Công lý được thi hành,
nhưng mọi người ngượng nghịu nghĩ rằng mình lầm.Bernard Gui ngồi ngay chính giữa bàn gỗ gụ trong phòng nguyện. Bên cạnh là một tu sĩ dòng Dominic giữ nhiệm vụ lục sự ghi chép, và hai giám mục trong phái đoàn giáo hoàng ngồi hai bên, giữ vai thẩm phán. Quản hầm đứng trước bàn, giữa hai tên lính. Tu viện trưởng quay sang thầy William thầm thì: - Cha không biết thủ tục tòa này có hợp pháp chăng. Hội đồng Lateran năm 1215 trong Giáo điều thứ 37 đã qui định không ai có thể bị gọi trình tòa trước những thẩm phán mở pháp đình cách xa nhà phạm nhân hơn hai ngày đường. Ở đây hoàn cảnh có lẽ khác, chính thẩm phán từ xa đến, nhưng… Thầy William nói: - Phán quan được miễn trừ mọi thủ tục pháp lý thông thường, và không theo các tiền lệ của thường luật. Người ấy được hưởng đặc quyền và thậm chí không bị buộc phải nghe các luật sư biện hộ. Tôi nhìn Quản hầm. Remigio trông tiều tụy. Hắn nhìn quanh như một con thú hoảng hốt đang nhận ra các hoạt động của một nghi thức hiến tế làm hắn sợ hãi. Bây giờ, tôi biết hắn sợ vì hai lý do đều khủng khiếp như nhau, thứ nhất, mọi người đều thấy hắn bị bắt quả tang phạm tội, thứ hai, hôm trước khi Bernard khởi sự điều tra, góp nhặt các lời đồn đại và bóng gió, Remigio đã e ngại quá khứ của hắn sẽ bị phơi bày, hắn càng hoảng hốt hơn khi thấy Salvatore bị bắt. Nếu Remigio bị dày vò sợ hãi, thì phần Bernard Gui, hắn biết cách biến nỗi sợ hãi của nạn nhân thành cơn kinh hoàng. Hắn im lặng khi ai cũng tưởng hắn sắp bắt đầu cuộc thẩm vấn. Hắn đặt tay lên những tờ giấy trước mặt, giả vờ như sắp xếp chúng, nhưng một cách lơ đãng. Hắn nhìn bị can chằm chặp, cái nhìn có lẫn vẻ bao dung đạo đức giả, sự châm biếm lạ lùng và vẻ khắc nghiệt không thương tiếc. Tất cả những điều này quản hầm đều đã biết, nhưng vẻ im lặng và trì hoãn của phán quan khiến hắn càng hiểu chúng thấm thía hơn. Càng cảm thấy nhục nhã thì nỗi bồn chồn sẽ biến thành tuyệt vọng, và hắn sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào quan tòa như thỏi sáp mềm trong tay người. Cuối cùng Bernard phá tan bầu không khí im lặng. Hắn thốt lên vài câu nói theo thủ tục xử án, thưa cùng các thẩm phán rằng, nay họ có thể tiến hành cuộc hỏi cung bị can liên quan đến hai tội ác cùng gớm ghiếc như nhau, một tội thì ai cũng thấy rành rành, nhưng không ghê tởm bằng tội kia, bị can bị bắt trong khi giết người, và trong lúc thật sự bị truy tầm về tội phản giáo. Lời đã phán. Quản hầm lấy tay che mặt, và khó khăn lắm mới nhấc tay được vì đã bị xiềng. Bernard bắt đầu hỏi: - Ngươi là ai? - Remigio xứ Varagine. Con năm mươi hai tuổi, nhập chủng viện dòng Khất thực ở Varagine khi còn bé. - Thế sao ngày nay ngươi lại ở trong dòng Benedict? - Cách đây nhiều năm, khi giáo hoàng ban hành “Sắc lệnh La Mã” (1) con sợ bị nhiễm nọc dị giáo của các Anh em Nghèo khó… mặc dù con chưa hề cùng quan điểm với họ… Con nghĩ, tâm hồn tội lỗi của mình nên lánh xa cái không khí đầy cám dỗ ấy, nên xin vào đây và được đón nhận vào tập thể các tu sĩ trong tu viện này, nơi con đã phục vụ hơn tám năm trời với chức quản hầm. Bernard chế nhạo: - Ngươi thoát khỏi các cám dỗ của bọn dị giáo, hay nói đúng ra, ngươi đã thoát được cuộc điều tra quyết tâm phát hiện bọn dị giáo và nhổ tận gốc chúng. Các tu sĩ dòng Cluniac tốt bụng đã mở lòng nhân hậu nhận ngươi và những người như ngươi vào. Nhưng đổi lớp áo dòng không đủ để xóa đi con quỉ dị giáo sa đọa trong tâm hồn, do đó, nay chúng tôi nhóm toà tại đây để tìm hiểu những gì đang rình rập ẩn nấp trong các ngõ ngách sâu kín của tâm hồn xấc láo của ngươi, và người đã làm gì trước khi đến chốn linh thiêng này. Quản hầm thận trọng nói: - Linh hồn con vô tội và con không hiểu Ngài nói sự sa đọa dị giáo là có ý gì? - Thấy chưa? – Bernard hét lên, quay sang nói với các thẩm phán. – Chúng đều một phường với nhau mà. Khi bị bắt, chúng đối mặt với công lý như thể lương tâm mình thanh thản, chẳng có gì ân hận cả. Chúng đâu có biết rằng, đó là dấu hiệu hiển nhiên tố cáo tội ác của bọn chúng, vì một người lương thiện khi hầu tòa đều phải bồn chồn bối rối! Hỏi hắn xem có biết tại sao ta ra lệnh bắt hắn không. Ngươi có biết không, Remigio? Quản hầm đáp: - Thưa ngài, con rất sung sướng nếu Ngài cho con hay. Tôi ngạc nhiên, vì quản hầm đối đáp lại những câu hỏi nghi thức bằng những lời lẽ cũng lễ nghi không kém, cứ như hắn rất thạo các thủ tục hỏi cung và các mẹo đánh bẫy của nó, và đã được đào tạo một thời gian dài để đương đầu với bất kỳ tình huống nào có thể xảy ra như thế này. Bernard hét lên: - Kìa, đó là lối trả lời đặc trưng của bọn dị giáo hỗn láo! Chúng quỉ quyệt như cáo xóa xấu chân và rất khó bắt nọn chúng, vì đức tin của chúng cho phép chúng được quyền nằm ẩn tránh né sự trừng phạt. Chúng lập lại những câu trả lời vòng vo, cố đánh bẫy phán quan, người phải chịu đựng cảnh quan hệ với những kẻ đáng tởm như vậy. Này Remigio, ngươi chẳng bao giờ liên hệ với những người gọi là Anh em Nghèo khó hay các thày dòng khổ hạnh, hay các tu sĩ Beghard phải không? - Con đã trải qua những nỗi thăng trầm của dòng Khất thực khi xảy ra cuộc tranh cãi triền miên về sự cơ nghèo, nhưng con chưa bao giờ gia nhập giáo phái Beghard cả! - Thấy chưa, hắn chối chưa bao giờ gia nhập giáo phái Beghard cả, vì giáo phái này, tuy cũng mang tính chất dị giáo như giáo phái Anh em Nghèo khó, lại xem dòng Anh em nghèo khó là một nhánh chết của dòng Francisco, nên tự nhận mình thanh khiết và hoàn thiện hơn. Nhưng nhiều hoạt động của giáo phái Beghard cũng giống như của giáo phái kia thôi! Remigio, ngươi có chối rằng người ta đã từng thấy ngươi khi cầu nguyện trong nhà thờ thì ngồi sụp xuống, ép mặt vào tường, hay