- Điều này có nghĩa là...
- Không có gì quan trọng đâu. À, chiều hôm nay cha đã không đả động tới vai trò đáng kể của lá gan trong cảm tính. Đó là một khiếm khuyết nghiêm trọng.
- Trong đời sống của ông đã có một khiếm khuyết còn trầm trọng hơn nữa đó: sự thiếu vắng tất cả lòng ham thích, sự đồng cảm mật thiết của con người.
- Từ đâu mà cha có sự tin chắc rằng tôi không cảm nhận được lòng ham thích này?
- Tôi đoán ra việc đó. Ngôn ngữ của ông, thái độ của ông nói cho tôi biết rằng sự việc là như thế. Ông đã không tán thành bài giảng của tôi trong suốt thời gian tôi thuyết giảng, đúng thế phải không'?
- Một phần của thời gian đó.
Tên người hầu thay những cái đĩa. Đó là một người đàn ông đứng tuổi, tóc vàng hoe, gầy còm, với bộ mặt trắng, cương nghị, cặp mắt sáng, lồi ra, và một phong cách không chê trách được trong việc hầu hạ. Khi hắn ra khỏi, ông giáo sư nói tiếp.
- Những nhận xét của cha làm tôi thích thú, nhưng tôi đã xét thấy chúng là quá đáng.
- Thí dụ như thế nào?
- Xin cho phép tôi nói như một người ích kỷ trong chốc lát. Một phần lớn thời gian của tôi được dùng để làm việc vất vả, rất vất vả. Cha sẽ đồng ý về điều đó, nhân loại thủ lợi về các kết quả của sự làm việc này.
- Khá nhiều - ông cha công nhận trong khi nghĩ tới hơn một sự phát minh của Guildea.
- Và đối với nhân loại sự lợi ích do kết quả của công việc được thực hiện chỉ vì chính nhân loại cũng lớn lao như thể tôi đã hoàn tất nó vì tình thương các đồng loại của tôi, và nếu do tình cảm tôi muốn được thấy họ hưởng nhiều hạnh phúc hơn là họ đang có hiện nay. Tôi cũng rất hữu ích trong cương vị này của tôi... trong sự thiếu vắng cảm tính... cũng như nếu tôi vung vãi những sự biểu lộ giống như những nhà tình cảm chủ nghĩa là những người muốn thả các tên sát nhân ra khỏi nhà tù, hoặc như Tolstoi muốn bênh vực bạo quyền bằng cách phản đối sự trừng phạt những tên bạo chúa.
- Người ta có thể làm rất nhiều điều ác với cảm tính và rất nhiều điều thiện khi không có nó. Phải, thật vậy. Tôi vẫn biết rằng động lực tối thân tự thân nó không đủ. Tuy nhiên, tôi chủ trương rằng với với tài ba của ông, ông sẽ còn hữu ích hơn rất nhiều cho thế giới này nếu thay vì trong những tâm trạng này, ông cảm ứng được sự đồng cảm, lòng yêu thương đối với nhân loại. Tôi còn nghĩ cả tới điều là các công trình của ông sẽ chỉ huy hoàng hơn thôi.
Ông giáo sư tự rót cho mình một cốc bordeaux nữa.
- Cha đã để ý tới người đầu bếp của tôi phải không? Ông nói.
- Phải.
- Đó là một người đầy tớ hoàn hảo. Hắn ta săn sóc các tiện nghi của tôi một cách không chê trách được. Tuy nhiên, ở hắn ta không có một mảy may tình cảm đối với tôi. Tôi đối xử lễ độ với hắn ta. Tôi trả lương hắn ta hậu hĩnh nhưng không bao giờ tôi nghĩ tới hắn ta, và không bao giờ tôi bận tâm tới hắn ta trong tư cách một con người. Tôi không biết chút gì về tính tình của hắn ta ngoài những điều mà tôi đã đọc trong tờ chứng chỉ của người chủ cuối cùng của hắn ta. Hẳn cha sẽ nói là không có một chút liên hệ nhân bản thật sự nào giữa chúng tôi. Hẳn cha sẽ cho rằng công việc của hắn ta sẽ được làm tốt hơn nếu tôi làm cho bản thân tôi được yêu quí, như một người ở bất cứ một đẳng cấp nào có thể yêu mến một người của bất cứ loại đẳng cấp nào khác phải không?
- Chắc chắn là thế.
- Tôi cho rằng hắn ta sẽ không thể làm công việc của mình tốt hơn là hắn ta đang làm hiện nay.
- Nhưng nếu xẩy ra một tai biến?
- Tai biến gì?
