Muà xuân năm 1992 ở làng Nhống nằm dọc bờ sông Nhị sao ấm lạ.
Buổi sáng mưa xuân bay mờ cánh đồng nhưng mưa mà như sương. Vài người đàn bà tham công tiếc của mò ra đồng từ sớm nhặt những bông lúa  rơi rụng của vụ gặt trước,  mặc độc có  mỗi chiếc áo cánh mà vẫn chẳng biết rét. Loáng một cái nắng lên.  Ai đời đã  sắp giữa tháng giêng  mà những cành đào trong nắng vẫn  tươi roi rói.
tắc lưỡi bảo cái Loan, con gái của cụ như thế.  Dân làng Nhống, từ  lâu mải đánh vật với con dốc  cơm áo  đến cơ hồ quên bẵng ông Giời, cũng muốn tin là thế.
Không có Giời, hà cớ gì nhà nước cách đấy hai tháng lại lệnh cho Ủy ban  nhân dân xã  tập trung sức người sức của chuẩn bị mở hội làng vào dịp rằm tháng giêng sắp tới?
Cái nhánh tập tục khốn khổ đó của đại thụ văn hiến lẫy lừng Âu Lạc, từng suốt nửa thế kỷ bị  lầm lỗi của con người liên tục đè ra đốn chặt, nếu chẳng nhờ cơn Thiên hoa vũ phép tích Trời ban  - cụ Tú và những người dân  làng Nhống tự hỏi - làm sao nó có thể hồi sinh cho được?
Và nếu cũng chẳng được Giời ban tặng khí hậu  ấm  áp ngàn năm một thưở ngay ở cái tháng trọng đông và dịp đầu xuân năm 92, việc tổ chức lễ  hội trong hoàn cảnh giật gấu vá vai của một thôn làng miền Bắc xơ xác sau chiến tranh ắt khó mà diễn tiến suông sẻ như thế được.
Lúc thoạt được tin, người làng Nhống cứ là tròn xoe mắt ra mà nhìn nhau. Mãi đến khi Ủy ban làng cho người  mời cụ Tú, một bô lão cao tuổi và biết thấu đáo những tập tục xa cũ lên tham vấn để tổ chức một hội xuân sao cho thật  đậm đà bản sắc dân tộc nhằm thu  hút khách Việt kiều, mọi người  lúc ấy mới  à lên một tiếng ngạc nhiên  pha lẫn  thích thú.
Hôm hoàn tất việc trùng tu ngôi đình dùng làm nơi tổ chức hội làng, mọi người ai cũng mệt phờ  sau những ngày dân công tự nguyện, nhưng mệt mà vui. Lâu lắm rồi, ai trong số họ lại chả mong có được một  chốn thiêng liêng gởi gấm điều cầu ước? Vài kẻ  nhanh miệng ngay cả  thì thầm  nếu ngôi đình được trùng tu sớm để vị Thần Hoàng có nơi che mưa tránh nắng sớm hơn,  mùa vải độ hè rồi đã chẳng bị  trận  rét đột ngột khiến héo rũ  khi còn xanh và đàn tu hú  cũng chẳng bỏ bến sông bay đi  mà chưa một lần hít hà hương vải chín.
Lễ cúng Thần Hòang diễn ra thật cảm động, đáng nhớ! Từ sớm, tiếng lợn kêu, tiếng dao chạm thớt, lẫn với tiếng các cô thôn nữ  ơi ới gọi nhau ra đình nấu cỗ  làm sống lại một thời chưa xa nhưng mù mịt, thăm thẳm.
 
và  dăm ba chiếc váy xồi bạc phếch  lác đác  đây đó  càng khiến ngôi đình âm vang hơn tiếng kêu rên của  quá vãng nghiệt ngã, khốn khổ.
đang sì sụp hành lễ là cụ Tiên chỉ. Ông chủ tịch xã biến thành viên Chánh tổng. Chỉ còn thiếu bác L‎‎ý trưởng ông Chánh hội, một số hương chức, và lũ nhiêu nữa là đủ  bộ hương chức  của một thời “phép vua thua lệ làng” ngày nào. 
Ở cái khoảnh khắc mà mọi xao động thế thời tạm thời loãng thoát giữa lớp sương khói hoài niệm nao lòng đó, những cụ già làng Nhống hôm nay cũng là những thanh niên bồng bột làng Nhống năm muơi năm trước bỗng ngộ  ra  vài điều mà  trước đấy, họ chẳng bao giờ nghĩ đến.