nằm dài ra mũ che kín đầu, chớ không quỳ gối khoanh tay lại như những tu sĩ khác chăng? - Trong dòng thánh Benedict, các tu sĩ cũng nằm dài cầu nguyện, vào những lúc thích hợp… - Ta không hỏi ngươi làm gì vào những lúc thích hợp, mà vào lúc không thích hợp kia! Do đó, đừng chối rằng ngươi đã giữ một dáng bộ này nọ đặc trưng của giáo phái Beghard… Này, hãy khai đi: ngươi tin gì? - Thưa ngài, con tin mọi điều mà một con chiên ngoan đạo tin. - Nghe thành kính gớm nhỉ! Thế con chiên ngoan đạo tin gì? - Điều mà Giáo hội răn dạy. - Giáo hội nào? Giáo hội của bọn tín đồ tự nhận mình là hoàn thiện, bọn Tông đồ giả danh, bọn Anh em Nghèo khó dị giáo, hay Giáo hội mà bọn chúng đã so sánh với con điếm thành Babylon, Giáo hội mà tất cả chúng ta đều thành tâm tin tưởng? Quản hầm hoang mang nói: - Thưa ngài, xin bảo cho con biết Ngài tin Giáo hội nào là chân chính. - Ta tin đó là Giáo hội La Mã, giáo hội thánh thiện duy nhất của các Tông đồ, được Giáo hoàng và các Giám mục của Người lãnh đạo. - Con cũng tin như thế. Phán quan hét lên: - Khôn lanh khiếp nhỉ! Xảo quyệt khiếp nhỉ! Các Huynh thảy đều nghe hắn chứ! Hắn muốn nói hắn tin điều tôi tin tưởng ở giáo hội này, để tránh né khỏi phải khai ra hắn tin gì! Nhưng, chúng tôi đã rành những trò cáo già này rồi! Thôi, hãy đi vào trọng tâm. Ngươi có tin rằng Giáo hoàng đã ban hành rằng muốn thực lòng ăn năn, ngươi phải xưng tội với các tôi tớ của Chúa, và giáo hội La Mã có quyền lực thắt buộc trên trần gian này những gì sẽ được thắt buộc trên thiên đàng? - Chẳng lẽ con không phải tin những điều đó sao? - Ta không hỏi ngươi “phải’ tin điều gì, mà hỏi ngươi tin gì! Quản hầm hoảng sợ nói: - Con tin mọi điều Ngài và các học giả tài ba khác bảo con tin. - À! Nhưng những học giả tài ba ngươi nhắc đến đó có phải là những người lãnh đạo giáo phái của ngươi không? Khi nói đến các học giả tài ba, có phải ý ngươi muốn ám chỉ thế không? Có phải những tên láo toét sa đọa đó là những kẻ ngươi đã đi theo để tìm ra đức tin của mình? Ngươi muốn ám chỉ rằng, nếu ta tin những điều chúng tin thì ngươi sẽ tin ta, nếu không, ngươi sẽ tin mình chúng thôi! Quản hầm lắp bắp: - Thưa Ngài, con không nói thế. Ngài khiến con nói thế. Con sẽ tin Ngài, nếu Ngài dạy con điều tốt lành. - Quân xấc xược! – Bernard thét lên, giộng nắm tay lên bàn, - Ngươi ngoan cố nhắc lại từ trong ký ức những công thức mà chúng đã dạy ngươi trong giáo phái. Ngươi nói, ngươi sẽ chỉ tin ta nếu ta giảng dạy những gì mà giáo phái ngươi cho là tốt lành. Bọn Tông đồ giả danh đã trả lời như thế, và bây giờ ngươi cũng đối đáp hệt như thế, có lẽ một cách vô ý thức, vì từ miệng ngươi lại trào lên những lời lẽ mà ngày xưa ngươi đã được dạy để đánh lừa các phán quan. Thế nên chính miệng ngươi đã buộc tội ngươi, và nếu ta không dùng kinh nghiệm phán xử thì đã lọt bẫy ngươi rồi… Nhưng, này tên sa đọa kia, hãy đi vào vấn đề chính! Ngươi có bao giờ nghe nói đến Gherrardo Segarelli xứ Parma không? - Con có nghe nói đến người ấy, - Quản hầm đáp, mặt xanh lè, nếu người ta vẫn còn nhận được cái vẻ tái nhợt trên gương mặt tan nát ấy. - Ngươi có bao giờ nghe nói đến Fra Dolcino xứ Novara? - Con có nghe người ta nói đến. - Ngươi có bao giờ gặp mặt và nói chuyện với gã chưa? Quản hầm lặng đi vài giây, như thể đo thử hắn nên tiến bao xa khi khai ra một phần sự thật. Rồi hắn quyết định và yếu ớt cất tiếng: - Con đã gặp và nói chuyện với người ấy. Bernard hét: - Nói lớn lên! Hãy để một lời thực cuối cùng sẽ thoát khỏi miệng ngươi! Ngươi nói chuyện với gã khi nào? - Thưa Ngài, con lúc ấy là tu sĩ trong một tu viện gần Novara, bọn Dolcino tụ tập trong khu vực đó, và đi ngang tu viện của con, ban đầu không ai biết rõ chúng là ai… - Nói láo! Làm thế nào mà một tu sĩ Francisco xứ Varagine lại ở trong tu viện vùng Novara được chứ? Ngươi không ở trong tu viện, lúc ấy ngươi đã là một tên trong nhóm Anh em nghèo khó lang thang, sống nhờ của bố thí khắp vùng đó, và ngươi đã gia nhập bọn Dolcino! Quản hầm run rẩy nói: - Sao ngài lại khẳng định như thế chứ? - Ta sẽ cho ngươi thấy ta có thể, không, ta khẳng định điều đó như thế nào. – Đoạn Bernard ra lệnh đem Salvatore vào. Hình ảnh của kẻ bất hạnh ấy – kẻ đã bị Bernard đích thân hỏi cung suốt đêm, tuy không công khai, nhưng lại ác nghiệt hơn cuộc hỏi cung này – khiến tôi động lòng thương cảm. Như tôi đã tả, bộ mặt Salvatore bình thường trông đã dễ sợ, nhưng buổi sáng nay, nó càng giống loài thú hơn bao giờ hết. Mặc dù thân thể xiềng xích của gã lê đi không muốn nổi, chân tay lòng khòng loẻo khẻo, chẳng lộ vẻ gã đã chịu đựng bạo lực nào, nhưng cách bọn lính lôi gã đi xềnh xệch như lôi một con khỉ bị trói bằng thừng, cho thấy rất rõ cuộc hỏi cung kinh hoàng được tiến hành ra sao. Tôi thì thầm với thầy William. - Bernard đã tra tấn hắn… - Đâu có. Phán quan không bao giờ tra tấn, việc giam cầm, hành hình bị cáo luôn luôn được giao cho thế quyền. - Thì cũng thế thôi! - Không phải thế. Nó khác, vì tay của phán quan vẫn trong sạch, vì khi phán quan đến thì bị cáo đột nhiên tìm được nơi nương tựa làm dịu đi những vết đau, thế nên sẽ thổ lộ lòng mình. Tôi nhìn thầy, hoảng sợ nói: - Thầy chỉ đùa. - Đây là chuyện đùa sao? Bernard đang hỏi cung Salvatore, và ngòi bút của tôi không thể ghi lại những lời nói vụn vỡ của gã. Lời lẽ của gã rối loạn, hỗn độn như tiếng kêu của một con khỉ đầu chó, mọi người vất vả lắm mới hiểu nổi. Bernard dẫn dắt những câu hỏi, khiến Salvatore chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”, và do đó không thể nói dối được tí gì. Và, điều Salvatore nói thì quí độc giả cũng có thể hình dung dễ dàng. Gã kể, hay gã khẳng định những gì gã đã kể đêm nọ, một