- Một tai biến nào đó, một sự thay đổi trong tình trạng của ông. Nếu ông cần tới sự giúp đỡ của hắn ta, không còn là với  tư cách con người và anh đầu bếp, nhưng với tư cách con người và huynh đệ thì sao? Rất có thể là hắn ta sẽ không đáp ứng sự mong đợi của ông. Sẽ không bao giờ ông nhận được từ người đầy tớ của ông một sự phục vụ có phẩm chất cao mà động lực chỉ có thể là một tình cảm chung thủy.
- Cha nói xong chưa?
- Xong hết rồi.
- Vậy thì ta hãy lên trên lầu. Vâng, đây là những bức khắc chạm đẹp. Tôi đã tìm thấy chúng ở Birmingham khi tôi cư ngụ tại đó. Đây là phòng làm việc của tôi.
Họ đi tới một căn phòng đôi, hoàn toàn bị phủ kín bởi những quyển sách và được thắp sáng bằng điện mà cường độ gần như thái quá. Các cửa một phía nhìn công viên và phía kia thì nhìn xuống khu vườn của nhà hàng xóm. Cửa lớn mà họ đi vào thì từ phần thụt vào sâu nhất của căn phòng ta không thể nhìn thấy, phòng này cũng là gian nhỏ hơn, nó được che khuất bởi chỗ nhô ra của bức tường phòng thứ nhất. Trong phòng này có một cái bàn làm việc chất đầy những thư từ, những tập sách mỏng và những bản thảo viết tay. Ở giữa hai khung cửa sổ chỗ cuối phòng có một cái chuồng trong đó một con két lớn màu xám đang leo trèo, nó dùng cái mỏ và hai chân trong những bước leo cao chậm chạp và trầm mặc.
- Ông cũng có một người bạn - ông cha nói với vẻ kinh ngạc.
- Tôi có một con két - vị giáo sư trả lời bằng một giọng khô khan. Tôi đã mua nó với một mục đích rõ ràng khi tôi nghiên cứu về các khả năng bắt chước của loài chim, và tôi đã không bao giờ rũ bỏ được nó. Một điếu xì gà nhé?
- Cám ơn.
Họ cùng ngồi xuống. Cha Murchison liếc mắt nhìn con két. Nó đã dừng lại trong sự di chuyển của nó, hai chân bám vào các then sắt của cái chuồng. Nó ngắm nghía họ với những con mắt tròn xoe và chăm chú có vẻ tràn đầy sự suy tưởng và trí khôn, nhưng hoàn toàn không có một chút cảm tình nào. Sau đó ông quay lại nhìn về phía Guildea đang hút thuốc, đầu ngả về đằng sau, với cái cằm nhọn và bộ râu đen thưa thớt mọc lởm chởm vểnh lên vì lối ngồi đó. Ông mấp máy môi dưới một cách mau lẹ theo chiều đứng thẳng, điều này làm bộ râu rung động, và làm cho ông có một vẻ hung dữ khác thường. Bỗng nhiên ông cha bật lên một tiếng cười nhỏ.
- Tại sao? Guildea hỏi lớn tiếng. Ông ta để cho cằm hạ xuống, và ném cho vị khách một cái nhìn kém nhã nhặn.
- Tôi nghĩ rằng cần phải có một tai biến thật lớn lao để ông tìm tới sự hỗ trợ trong lòng cảm mến của người đầu bếp của ông.
Đến lượt Guildea mỉm cười.
- Cha nói đúng đó. Thực sự. Hắn ta đến kìa.
Người đầu bếp đi vào, mang cà phê tới, rồi lui ra như một cái bóng qua khỏi trên một bức tường.
- Đó là một người kỳ diệu, không có tính người. Guildea nói.
- Tôi ưa thích thằng nhỏ bụi đời ở khu Đông là đứa làm việc vặt cho tôi ở Báo Street. Ông cha nói. Tôi biết hết mọi chuyện buồn phiền của nó, nó cũng biết một vài chuyện buồn phiền của tôi, nó ít trầm lặng hơn là anh đầy tớ của ông. Ngay cả, có lúc nó còn thở phì phò khi nó quá bận rộn, nhưng đôi khi nó còn làm cho tôi nhiều hơn là việc cho than vào vỉ lò hoặc đánh xi những đôi giày mũi vuông của tôi.
- Mọi người đều khác nhau. Sự chăm chú quá đỗi của một cái nhìn trìu mến làm tôi khó chịu.
- Nhưng con chim này thì thế nào?
Ông cha lấy ngón tay chỉ vào con két. Nó đã leo lên cái cần đậu của nó, một bàn chân co lên, trong một thái độ uy nghi làm nẩy sinh một điều tốt lành, và mắt nó không rời khỏi vị giáo sư.