 Rằng quá vãng cùng những con người của quá vãng đâu thuần chỉ rặt một ruộc đáng ghét, đáng phỉ nhổ, và vĩnh viễn cần chối bỏ.
 
Rằng trên bức tượng đài  lịch sử vốn dĩ  bất khả toàn mỹ và  bất khả đổi sửa do giòng chảy năm tháng khắc định cho mọi dân tộc chủng nòi, mọi việc làm mà các thế hệ quá khứ  hiện tại cũng như  tương  lai đã đang và sẽ “nặn khắc” một cách vô thức ở trên ấy,  luôn luôn có những chỗ  trông được mắt xen lẫn với những góc cạnh nom  chướng mắt khó nhìn.
 Kẻ xấu và người tốt cũng như việc xấu lẫn việc tốt, nói cách khác,  ở thời nào nơi nào và  ở bất cứ lãnh vực nào cũng có. Cho nên nếu khẳng định  một xã hội hoặc một thời đại  nào đấy là hoàn toàn xấu hoặc hoàn toàn tốt, thì ngay từ gốc rễ, điều sai lầm cốt lõi này ắt phải đẻ ra một “nhân quả trùng điệp” những sai lầm tai hại và đáng tiếc khác nữa.
Đứng lẫn với đám đông theo dõi buổi lễ ở ngoài sân, cái Loan may mắn chả phải bận tâm đến điều  vừa nói.  Vốn  là một thôn nữ đương tơ,  nó chỉ nhấp nhổm nhớ đến cái hẹn tối nay với ông giáo Hợp.
ban tổ chức lễ hội  cẩn thận bầy thêm chiếc ghế phó cố vấn  cho thầy Hợp ngồi để  nếu  có gì còn  lọt sàng xuống nia  cho chắc.
Cụ Tú với  thầy Hợp  ngày nào cũng gặp nhau  ở nhà của cụ để bàn bạc việc tổ chức hội làng. Lần đầu tiên trông thấy cái Loan, ông giáo Hợp thiếu điều tối tăm mặt mũi.
nữa thì Hợp ta rõ ràng chịu hết xiết.
Quả đúng là cái t‎ýp phụ nữ mà từ lâu, ở một góc hồn xa ngái nào đấy, và vào những buổi chiều xám rét lủi thủi đạp xe trên đường từ trường học trở về căn nhà trọ, Hợp  đã và vẫn không ngừng khát khao trông đợi.
 Sau hôm ấy, ông giáo ghé  hầu chuyện cụ Tú chăm chỉ  hơn, ăn mặc chải chuốt hơn, rất chịu khó quết bi-ăng-tin lên tóc, và hôm nào cái Loan bận việc gì không ra rót nước mời khách được,  hôm ấy Hợp thẫn thờ thiếu điều ruôi đậu không buồn đuổi cả ngày.
Trót phải-lòng hàm thụ con bé  kỹ quá,  nhiều lúc Hợp đâm ra ngạc nhiên vì sự thay đổi của chính mình. Trước kia  đúng với tác phong  sư phạm, thầy Hợp bao giờ mà lại chả đạo mạo nghiêm nghị một cách rất ư ông cụ non?  Thế mà bây giờ không hiểu sao cái nhà  ông cụ non ấy lại rất  hay  mỉm cười vu vơ, hay nói lảm nhảm một mình,  chưa kể  thỉnh thoảng còn cao hứng  hu‎ýt saó miệng những khúc hát trai lơ một cách rất  thái bình náo nhiệt ở  ngay trước mặt lũ học trò mới lạ.
Cũng ở trước mặt học trò, thầy Hợp muốn nói là nói  muốn quát là quát, song hễ nhác thấy bóng dáng cái Loan, quả tim  ông giáo  tự nhiên lại đập  bổ nháo  bổ nhào  như trống ngũ liên, cùng lúc nhưng câu tình tứ  mà  Hợp từng dầy công khổ luyện để mong có dịp “phổ biến ” vào tai  cô nhỏ, tự dưng chém vè đi đâu mất cả.
Chả trách mỗi lúc nhìn cảnh  bọn trai làng vô tư tán tỉnh các cô thôn nữ, hoặc cười đùa  ầm  ỹ thống khoái  trước mặt lũ con gái, Hợp  bao giờ cũng vừa khinh bỉ tức giận và vừa thán phục thèm thuồng.