phần của câu chuyện tôi đã kết lại: những ngày lang thang của một tu sĩ Anh em nghèo khó, Chăn chiên, và Tông đồ giả danh, làm thế nào trong thời Fra Dolcino, gã đã gặp được Remigio trong nhóm này, rồi trốn theo hắn, tham gia trong trận chiến trên núi Rebello, và sau nhiều nỗi thăng trầm, đã trú ẩn trong tu viện Casale. Gã còn nói thêm rằng thủ lĩnh dị giáo Dolcino, khi gần thua trận bị bắt, đã ủy thác cho Remigio một số lá thơ để hắn mang đi đâu, đưa ai gã không biết. Remigio lúc nào cũng mang kè kè những lá thơ này bên mình, chẳng dám đưa cho ai, khi đến tu viện này, hắn sợ không dám giữ trong người nhưng cũng không muốn hủy chúng đi, nên đã ủy thác lại cho quản thư viện, vâng, cho Malachi, và người này phải giấu chúng nơi nào đó sâu kín trong Đại Dinh. Khi Salvatore nói, quản hầm căm ghét nhìn gã, và đôi khi không kìm lại được đã hét lên: - Đồ rắn rít, đồ quỉ dâm dục; ta là cha của ngươi, là bạn, là người che chở cho ngươi, mà nay ngươi đền ơn cho ta như thế đó! Salvatore nhìn người đã bảo vệ cho mình, giờ đang cần được bảo vệ, cố gắng nói: - Cha Remigio, khi có thể, con là người của cha… Nhưng cha biết, bọn đàn em của tên trưởng toán lính mà;… Remigio lại thét vào mặt gã: - Đồ điên! Ngươi tưởng tự cứu được mình hả? Ngươi có biết rồi ngươi cũng sẽ chết như một kẻ dị giáo không? Hãy nói những điều ngươi khai khi bị tra tấn chỉ toàn là bịa đặt đi! - Con không phải người có chữ nghĩa… Con phạm tội không có tà tâm, và Ngài Bernard cao quí biết mà, nhân danh Cha và con và các thánh thần, con mong Ngài bao dung… Phán quan đáp: - Chúng tôi sẽ bao dung trong giới hạn tòa cho phép, và sẽ khoan hồng xem xét thiện chí khai thật lòng của ngươi. Giờ hãy về phòng suy nghĩ thêm và tin vào ơn huệ của Chúa. Còn bây giờ, chúng ta hãy bàn đến một vấn đề có tầm quan trọng hoàn toàn khác. Này Remigio, thế là ngươi có mang theo mình vài lá thơ của Dolcino, và đã trao chúng cho tu sĩ anh em quản thư viện… - Không đúng. Không đúng! – Quản hầm la lên, tưởng như cách tự vệ vẫn còn hiệu quả. Nhưng Bernard đã cắt ngang: - Ngươi không phải là người phải khẳng định điều này đâu, người ấy sẽ là Malachi xứ Hildesheim. Bernard sai lính gọi Malachi đến, nhưng quản thư viện không có trong số những người đang hiện diện. Tôi biết Malachi hoặc đang ở trong phòng thư tịch, hoặc lảng vảng gần bệnh xá để lùng kiếm Benno và quyển sách. Khi lính đưa Huynh ấy đến, mặt Huynh phờ phạc và cố tránh nhìn mọi người. Thầy William buồn rầu lẩm bẩm: - Thế là bây giờ Benno tự do làm gì tùy thích. Nhưng thầy đã lầm. Tôi thấy Benno đang nghểnh cổ nhìn qua vai các tu sĩ đang chen chúc nhau quanh cánh cửa tiền sảnh để theo dõi cuộc hỏi cung. Tôi chỉ cho thầy William thấy. Chúng tôi nghĩ Benno còn tò mò muốn tìm hiểu các diễn biến đang xảy ra còn hơn cả quyển sách nữa. Về sau, chúng tôi mới biết, đến khi đó, Benno đã ngã giá xong một vụ trao đổi tồi bại. Malachi xuất hiện trước tòa, mắt không bao giờ chạm mắt quản hầm. Bernard nói: - Này Malachi, sáng hôm nay, sau khi nghe Salvatore thú tội đêm qua, ta đã hỏi xem Huynh có nhận được từ bị cáo hiện đang có mặt đây những thơ từ gì không… Quản hầm la lên: - Malachi! Huynh đã thề sẽ không làm gì hại tôi mà! Malachi xoay nhẹ về phía bị cáo, lúc ấy đang ở sau lưng, và nói, giọng trầm đến độ tôi vất vả lắm mới nghe ra: - Nếu tôi có thể làm gì đó để hại Huynh, thì việc đó đã được làm rồi. Các lá thơ đã được trao cho Ngài Bernard sáng nay, trước khi Huynh giết Severinus… - Nhưng Huynh biết, Huynh phải biết là tôi không giết Severinus! Huynh biết vì Huynh ở đó trước tôi mà! - Tôi ư? Tôi đến đó sau khi họ đã phát hiện Huynh. Bernard cắt ngang: - Cứ cho là như vậy đi Remigio, thế ngươi đang tìm gì trong phòng thí nghiệm của Severinus? Quản hầm hoang mang xoay nhìn thầy William rồi Malachi, rồi lại Bernard: - Nhưng, sáng hôm nay con… tôi nghe sư huynh William có mặt ở đây bảo Severinus canh giữ một số giấy tờ gì đó... và từ tối qua, khi Salvatore bị bắt, con e ngại những bức thư đó… Bernard đắc thắng reo lên:- Thế thì ngươi có biết về những lá thơ đó! Đến đây, quản hầm rơi vào bẫy. Hắn bị kẹt giữa hai sự lựa chọn: một là, minh oan cho tội dị giáo, hai là, xóa tan sự nghi ngờ đã giết người. Theo bản năng, hắn chắc hẳn đã quyết định chống chế tội thứ hai, thế nên hắn đang tìm cách tự bào chữa: - Con sẽ nói về những lá thơ đó sau… Con sẽ giải thích… Con sẽ kể làm sao tôi có được chúng… Nhưng hãy nghe con nói chuyện xảy ra sáng nay. Khi thấy Salvatore rơi vào tay Ngài Bernard, con nghĩ người ta sẽ bàn về những lá thơ đó, bao nhiêu năm nay rồi, mỗi khi nghĩ đến chúng, tâm can con lại bị dày vò… Rồi, khi nghe sư huynh William và Severinus nói về giấy tờ gì đó... biết nói sao... con kinh hoảng quá, nghĩ rằng Malachi muốn tống khứ chúng nên đã giao cho Severinus… Con muốn thủ tiêu chúng, nên đến chỗ Severinus… Cửa mở ngỏ và Severinus đã chết rồi, con liên tục lục lạo khắp đồ đạc để tìm các lá thơ… Con chỉ sợ rằng… Thầy William rỉ tai tôi: - Rõ ngốc, sợ tai họa này thì lao đầu vào tai họa kia… Bernard xen lời: - Cứ cho rằng ngươi đã khai gần hết sự thật, ta bảo gần hết thôi nhé. Ngươi tưởng Severinus đang giữ những lá thơ đó và lục tìm chúng trong phòng thí nghiệm. Tại sao ngươi nghĩ Huynh ấy giữ thơ? Tại sao ngươi lại giết các tu sĩ khác? Có lẽ ngươi nghĩ các lá thơ đó đã có lần chuyển qua tay những người này chăng? Có lẽ tu viện này có thói thu nhập tàn tích của bọn dị giáo bị hỏa thiêu chăng? Tôi thấy Tu viện trưởng giật bắn người. Không có gì tồi tệ bằng lời buộc tội đã gom góp các tàn tích của bọn dị giáo, và Bernard đã quỉ quyệt gán ghép các án mạng với tội dị giáo, và mọi chuyện khác với