- Đó là cái nhìn chăm chú của sự bắt chước, nó che giấu một ẩn ý: sự mong muốn tái tạo những vẻ đặc thù của người khác. Không, chiều hôm nay tôi đã biết mùi vị của sự dịu dàng, óc thông minh trong bài giảng của cha, nhưng tôi không cầu mong sự cảm mến. Chắc chắn là ta có thể mong muốn một tình cảm vừa phải... (Ông giật mạnh bộ râu, như thể muốn đề phòng chống lại tình cảm) nhưng tất cả sự cảm mến mãnh liệt hơn đều làm bực bội và sẽ đẩy tôi tới sự tàn bạo, tôi biết chắc điều này. Và nó còn làm trở ngại công việc của tôi.
- Tôi không tin vậy.
- Phải, cái loại công việc của tôi. Tôi sẽ tiếp tục mang lại những lợi ích cho một người, mà không yêu họ, và họ sẽ tiếp tục chấp nhận các lợi ích này, mà không yêu tôi. Và đúng là như thế.
Ông uống tách cà phê của ông. Rồi với một giọng có vẻ hung hăng ông nói thêm.
- Tôi không có thì giờ rảnh rỗi, mà cũng không có khuynh hướng dành cho tình cảm.
Khi Guildea cùng đi với cha Murchison, ông đi theo ông cha tới tận bậc cửa lớn, và đứng ở đó một lát. Ông cha nhìn sang công viên ở phía bên kia lòng đường ẩm ướt.
- Tôi thấy là ông có một lối vào đúng ngay trước mặt nhà mình - ông nói một cách lơ đãng.
- Vâng, tôi thường bước qua lối vào đó và đi dạo chơi một lúc để làm tươi mát các ý nghĩ của tôi. Xin chúc cha ngủ ngon. Mời cha tới chơi vào một ngày khác.
- Rất hân hạnh. Chúc ngủ ngon.
Vị linh mục rảo bước đi khỏi, để lại Guildea đứng trên bậc cửa.
Cha Murchison thường trở lại số nhà 100 ở Quảng trường Hide Park. Ông có cảm tình với hầu hết những người đàn ông và đàn bà mà ông quen biết. Và sự trìu mến với tất cả mọi người, dù quen hay lạ, nhưng lại nuôi dưỡng một tình cảm đặc biệt với Guildea. Và đây là một điều khá kỳ cục, vì nó là một tình cảm của lòng thương xót. Ông ái ngại cho con người lao động hăng say này, người đã thành công một cách đáng cảm phục, người có một trí thông minh vĩ đại, một tấm lòng dũng cảm, không bao giờ tỏ ra chán nản, người không bao giờ cần tới sự giúp đỡ, không bao giờ ta thán về về hững sự phiền toái của cuộc sống, và luôn luôn đi thẳng trước cuộc sống, không bao giờ ngần ngại. Ông cha thực sự ái ngại cho Guildea vì ông ấy đã tỏ ra rất khó tính. Ông đã nói điều này với ông ấy, vì ngay từ lúc khởi đầu sự giao thiệp giữa hai người đã có một sự thành thực hiếm có.
Một buổi chiều nọ, khi họ trò chuyện với nhau, ông cha nói tới một trong những sự kỳ cục của cuộc sống: sự việc là những người không ham muốn của cải lại thường thường kiếm được của cải trong khi những  kẻ mưu cầu của cải với sự đam mê thì lại thất bại trong việc đi tìm của cải.
-  Trong trường hợp này thì vô vàn tình thương mến sẽ phải trút lên người tôi. Guildea nói với một nụ cười chua chát, vì tôi chán ghét tình thương mến.
- Có lẽ một ngày nào đó nó sẽ như vậy.
- Một cách rất thành thực tôi hy vọng rằng sẽ là không.
Cha Murchison im lặng một lúc. Ông xiết chặt thêm hai đầu của cái thắt lưng lớn buộc quanh áo dài lễ của ông. Khi ông nói, có vẻ như ông đang trả lời một người nào đó.
- Phải, ông nói một cách chậm chạp, phải, đó đúng là điều mà tôi oán hận: lòng thương xót.
- Tại sao? Ông giáo sư nói.
Rồi bỗng nhiên ông hiểu. Ông không nói là ông đã hiểu, nhưng cha Murchison cảm thấy, và nhìn thấy thật là hoàn toàn vô ích khi trả lời câu hỏi của người bạn ông, một cách khá kỳ quặc, cứ như thể Guildea tự thấy mình bị ràng buộc rất chặt với một người vốn là trái ngược với ông về mọi mặt và đã cảm thấy thương hại ông.
Sự việc Guildea không tỏ ý hoài nghi và gần như không bao giờ nghĩ tới điều này, có lẽ cũng chứng tỏ một cách rõ ràng sự thờ ơ hy hữu trong bản chất của ông.