Thoạt đầu cậu giáo còn bĩu  môi chê rằng:  Nào có hay hớm gì cái bọn cổ cầy vai bừa ấy cơ chứ? Chúng nó chỉ đuợc cái suồng sã  vô duyên và pha trò nham nhở, vô giáo dục trước mặt lũ gái làng thất học là giỏi.
thì  cuộc tình câm của bạn may ra  mới có triển vọng biến thành cuộc tình bình thường của mọi người  bình thường khác được.
Vì chẳng thể muối mặt đi học mót lũ trai làng câu “thần chú” để  mở cửa chiếc lồng son cho con chim xanh tình ái bay đến đậu ở tim mình, thầy  Hợp chỉ còn mỗi một cách là viết thư  “tấn công” con bé từ xa.
Nhờ phước phần ông bà để lại, cái Loan nhận thư và phúc đáp  thư ông giáo Hợp thật  nhanh, chứ không  sẵn cái máu tự ái đầy người lại là tổ  hay cả thẹn,  Hợp ta  dám tự nguyện …lưu đày biệt xứ vì tình lắm lắm chứ chẳng phải chuyện đùa đâu.
Một hôm ghé thăm cụ  Tú, lại  gặp lúc Loan đang xắn quần khỏi đầu gối đứng vớt bèo cho lợn ăn ở cái ao bên hông nhà, quả tim “yếu bóng vía” của ông  giáo su‎ýt  tí nữa  chu du khỏi lồng ngực khiến mặt ông cắt không còn hột máu.
Cụ Tú, khi ông giáo bước vào phòng khách, thấy thế sợ qúa bèn hét ầm lên:
- Cái Loan đâu rồi?  Có nhanh chân mang ra đây cho thầy lọ dầu hay không? Ông giáo…. phải gió con ạ.
Hợp mới hoàn hồn vì  biết cụ  Tú tưởng Hợp trúng gió thật chứ chả phải cụ có ‎‎‎ ý nhiếc gã là thằng phải gió.
Mỗi lần viết thư cho Hợp sau đấy, bao giờ Loan cũng tinh nghịch bắt đầu bằng câu: Thưa ông giáo phải gió. Ông giáo dĩ nhiên chả giận cái Loan đâu.  Một cảm giác vừa êm dịu  vừa nồng ấm lan toả khắp châu thân làm lòng ông xuyến xao như vừa tợp xong hớp rượu mạnh.  Dõi mắt nhìn ra cửa sổ, Hợp hình tưởng  nụ cười hể hả của cô nhỏ rồi bật cười thành tiếng:  Đúng thực là gà tồ có khác! Chỉ tinh  mỗi cái nghịch ngợm.
ngày một tăng, Hợp  -  chắc cũng  muốn chứng tỏ mình có máu hài hước  -  bèn gọi  Loan  là:  Anh Loan yêu dấu của Hợp và tự xưng bằng  hai tiếng em Hợp ngọt như mía lùi khiến cho cái Loan cứ rũ  người ra mà cười.
Chẳng hiểu nhờ Hợp biết “phát huy” năng khiếu cù nách đắc địa, hay là nhờ cái  Loan - được cụ Tú khéo dạy - văn chương thi phú thuộc làu  làu gãi đúng chỗ ông giáo Hợp đang ngứa, mà cuộc tình của hai người, chỉ trong một thời gian ngắn, đã đi hia bẩy dặm.
Chả thế mà nhiều buổi tối đứng một mình nhìn ra  ngoài vườn,  con bé hay mơ màng hình tưởng hàng  cây xoan đứng thẫm màu trong bóng đêm với một đoàn người  mặc áo the, thắt lưng lụa điều, đầu đội mâm cau mâm cốm  chen cạnh  những quả hồng đỏ chon chót đến trước cổng nhà nó chạm-ngõ! Rồi tiếng  pháo  đì đẹt nổ. Và hương pháo cưới ngào ngạt  bay theo cơn gió muà thu trong trí tưởng.
Nhưng vào lúc bấy giờ, Trời mới chỉ đầu xuân chứ nào đâu đã thu? Hàng cây xoan trắng phếch khô trụi ngày nào vừa chớm xanh lá nõn. Những cơn mưa phùn không đủ làm ướt áo người qua đường cũng chỉ mới tạnh cách đấy chẳng bao lâu.