đời sống trong tu viện. Dòng suy nghĩ của tôi bị cắt đứt, vì quản hầm la lên rằng hắn không có liên quan gì đến các án mạng kia cả. Bernard nhẹ nhàng trấn an hắn: tạm thời, việc này không phải là điều họ đang bàn đến, họ đang hỏi cung Remigio về tội dị giáo, do đó hắn chớ nên đánh lạc hướng để người ta khỏi chú ý đến quá khứ dị giáo của mình bằng cách kể chuyện Severinus hay gieo ngờ vực cho Malachi. Thế nên hắn phải quay lại chuyện các lá thơ. Bernard nói với nhân chứng: - Malachi, ở đây Huynh không phải là bị cáo. Sáng nay, Huynh đã trả lời các câu hỏi của tôi theo yêu cầu, và không hề giấu diếm điều gì. Bây giờ, tại đây, Huynh hãy lập lại những điều đã nói ban sáng và chớ sợ hãi chi. Malachi nói: - Tôi xin lặp lại những điều đã nói sáng nay. Một thời gian ngắn sau khi Remigio đến đây, Huynh ấy lo quản nhà bếp, và chúng tôi thường gặp nhau vì nhiệm vụ - là một quản thư viện, tôi được giao trách nhiệm ban đêm đóng cửa Đại Dinh, và do đó cả nhà bếp nữa. Tôi không có lý do gì để phủ nhận tình bạn thân thiết giữa chúng tôi, và cũng không có lý do gì để ngờ vực người này, Huynh ấy bảo hiện đang giữ vài tài liệu bí mật, được người ta xưng tội ủy thác lại, những tài liệu này không được rơi vào bàn tay phàm tục và Huynh không dám giữ trong người. Vì tôi hiện đang quản nơi duy nhất trong tu viện cấm mọi người đến, Huynh nhờ tôi giữ các giấy tờ đó sao cho khỏi ai nhòm ngó. Tôi đồng ý, không hề nghi ngờ đó là các tài liệu dị giáo, khi cất chúng đi, tôi cũng chẳng hề đọc… Tôi cất chúng vào nơi sâu kín nhất trong các phòng bí mật của Thư viện, và sau đó quên bẵng đi cho đến sáng nay, khi Ngài phán quan đề cập với tôi các giấy tờ đó, thế là tôi đem chúng ra, trao lại cho Ngài… Tu viện trưởng nhíu mày, ngỏ lời: - Tại sao Huynh không báo cho Cha biết sự thỏa thuận giữa con và quản hầm? Thư viện đâu phải là nơi để tàng trữ những vật riêng của tu sĩ! – Tu viện trưởng làm sáng tỏ rằng việc này không liên quan đến tu viện. Malachi bối rối đáp: - Thưa Cha, con nghĩ việc ấy không quan trọng lắm. Con vô tình phạm tội. Bernard thân thiện nói: - Dĩ nhiên, dĩ nhiên rồi. Chúng ta thảy đều tin rằng quản thư viện đã hành động vì thiện ý, và sự thành thật hợp tác với phiên tòa này là bằng chứng cụ thể. Tôi thành tâm van xin Cha Bề trên chớ trừng phạt Huynh ấy vì một hành động thiếu cẩn trọng trong quá khứ. Chúng tôi tin Malachi, và yêu cầu Huynh ấy tuyên thệ xác nhận rằng, những giấy tờ tôi sắp trình ra đây là những giấy tờ Huynh ấy trao cho tôi sáng nay, do Remigio ủy thác cho Huynh ấy nhiều năm trước đây, sau khi hắn đến tu viện này. – Bernard trương lên hai mảnh da trong số giấy tờ nằm trên bàn. Malachi nhìn và xác nhận: - Tôi xin thề với Chúa Toàn Năng và Đức Mẹ Đồng Trinh và tất cả Thánh thần rằng, đó chính là các giấy tờ tài liệu, xưa nay đều y vậy. - Thế đủ rồi. Malachi, Huynh được phép lui. Ngay trước khi Malachi đi đến cửa, đầu cúi gầm, thì từ đám đông hiếu kỳ chen chúc phía dưới tiền sảnh, vang lên một giọng nói: - Đi giấu giùm thư cho người ta, rồi người ta dẫn xuống bếp cho xem đít tu sinh. Đây đó có người cười lên, Malachi vội vã đi ra, lấn người này, đẩy người kia. Tôi dám chắc đó là giọng Aymaro, nhưng Huynh ấy đã hét lên giọng the thé. Tu viện trưởng mặt đỏ nhừ, la lên ra lệnh yên lặng, đe dọa sẽ nghiêm khắc trừng trị mọi người, và đuổi họ ra khỏi tiền sảnh. Bernard cười ranh mãnh. Hồng Y Bertrand, ngồi ở một phía, cúi xuống thì thầm vào tai Jean d’Anneaux điều gì đó, Jean lấy tay che miệng và cúi đầu như thể đang ho. Thầy William bảo tôi: - Quản hầm không chỉ phạm tội dâm dục cho riêng mình, mà còn làm ma cô dắt mối nữa. Nhưng Bernard không cần đếm xỉa đến điều đó trừ phi nó khiến Tu viện trưởng, người trung gian của triều đình, phải ngượng ngùng… Thầy chưa nói dứt lời, Bernard đã hỏi thẳng: - Thưa Sư huynh William, tôi cũng rất quan tâm muốn biết Huynh và Severinus đang nói đến loại giấy tờ gì sáng nay thì Quản hầm nghe trộm và hiểu lầm. Thầy William nhìn trừng trừng lại: - Quả thực Huynh ấy hiểu lầm tôi. Chúng tôi đang nói đến một bản sao luận thuyết về Chó dại của Ayyub al–Ruhawi, một quyển sách vô cùng uyên bác mà hẳn Ngài đã biết tiếng và hẳn rất hữu ích cho Ngài. Ayyub nói bệnh chó dại có thể nhận ra nhờ hai mươi lăm triệu chứng hiển nhiên… Bernard, người theo dòng Dominic, tiếng la tinh là “Domini Canes” nghĩa là bầy chó của Chúa, nhận thấy đây không phải là lúc thích hợp để dấy lên một cuộc đấu khẩu khác, bèn nói ngay: - Như thế, việc này không liên hệ với nội vụ đang bàn cãi. – Và phiên xử tiếp tục: - Hãy quay lại với Sư huynh Remigio, này tu sĩ dòng Khất thực kia, ngươi còn nguy hiểm hơn một con chó dại. Nếu Sư huynh William mấy ngày vừa qua đã chú ý đến nước dãi của bọn phản giáo hơn nước dãi chó thì có lẽ Huynh ấy cũng đã phát hiện được con rắn độc nào đang làm ổ trong tu viện. Chúng ta hãy quay trở lại những lá thơ này. Bây giờ, chúng tôi biết chắc rằng những lá thơ ấy, trước đây, đã ở trong tay ngươi và ngươi cố tình giấu nhẹm chúng như một thứ độc hại nhất, và ngươi đã giết người – Bernard khoát tay, chận không cho Remigio phản đối. – Chúng ta sẽ nói chuyện giết người sau… ngươi đã giết người để chúng khỏi lọt vào tay ta. Ngươi nhận ra những tờ giấy này là sở hữu của ngươi chứ? Quản hầm không đáp, nhưng sự im lặng của hắn cũng đã đủ thừa nhận. Bernard nhấn mạnh: - Và những tờ giấy này là gì? Đây là hai trang viết tay, bút tích của thủ lãnh dị giáo Dolcino, vài ngày trước khi gã bị bắt. Gã ủy nhiệm chúng cho một đệ tử để đưa đến cho những kẻ khác trong giáo phái vẫn còn rải rác khắp nước Ý. Tôi có thể đọc cho quí vị nghe toàn bộ nội dung hai lá thơ, làm thế nào Dolcino, sợ ngày tàn của mình sắp đến, đã giao bức thông điệp hy vọng cho Quỉ sứ - theo lời gã nói với đồng bọn! Gã an ủi chúng, và mặc dầu những ngày tháng gã tuyên bố trong thơ này không trùng hợp với ngày tháng trong các thơ trước, như gã đã hứa năm 1305 rằng Hoàng đế Frederick sẽ tiêu diệt hoàn toàn các linh mục, thế nhưng gã vẫn khẳng định cuộc tiêu diệt này không còn bao xa. Một lần nữa, thủ lãnh dị giáo lại nói láo, vì từ ngày đó đến nay đã hơn hai mươi năm và sự tiên đoán ác đức này đâu thành sự thật. Nhưng chúng ta không cần bàn cãi đến những lời tiên tri lố bịch này, mà chỉ nói đến sự kiện Remigio là người lưu giữ chúng. Này tên tu sĩ dị giáo không chịu hối cải, ngươi vẫn còn chối không nhận đã giao lưu và chung sống với giáo phái của bọn Tông đồ giả danh chứ? Đến đây, quản hầm không phủ nhận được nữa, bèn nói: - Thưa Ngài, thời trai trẻ của con đầy rẫy những lỗi lầm ghê tởm nhất. Khi con học được những lời thuyết giảng của Dolcino, vì con đã từng bị các thầy dòng khổ hạnh quyến rũ, nên liền tin lời gã và gia nhập bè lũ của gã. Vâng, thực thế, con đã ở với chúng trong những vùng Brescia, Bergamo, Como và Valsesia, con cùng chúng trú ẩn trên đồi Núi Trọc, trong thung lũng Rassa, và cuối cùng trên núi Rebello. Nhưng con không bao giờ tham gia vào những hành vi đê hèn, và khi chúng bắt đầu vơ vét, khủng bố, thì con vẫn duy trì tinh thần ôn nhu, phẩm hạnh của bầy con Thánh Francisco. Chính trên núi Rebello, con đã bảo Dolcino rằng con cảm thấy không còn khả năng tham gia những trận đánh nữa, gã cho phép con về, và gã bảo không muốn có những tên hèn nhát theo gã, chỉ yêu cầu con mang hai lá thơ đến Bologna… - Trao cho ai? – Hồng y Bertrand hỏi. - Vài người cùng giáo phái với gã. Con nghĩ mình còn nhớ tên họ, và khi con nhớ con sẽ thưa Ngài hay. – Remigio vội vã xác nhận. Rồi hắn nêu lên vài tên mà Hồng Y dường như biết, vì Cha mỉm cười hài lòng và gật gù tán đồng với Bernard. - Tốt lắm, - Bernard nói và ghi lại những tên này, đoạn hỏi Remigio. – Thế sao giờ đây ngươi lại giao nộp tên các bạn bè của ngươi? - Thưa ngài, họ không phải bạn bè của con, và bằng chứng là con không trao thư cho họ. Thực tình là con đi xa hơn, và nay con xin khai thật điều mà con đã cố quên đi bao nhiêu năm nay: nhằm mục đích ra khỏi nơi đó mà không bị quân của Giám mục xứ Vercelli bắt, lúc ấy họ đang phục kích trên cánh đồng, con bèn xoay sở liên lạc với vài người của giám mục, và để đổi lấy một tờ giấy đi lại an toàn, con đã chỉ cho họ những lối tốt để tấn công thành lũy của Dolcino. Do đó một phần chiến công của binh đội của giáo hội là do con đóng góp… - Hay lắm. Điều đó cho thấy rằng ngươi không chỉ là một tên dị giáo mà còn là một thằng hèn nhát và phản bội. Nó không thay đổi được hoàn cảnh của ngươi đâu. Như mới đây, ngươi đã cố cứu mình bằng cách đổ tội cho Malachi, người đã giúp đỡ ngươi, rồi sau đó, để nhẹ tội, ngươi lại khai ra các đồng bọn của mình cho pháp luật. Nhưng ngươi chỉ phản bội lại thân xác, chớ không phản lời răn dạy của chúng. Ngươi giữ những lá thư này làm tàn tích, hy vọng một ngày nào đó sẽ có can đảm và cơ hội mà không phải liều mạng, để trao chúng đi, lấy lòng bọn Tông đồ giả danh. - Không, thưa Ngài, không, - quản hầm đầm đìa mồ hôi, tay run lẩy bẩy nói: - Không, con thề rằng… - Thề thốt! Lại thêm một bằng chứng khác về thủ đoạn lừa đảo của ngươi! Ngươi muốn thề vì hiểu rằng ta biết những tên dị giáo dòng Waldenses sẵn sàng giở trò hai mặt, thậm chí chịu chết nữa, chớ nhất định không chịu thề! Còn nếu hoảng sợ quá, chúng sẽ giả vờ thề thốt! Nhưng ta thừa hiểu người không thuộc giáo phái Kẻ Nghèo xứ Lyon, đồ cáo già độc ác! Và ngươi cố đánh lạc hướng, để ta không nhận chân được bản chất của ngươi! Ngươi thề phải không? Ngươi thề với hy vọng được giải tội, nhưng ta bảo cho biết: một lời thề không đủ đâu! Ta có thể đòi một, hai, ba, hàng trăm lời thề tùy thích. Ta thừa hiểu rằng bọn Tông đồ giả danh các ngươi tha tội cho những kẻ thà chịu thề giả chớ không phản bội giáo phái. Như thế, mỗi lời thề sẽ thêm bằng chứng cho tội của ngươi! - Thế thì con phải làm gì đây? – Quản hầm thét lên, quì sụp xuống. - Chớ có nằm mọp ra như một tên Beghard! Ngươi không phải làm gì hết. Lúc này, chỉ có mình ta biết việc phải làm – Bernard mỉm một nụ cười đáng sợ, nói. – Ngươi chỉ phải xưng tội. Xưng tội hay không xưng tội thì ngươi cũng sẽ bị đọa đày và lên án, vì ngươi sẽ bị trừng trị như một kẻ khai man. Thế thì ngươi hãy xưng tội đi, chỉ để rút ngắn cuộc hỏi cung đau đớn nhất này, nó đã làm tổn thương lương tri và lòng thương cảm của chúng ta! - Nhưng con phải xưng tội gì đây? - Hai tội: Thứ nhất, ngươi thuộc giáo phái của Dolcino, ngươi có chung những quan điểm dị giáo và có tham gia các hành vi nguy hại đến các giám mục và các thị trưởng, ngươi không hối cải mà còn tiếp tục duy trì những điều láo toét và hoang tưởng này, mặc dù tên thủ lĩnh dị giáo đã chết và giáo phái đã giải tán, tuy chưa hoàn toàn bị diệt tận gốc. Thứ hai, tâm can ngươi đã bị sa đọa vì những lối hành đạo trong giáo phái tanh hôi ấy, ngươi có tội đã gây ra những vụ rối loạn chống lại Chúa và con người trong tu viện này, vì những nguyên do ta chưa nắm được, nhưng cũng không cần nêu rõ ra đây làm gì, một khi chúng ta đã khẳng định rằng, tư tưởng dị giáo của những kẻ đã và đang thuyết giảng về sự cơ nghèo chống lại giáo huấn của Giáo hoàng và các sắc lệnh của Ngài, chỉ có thể dẫn đến các hành vi tội ác. Đó là điều một người sùng đạo phải nhớ, và thế là đủ. Xưng tội đi. Điều Bernard muốn thật quá rõ ràng. Không thèm lưu tâm tìm hiểu ai là thủ phạm giết các tu sĩ kia, hắn chỉ muốn vạch ra rằng Remigio bằng một cách nào