Đứng trong cái bóng nắng  mênh mông thắp sáng cả khoảng sân rộng ở đằng trước nhà, Loan ngừng tay phơi quần áo lúc nghe bọn trẻ vừa chạy như ma đuổi, vừa kháo nhau  ầm ỹ:
Chạy cho mau ra  mà xem chúng mày ơi! Đoàn cải lương Nam bộ đến rồi .
 Rạo rực với tràng cười ngây ngô mà dễ cảm của bọn  nhóc, Loan khẽ mỉm cười liếc mắt trông ra đuờng. Mới đấy mà nhanh quá. Sáng ngày kia, đã rằm tháng giêng, đã là ngày khai mạc Hội làng  rồi đấy. Và tối mai, cái đinh của Lễ hội,  còn là cái gì khác hơn buổi  vào tuồng lần đầu của đoàn cải lương Nam bộ vừa đáp chuyến tàu Thống nhất ra  Bắc du diễn?
Mấy chiếc xe bò kẽo kẹt chở  phông cảnh, áo mão, cung kiếm, và cả nồi niêu soong chảo của đoàn hát  lừng lững tiến vào làng. Năm ấy,  năm 1992,  năm mà người Nam kẻ Bắc ít khi trông thấy mặt nhau, không trách dân làng Nhống chăm chăm nhìn gánh hát  như nhìn nhưng người ở hành tinh khác đến.
khâm phục nửa ghen tức, nhưng vẫn bấm  tay nhau cười khúc khích. Một cô lên tiếng:
- Chúng mày xem  kìa! Ăn mặc trông đến là  hay nhỉ!
Tiếng cô khác chen vào:
Lại còn phải nói. Người ta là  đào hát mà lại.
Đám đông náo nhiệt và khung cảnh lạ lẫm của một thôn làng miền Bắc làm  ông thầy tuồng đoàn hát …  hồi sinh. Vốn là dân đong thóc kinh niên, lại phải vài  hôm đói thuốc vì chả có công tử nào chịu đứng ra mua giàn khi đoàn cải lương Hương Nam ghé lại một quận lỵ Cà Mau tuần trước,  làm  cái lưng vốn  đã còng của ông trông càng còng thêm.
May được bà vợ hờ  nhanh trí,  đem chiếc khăn lau bàn đèn có dính tí nhựa thuốc phiện cùng rất nhiều bụi bậm mồ hôi ra ngâm vào nước rồi đem đun sôi lên cho ông uống. Nhờ bát nuớc “cam lồ” phép tích đó trợ lực cho, ông  thầy tuồng đã có thể đứng dậy thay vì nằm như  dán  đói  trên giường cả ngày, nhưng đi đứng nom vẫn còn  lọng cọng lắm và nhất là vẫn liên tục ngáp ngắn ngáp dài.
Thế mà bây giờ, truớc ánh mắt chiêm ngưỡng  của khán giả xứ Bắc, ông đang ưỡn ngực sải bước  mạnh mẽ cứ như thể một ông tướng lúc lên gân duyệt qua đội quân danh dự.
Chẳng phải chỉ mỗi một mình ông thầy tuồng đoàn hát thay đổi. Chứng ghẻ tàu khốn khố khốn nạn của cô đào chính lúc ấy  cũng hình như biến đi đâu mất. Cho nên thay vì đưa năm ngón tay bấu chặt vào hông để nhoay nhoáy dạo lại khúc “đàn chỉ thần công”  quen thuộc cho lũ cái ghẻ  thưởng thức, cô đào đã có thể vừa bước đi  và vừa vung cả hai bàn tay lên tíu tít vẫy chào mọi người.
Buổi tối hôm sau,  dân làng Nhống và dân các xã lân cận kéo đến chật sân đình để  xem gánh hát Hương Nam trình diễn khai mạc phiên  Hội làng.
nhau  gõ nện để khảo hình thính giác mọi người?
Vở hát Võ Đông Sơ Bạch Thu Hà kéo màn trong sư háo hức chờ đợi của khán giả. Dưới bước chân ra oai của dũng tướng Võ Đông Sơ, sân khấu làm bằng bốn chiếc cọc tre đỡ cái nền cũng bằng tre luôn, rên lên kẽo kẹt. Nhưng mặc kệ, chẳng ai  thèm bận tâm đến cái  tiểu tiết vặt vãnh đó cả. Người xem con mải căng mắt và vểnh tai lên  nghe  anh kép chính cùng cô đào thương luân phiên mớm đẩy cho nhau nhũng  khúc ca xàng xê mướt mịn, cùng những bản vọng cổ biền ngẫu, ngả bàn đèn.