đó, đã có chung các tư tưởng do các nhà thần học của Hoàng đế đưa ra. Và một khi hắn chỉ ra được mối liên hệ giữa các tư tưởng này – mà cũng là tư tưởng của Đại hội Perugia – với các tư tưởng của dòng Anh em nghèo khó và Dolcino, chỉ ra được một tu sĩ trong tu viện này đã theo đuổi tất cả những loại tư tưởng dị giáo đó và là thủ phạm của nhiều vụ sát nhân, thì hắn quả sẽ giáng một đòn trí mạng xuống đối phương. Tôi nhìn thầy William và biết thầy đã hiểu, nhưng không làm được gì, dù thầy đã tiên liệu tất cả. Tôi nhìn Tu Viện trưởng và thấy gương mặt Cha u ám: Cha đang nhận ra, dù muộn màng, rằng mình cũng bị lôi vào bẫy, và quyền lực của Cha trong vai trò trung gian đang thu hẹp dần, vì Cha sẽ xuất hiện như một vị Chúa đất, nơi tất cả tội lỗi của thế kỷ rủ nhau về. Còn quản hầm, hắn không biết mình còn có thể kêu oan về tội nào. Nhưng có lẽ lúc đó, hắn chẳng thể tính toán được nữa, tiếng khóc bật ra từ cổ họng hắn là tiếng khóc từ tâm hồn, trong đó trào tuôn bao năm trường lặng lẽ ăn năn. Hay là, sau một cuộc đời vô định, nhiệt tình và vỡ mộng, hèn nhát và phản bội, nay đối mặt với một ngày tàn không tránh khỏi, hắn quyết định sẽ bộc lộ đức tin hồi thanh xuân của mình, chẳng cần thắc mắc xem nó đúng hay sai nữa, mà chỉ tự chứng minh rằng hắn còn đức tin. Hắn hét lên: - Phải rồi. Con cùng ở với Dolcino, cùng tham gia các tội ác và sự phóng đãng của gã, có lẽ con điên rồ, con lẫn lộn lòng yêu Chúa Ki-tô với khao khát tự do và sự thù ghét các giám mục. Đúng là con đã phạm tội, nhưng con không biết về mọi việc xảy ra trong tu viện. Con thề! - Tạm thời chúng ta đã đạt được vài kết quả, vì ngươi công nhận đã theo bọn dị giáo Dolcino, mụ phù thủy Margaret và đồng bọn của ả. Ngươi có nhận đã ở với chúng gần Trivero, khi chúng treo cổ nhiều tín hữu Thiên chúa giáo trung thành, kể cả một đứa trẻ mười tuổi vô tội hay không? Khi chúng treo cổ nhiều người khác trước mặt cha mẹ, vợ con họ, vì họ không tuân theo ý muốn của lũ chó đó không? Lúc đó, vì ngươi bị cơn cuồng nộ và lòng kiêu hãnh mù quáng nên nghĩ ai không thuộc cộng đồng của bọn ngươi sẽ không được cứu rỗi, có phải không? Nói đi! - Phải, con tin như vậy và đã làm như vậy! - Và ngươi có mặt khi chúng bắt các môn đệ của giám mục và bỏ họ chết đói trong ngục, khi chúng chặt bàn tay, cánh tay một phụ nữ đang có bầu, bỏ mặc bà ta sinh ra một đứa trẻ không được rửa tội, chết liền sau đó? Ngươi cùng với chúng phóng hỏa và san bằng các làng ở Mosso, Trivero, Cossila, Clecchia và nhiều địa phương khác trong khu vực Crepacorio, nhiều nhà ở Mortiliano và Quorino, chúng đốt nhà thờ ở Trivero, sau khi đã làm ô uế các hình thiêng liêng, đập phá mộ bia trên bàn thờ, bẻ gãy cánh tay của tượng Đức mẹ Đồng trinh, cướp đi lọ, chén thánh, sách vở, phá hủy tháp chuông nhà thờ và đoạt mọi của cải của các linh mục? - Phải phải, con có ở đó và bọn con lúc đó chẳng ai biết mình đang làm gì, chúng con muốn báo trước giờ phút trừng phạt, chúng con là những người tiên phong của Hoàng đế, được trời phái xuống để thúc đẩy sự hạ giới của thiên thần yêu thương, khi đó hết thảy sẽ hưởng được ơn huệ của Thánh linh và Giáo hội sẽ được canh tân, sau khi tiêu diệt mọi kẻ sa đọa, thì chỉ còn những người hoàn thiện cai trị! Quản hầm dường như vừa bị hớp hồn vừa được soi sáng, vẻ im lặng, giả vờ như đã tan vỡ, quá khứ của hắn quay về, không chỉ qua lời nói mà còn bằng hình ảnh nữa, hắn đang sống lại những cảm xúc xưa kia đã khiến hắn hưng phấn. - Và ngươi đã đốt phá cướp bóc của cải của các người Thiên chúa giáo lương thiện! - Chúng con đốt phá cướp của vì đã tuyên bố cái nghèo vì chân lý chung, và có quyền chiếm đoạt của bất chính của kẻ khác. Chúng con muốn đánh vào tận trung tâm của mạng lưới tham lam phát triển từ giáo phận này sang giáo phận kia. Nhưng chúng con không bao giờ cướp của để sở hữu, hay giết người để cướp của, chúng con chỉ giết để trừng phạt, để lấy máu tẩy sạch những gì không thanh khiết. Chúng con cũng phải giết những người vô tội để giết được hết lẹ hơn. Chúng con muốn một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới hòa bình, ngọt ngào, hạnh phúc cho tất cả mọi người, chúng con muốn thủ tiêu cuộc chiến mà lòng tham của các người đã mang đến, vì các người đã nhiếc mắng chúng con gây đổ máu… để thiếp lập công lý và giành hạnh phúc… Thực sự cũng không tốn bao nhiêu, vội vã quá và cũng đáng để nhuộm đỏ nước Carnasco ở Stavello ngày ấy, chúng tôi cũng đổ máu nữa chứ, chúng tôi có tiếc gì thân mình đâu, máu các người, máu chúng tôi, cần thật nhiều, cần ngay, thời tiên tri của Dolcino đã kề rồi, chúng tôi phải thúc đẩy chuỗi sự kiện tiến nhanh. Toàn thân hắn run lẩy bẩy, hắn chà xát đôi tay vào áo dòng như muốn chùi sạch máu đang nhớ lại. Thầy William bảo tôi: - Tên háu ăn đã trở nên trong sạch. Tôi hoảng hốt hỏi: - Thế này là sự trong sạch à? - Cũng có những loại khác nữa, nhưng dù loại nào đi nữa, nó luôn làm thầy sợ. - Trong sự trong sạch điều gì làm thầy sợ nhất? - Sự vội vã. Tiếng Bernard vang lên: - Đủ rồi, đủ rồi. Chúng tôi muốn nghe ngươi xưng tội, chớ không phải nghe hô hào tàn sát. Quả thực, không chỉ xưa kia ngươi theo dị giáo: nay ngươi vẫn là tên dị giáo. Không chỉ trước đây ngươi giết người: giờ ngươi lại là tên sát nhân. Nào, hãy khai ngươi đã giết các tu sĩ anh em trong tu viện này như thế nào, và tại sao? Quản hầm thôi run rẩy, hắn dáo dác nhìn xung quanh như vừa sực tỉnh con mơ: - Không. Con chẳng liên quan gì đến các án mạng trong tu viện. Con đã khai hết những gì con làm: chớ ép con khai những gì con không làm… - Nhưng còn việc gì mà ngươi chẳng thể làm được? Ngươi định nói mình vô tội ư? Ôi con cừu non, ôi biểu tượng của