 
Mỗi lúc câu xề  dứt, ông thây tuồng vớ vội lấy tờ giấy bóng  đỏ chụp lẹ vào chiếc đèn măng xông đặt  gần để gọi là …phựt đèn màu.
 Cả sân đình ầm vang  tiếng vỗ tay. Một nam khán giả trẻ, từng có dịp lên Hà nội xem phim  Liên xô,  cong hai  lóng tay lại đưa vào miệng hu‎ýt sáo  cổ vũ  ầm ỹ, trước khi quai mồm ra nhái giọng  Nam bộ  lớn tiếng phê bình:
DM… nó chứ, nghe vọng cổ Nam bộ mùi tận mạng thế này, “chớt” cũng sướng.
Một cậu khác so sánh:
Thực chả bù cho gánh hát chèo của tỉnh ta, lúc nào cũng i-í,  e-é.
Nó quên khuấy  đám đông chung quanh.  Quên luôn ông giáo Hợp  đứng bên cạnh cũng đang căng người ra thưởng thức vở diễn.
 Loan chỉ biết, chỉ nghe, và chỉ nhớ mỗi mình  Võ Đông Sơ trên sân khấu. Tội nghiệp Võ Đông Sơ biết chừng nào! Bị loạn tên của địch quân bắn lủng bụng đau đớn thế mà  vẫn còn cố ngóc đầu lên gọi tên người yêu cho bằng được truớc phút ly biệt.
Nó muốn nhảy bổ lên ôm thân xác lạnh giá của Võ Đông Sơ  trên sàn diễn thật chặt vào lòng.
Bất giác trong óc con bé nẩy sinh ra một sự so sánh tai hại cho vị hôn phu tương lai của nó. Ở một bên là cái nhân dáng vốn đã phì nhiêu vạm vỡ lại được bộ nhung phục võ  tướng tôn tạo  lên  nên trông càng hào nhoáng, oai vệ và đáng yêu làm sao của anh kép chánh.  Còn bên kia, cái Loan khẽ thở dài  và thực lòng không muốn nhìn đến, là  ông giáo Hợp nhỏ thó, yếu đuối  thêm nước da trắng xanh cùng với đôi môi đỏ chót như môi con gái đang đứng cù rù ở một góc khuất  trông y hệt như con gà mái ướt.
Chả trách đêm sau rồi nhiều đêm sau nữa, Loan đến sân đình từ sớm  giúp cụ Tú giăng lại hàng cờ đuôi nheo, sắp sửa dãy ghế ngồi, tiện thể nấu nước pha trà cho  Ủy ban nhân dân làng  uống. Điếu ấy khiến cụ Tú ngạc nhiên. Trước kia, dù cụ nhiều lần gọi con gái ra đình giúp mình  một tay, nhưng cái Loan lần nào lại chả  nại cớ bận việc này việc nọ  để lễ phép từ khuớc?  Thế  mà bây giờ không hiểu sao con bé lại tự nhiên đổi ‎ý thế nhỉ?
Cụ Tú có thể không hiểu, nhưng những người trong cuộc như cái Loan và  ông giáo Hợp làm gì  chẳng hiểu?
Vị khách qúy nhất của Ủy ban làng trên chíếc bàn  mà chiều nào cái  Loan cũng sốt sắng đứng hầu trà, và chiều nào ông giáo Hợp  bởi  ghen hờn xót xa  cũng cố tìm mọi cách lân la đứng quanh đấy,  chẳng ai khác  hơn là  gã kép chánh phóng đãng của đoàn hát Hương Nam.
 Dù sắm vai Tiết Đinh San, Võ Đông Sơ hay vai gì đi chăng nữa,  từ sàn diễn, cặp mắt lẳng độc của anh kép vẫn không quên quét  những chùm “phóng xạ” ‎ về hướng cái Loan và ông giáo Hợp đang đờ đẫn đứng thưởng thức bên dưới.
Biết tỏng cá đã cắn câu, anh kép láu  lỉnh  chưa vội  giật câu ngay đâu.  Anh tiếp tục  mèo vờn chuột bằng những bài tân  cổ giao duyên bồng bế.