hiền dịu! Quí vị nghe hắn chứ: Kẻ ngày xưa tay nhúng trong vũng máu bây giờ lại vô tội! Có lẽ chúng ta đã nhầm, Remigio là một mẫu mực về đạo đức, một người con trung thành của Giáo hội, một kẻ thù của Kẻ thù của Chúa, Huynh ấy luôn tôn kính trật tự mà bàn tay của Giáo hội đã vất vả dựng lên trên các làng mạc, thị thành, nền an cư lạc nghiệp, tiểu thủ công nghệ và các kho tàng của nhà thờ. Huynh ấy vô tội, và chẳng hề phạm một tội ác nào. Này Sư Huynh Remigio, hãy đến đây cho ta ôm vào lòng, để ta an ủi Huynh đã bị lũ ác buộc tội! Khi Remigio sững sờ nhìn Bernard như thể đột nhiên tin vào lời giải tội cuối cùng, Bernard đanh mặt như cũ và cao giọng ra lệnh cho trưởng toán lính: - Ta ghê tởm những biện pháp mà Giáo hội luôn lên án khi thế quyền sử dụng chúng. Nhưng có một luật pháp thống trị và chi phối ngay cả các cảm xúc riêng tư của ta nữa. Hãy xin Tu viện trưởng dành cho một chỗ để đặt các dụng cụ khảo hình. Đừng có tiến hành ngay. Giam hắn trong phòng ba ngày, xiềng tay chân lại. Rồi cho hắn xem các dụng cụ ấy. Chỉ cho xem thôi. Đến ngày thứ tư hãy tiến hành. Công lý không được thực hiện vội vã, như bọn tông đồ giả danh vẫn tin, mà công lý của Chúa có hàng nhiều thế kỷ để ung dung thi hành. Hãy tiến hành chậm rãi, từng chút một. Và hơn hết, hãy nhớ đến lời ta vẫn dặn đi dặn lại: Tránh gây tàn tật hay tử vong. Một trong những lợi ích mà phương pháp này ban cho phạm nhân chính là người ấy mong được chết, nhưng cái chết sẽ không đến trước khi người ấy tự nguyện khai hết, khai sạch mọi tội lỗi. Lính cúi xuống nhấc quản hầm lên, nhưng hắn trụ chân trên đất và quơ quào phản kháng, ra hiệu muốn nói. Khi được phép, hắn cất tiếng, nhưng tiếng nói cứ lúng búng trong họng như một gã say lầu bầu và nghe như có cái gì tục tĩu trong đó. Dần dần hắn mới lấy lại vẻ hăng tiết của lúc xưng tội ban nãy. - Không, thưa ngài. Không, xin chớ tra tấn. Con là một thằng hèn nhát. Mười một năm trong tu viện này con đã phản bội, đã phủ nhận đức tin ngày xưa. Con lo thu thuế của nông dân và người trồng tỉa, chăm nom chuồng ngựa, chuồng heo để đàn gia súc tăng lên làm giàu cho Tu viện trưởng, con sẵn sàng tham gia việc điều hành cái cơ ngơi của tên phản giáo này. Con đã làm giàu lên và quên đi những ngày nổi loạn cũ, con đắm mình trong thú ăn uống và những thú vui khác nữa. Con là một thằng hèn. Hôm nay con đã bán những người anh em cũ của mình ở Bologna, rồi lại bán Dolcino. Là một thằng hèn, giả dạng một thập tự quân, con đã chứng kiến cảnh Dolcino và Margaret bị bắt vào ngày chúa nhật và bị dẫn đến tháp Bugello. Con đã lang thang ở Vercelli ba tháng trời đến khi có thơ của Giáo hoàng Clement tuyên án tử hình. Con đã chứng kiến cảnh Margaret bị cắt thành từng mảnh ngay trước mắt Dolcino, khi bị mổ ruột, nàng thét rống lên, ôi thân thể tội nghiệp mà một đêm nọ con cũng đã chạm tay vào… Khi cái xác nát bấy của nàng bị thiêu đốt, thì chúng nhào vào Dolcino, dùng kẹp hun nóng rứt mũi, rứt hòn dái của ông. Về sau, người ta nói ông không rên la một tiếng là không đúng đâu. Dolcino to cao, có bộ râu rậm của quỉ, mái tóc đỏ chảy lọn xuống đến xương bả vai, khi lãnh đạo thì thật là hùng dũng, phương phi, đầu đội mũ rộng vành có gắn lông chim, lưng giắt gươm bên ngoài áo dòng. Dolcino khiến đàn ông khiếp hãi và đàn bà hét lên vì khoái lạc… Nhưng khi bị tra tấn thì ông cũng đau đớn rống lên như một mụ đàn bà, một con bò cái, khi chúng ném ông từ góc này sang góc kia thì các vết thương ông chảy máu ròng ròng và chúng cứ tiếp tục ray rứt ông, cho ông thấy một phái viên của Quỉ có thể sống được bao lâu. Ông muốn chết và bảo chúng kết liễu mạng mình cho rồi, nhưng ông chết muộn quá, mãi đến khi lên giàn hỏa rồi và chỉ còn lại một đống thịt bấy máu. Con đi theo và mừng là mình đã thoát nạn, tự hào mình khôn khéo, thằng côn đồ Salvatore cũng đi cùng, gã nói: Sư huynh Remigio, chúng mình sao khôn quá, chẳng có gì ghê tởm hơn tra tấn! Hàng bao nhiêu năm nay, con đã nhủ thầm sao mình tồi quá, và mừng sao mình đã tồi như vậy, thế nhưng con vẫn luôn hy vọng được chứng tỏ mình không đến nỗi hèn. Thưa Ngài Bernard, hôm nay ngài đã ban cho con sức mạnh, ban cho con sự can đảm để khai ra đức tin trong hồn con khi xác con lìa nó. Nhưng xin đừng bắt con can đảm hơn, con cũng chỉ là người trần mắt thịt. Xin đừng tra tấn con. Con sẽ khai bất cứ điều gì Ngài muốn. Cho con lên giàn hỏa ngay còn hơn vì con sẽ chết ngạt trước khi chết thiêu. Xin chớ tra tấn con như Dolcino. Xin đừng. Ngài muốn một xác chết, và như thế ngài cần con nhận tội cho những cái thây kia. Dầu sao, sớm muộn gì con cũng ra ma rồi. Vì vậy, con sẽ nói điều Ngài muốn. Con đã giết Adelmo vì thù ghét tuổi thanh xuân và cái giọng giễu cợt của hắn cứ chế giễu những con quái vật già nua béo mỡ, ngu dốt như con. Con giết Venantius vì hắn giỏi quá và cứ đọc những quyển sách mà con chẳng hiểu gì sất. Con giết Berengar vì ghét cái thư viện của hắn, con chỉ nghiên cứu thần học bằng cách đập dùi cui vào đầu những tên linh mục phì nộn. Con giết Severinus… tại sao nhỉ? À, tại vì hắn sưu tập cây thuốc hoài, một kẻ như con, hồi ở núi Rebello, cứ ăn cây thuốc, cỏ, lá, mà có thắc mắc gì về chất loại của chúng đâu. Nói thực, kể cả Tu viện trưởng: Cha thuộc về phe Giáo hoàng hay nhà vua đi nữa thì cũng vẫn là kẻ thù của con, con lúc nào cũng ghét lão, dù lão có nuôi con đi nữa thì cũng chính vì con đã nuôi lão. Như thế đã đủ cho Ngài chưa? À, chưa hả, Ngài còn muốn biết con giết hết thảy bọn đó như thế nào ư?... Ừ, con giết họ… để xem nào… bằng cách triệu tập các thế lực quỉ quái, với hàng ngàn đạo âm binh, tập hợp dưới quyền điều khiển của con nhờ tài nghệ mà Salvatore đã chỉ lại. Giết người đâu cần phải xuống tay. Quỉ sẽ làm việc đó, nếu mình biết cách ra lệnh cho chúng. Hắn tinh quái liếc nhìn những người tham dự, vừa liếc vừa cười phá lên. Những tiếng cười của hắn bây giờ là tiếng cười của một kẻ điên, dù như thầy William sau này đã chỉ cho tôi thấy, gã điên này cũng đủ trí khôn để kéo luôn Salvatore vào tròng với gã để trả thù tội phản bội. - Thế ngươi ra lệnh cho Quỉ như thế nào? - Bernard xem lối lảm nhảm này như một lời khai trước pháp luật, bèn hỏi riết theo. - Chính Ngài phải biết chứ: chẳng lẽ Ngài đi với ma bao năm nay rồi mà không biết mặc áo giấy! Chính Ngài phải biết chứ, hỡi tên đồ tể của Tông đồ! Mày lấy một con mèo đen tuyền, phải không, cột bốn chân nó lại rồi nửa đêm đem nó đến ngã ba đường, gọi lớn lên: Hỡi ác quỉ Lucifer vĩ đại, hỡi Diêm vương, ta gọi mời ngươi về xâm nhập vào xác của kẻ thù ta như ta đang giữ chặt con mèo này đây, vì nếu ngươi giết chết được kẻ thù của ta thì nửa đêm ngày hôm sau, cũng tại chỗ này, ta sẽ tế ngươi con mèo này, và ngươi sẽ làm theo lệnh ta dưới quyền lực của những ma thuật mà ta đang áp dụng theo sách mật của Thánh Cyprian, nhân danh tất cả các ma vương thống lĩnh âm binh, Adramelch, Alastor, và Azazel; những ma vương ta đang cầu đây, cùng với bầy quỉ đầu trâu mặt ngựa của chúng… Môi Remigio run bần bật, mắt như muốn lọt khỏi tròng, và dường như đang cầu nguyện, nhưng hắn gởi lời van cầu của mình đến toàn thể lũ ma vương thống lãnh âm binh. - Tôi bị xua đuổi, hãy chịu tội cho chúng tôi: - Amen, xin thương xót chúng tôi… Samael, xin hãy cứu chúng tôi khỏi điều thiện… Belial, hãy xót thương… Focalor, hãy nhằm vào sự sa đọa của tôi… Haborym, Mẹ kiếp Chúa… Zaebos, banh đít ta ra… Leonard, hãy vảy tinh trùng lên người ta để ta trở thành ô uế… (2) - Thôi đi! Thôi đi! – Mọi người trong phòng thét, đưa tay làm dấu thánh giá. – Ôi chúa, xin thương xót tất cả chúng con! Quản hầm im lặng, sau khi thốt lên tên của bọn ác quỉ đó, hắn ngã sấp mặt xuống, răng nghiến chặt, môi giật giật, miệng sùi dãi trắng xóa. Đôi tay hắn, dù đã bị xiềng đau đớn, cứ co giật mở ra nắm vào, còn chân thì cứ đá lung tung vào khoảng không. Thấy tôi run rẩy bấn loạn vì sợ hãi, thầy William đặt tay lên đầu tôi và gần như túm lấy gáy tôi, nhấn xuống, bắt trấn tĩnh lại. Thầy nói: - Con thấy chưa? Khi bị tra tấn hoặc bị đe dọa sẽ chịu tra tấn, người ta không chỉ khai ra những tội đã làm, mà cả những việc người ấy có thể làm, mặc dù chẳng hề biết đến chúng. Bây giờ Remigio thực tâm chỉ muốn chết. Bọn lính lôi quản hầm đi, người hắn vẫn còn co giật. Bernard thu nhặt giấy tờ. Rồi hắn ngồi nhìn trừng trừng vào những người có mặt, tuy bất động nhưng lòng rất bồn chồn bất an. - Cuộc hỏi cung đã chấm dứt. Bị cáo đã tự buộc tội mình và sẽ bị giao về Avignon để đưa ra xử lần cuối cùng, nhằm thận trọng thực hiện sự bảo vệ công lý và sự thật. Chỉ sau khi kết thúc phiên tòa theo nghi thức này, hắn mới bị hỏa thiêu. Thưa Tu viện trưởng, hắn chẳng còn thuộc quyền Cha nữa cũng chẳng còn thuộc về con, một công cụ hèn mọn của sự thật. Việc thi hành công lý sẽ xảy ra ở nơi khác, các người chăn chiên đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, nay chó canh sẽ tách con cừu ghẻ ra khỏi bầy và dùng lửa tẩy sạch nó. Thời kỳ đau thương chứng kiến gã này phạm những tội ác tày đình đã chấm dứt. Xin cầu mong tu viện được sống yên lành. Nhưng trần gian – đến đây Bernard cao giọng quay sang nói với các sứ giả, - vẫn chưa có hòa bình. Trần gian bị bọn dị giáo dày xéo, chúng trú ẩn ngay trong Cung vua! Xin các Sư Huynh nhớ điều này: Cái đai ác quỉ (3) đã buộc các giáo hữu sa đọa của Dolcino vào những vị thầy danh dự của Đại hội Perugia. Chúng ta chớ quên: dưới mắt Thượng đế, những lời điên loạn lảm nhảm của kẻ khốn nạn mà ta vừa trao lại cho công lý cũng chẳng khác gì lời của những vị thầy ngồi ăn tiệc tại bàn của gã người Đức xứ Bavaria đã bị tước phép thông công. Nguồn cội phát sinh bọn dị giáo độc ác nảy nở từ nhiều lối thuyết giảng, dù được kính trọng nhưng vẫn chưa bị trừng phạt. Chúng ta biết rằng kẻ công khai theo dị giáo không phải là loại dị giáo duy nhất – Có thể phân biệt những kẻ ủng hộ dị giáo nhờ năm biểu hiện. Thứ nhất, những kẻ bí mật thăm nom bọn dị giáo bị giam cầm. Thứ hai, những kẻ thương tiếc khi chúng bị bắt và đã từng là bạn thân của chúng. Thứ ba, những kẻ tuyên bố bọn dị giáo đã bị kết án không công bằng, mặc dầu tội chúng đã rành rành. Thứ tư, những kẻ ngờ vực và chỉ trích người xử bọn dị giáo, và đã thành công khi thuyết giảng chống lại người ấy, điều này có thể phát hiện từ ánh mắt, cái nheo mũi, và những cử chỉ chúng cố giấu. Cuối cùng, biểu hiện thứ năm là chúng thu nhặt xương tàn của bọn dị giáo bị hỏa thiêu và tôn kính nắm xương này… Nhưng, tôi cũng xem biểu hiện thứ sáu là vô cùng quan trọng: tác giả của những quyển sách, trong đó bọn phản giáo tìm ra những tiêu đề để áp dụng tam đoạn luận theo kiểu sa đọa của chúng cũng ra mặt là bạn của bọn phản giáo. Khi nói lời này, Bernard nhìn Ubertino trân trân. Tất cả phái đoàn Pháp đều hiểu rõ Bernard muốn ám chỉ gì. Giờ đây, cuộc họp đã thắt lại, chẳng ai dám tiếp tục cuộc tranh luận ban sáng, vì thừa hiểu mỗi một lời nói ra sẽ bị cân đong dưới ánh sáng của những biến cố khủng khiếp vừa qua. Nếu Giáo hoàng đã phái Bernard đến đây để ngăn chặn sự hòa giải giữa hai nhóm, thì hắn đã thành công. Chú thích: (1) Sancta Romana (2) Abigor, pecca Pro nobis… Amon, miserere nobis… Samael, libera nos a bono… Belial eleison… Focalor, in corruptionem meam intende… Hyborym, damnabus dominam… Zaebos, anum menum aperies… Leonard, asperge me spermate tue et inquinabor… (3) Cingulum diaboli