 Hướng cặp mắt buồn tênh về chỗ Loan và Hợp đứng, anh vô tân nhạc:
Đời tui cô đơng nên iu ai cũng dở dang.
Đời tui cô đơng nên iu ai cũng không thằn.
Trời cho tui cô đơng bao nhiêu  lầng nữa đây.
Tui queng rồi những chuyệng dang dở từ khi mới iu.
Trước khi bắt chước Tarzan đưa hai tay  chụm  miệng, anh vừa hú vừa hò vừa “phăng tê di ”:
Một trăm con gái thủ, một lũ con gái chợ, một bợ con gái đồng, anh đây không màng.
Anh chỉ thầm nhớ thầm thương có mỗi một người ở cái xứ cơ hàn nắng mưa.
Nghe đến đấy lòng cái Loan, giống thià mỡ đặt vào chiếc chảo nóng, tan chảy. Nó thương anh  kép hữu duyên quá. Ai đời xinh giai là thế mà yêu ai cũng không thành thì ông Giời quả là không có mắt. Rồi cái câu  anh chỉ cảm thương có mỗi một người ở cái xứ cơ hàn nắng mưa hát bằng cái giọng đặc sệt Nam bộ nữa mới  kín đáo và tình tứ chứ!
Câu hát rõ ràng để cho và  chỉ  cho cái Loan. Loan khẽ nhắm mắt.  Nó  thấy nó  là cái người trong mộng mà  anh kép trót phải lòng. Và bàn tay anh kép xinh trai là cơn gió. Cơn gió muà xuân mơn man trên da thịt dậy thì.
Mơn man chưa đủ, “cơn gió” còn hối hả hít hà hương tóc và  tìm cách  rót mật ong vào  quả tim căng cứng nhục cảm của người gã yêu trong cái buổi hẹn hò ở bụi cây  ngòai bìa làng  vào  giữa  buổi trưa nắng là lúc tuyệt đối không có bóng người qua lại.  Bằng  giọng nói cám hấp  pha lẫn  mía lùi, anh kép hát ti toe chơi điệp ngữ:
Trời ơi, tui yêu em, tui kết eem, tui mê em, và cả đời này tui không thể sống thiếu em được đâu, cưng à.
có  những tiếng ú ớ vô nghiã:
Ứ ừ, ứ ừ
Đè sấn đối tượng nằm bật ngửa lên đùi mình, gã kép phóng đãng vừa ôm gỡ, sờ soạng gỡ,  vừa lảm nhảm hỏi:
Còn cưng… cưng có thương… anh  hay không?
-  Ứ, ớ, ú… Em… em… chả biết.
Giọng anh kép sủi lên sùng sục:
Phải rồi, cưng không biết, cưng đâu biết. Chớ còn tui ấy hả? Tui biết rõ là tui  yêu mê cưng hơn tất thảy mọi thứ ở trên cái cuộc đời đáng chán này.
Thật là  thế chứ anh?
“Bắn liên thanh” một tràng mưa hôn lên môi  người yêu, gã phóng đãng vồ vập đáp:
Chớ còn sao.
 Rồi nhoay nhoáy giở giọng phường tuồng:
tui là kẻ không xứng đáng,  thì dù đau lòng tới đâu tui vẫn năn nỉ xin cưng cứ nói thẳng nói thật ra một bận để cho cái thằng cù bơ đây  còn…
Giọng nói nũng nịu ngắt ngang lời gã:
Còn cái gì cơ chứ?
Thì để cho tui chết ngay trước mắt em cho nó xong chuyên, chớ còn cái gì  nữa.
Đốt anh đi. Chỉ được cái nói nhảm. Người ta thích nói nhảm thì tôi đây đi về.
Nghe cái giọng trách yêu và  nhìn thêm điệu bộ ngúng ngoa ngúng nguẩy của người tình, lòng  gã kép hát lâng lâng như mọc cánh. Cục yết hầu trên cổ gã khởi sư chuyển động mất trật tự, trong khi hai bàn tay thô nhám chỉ muốn bấu chụp lấy cái gì mà xoa nắn cho thoả lòng. Thì vừa may, tiếng con chim sáo sậu hót bóng trong bụi cây gần đấy làm gã choàng tỉnh. Thở ra một hơi rõ dài, giọng anh kép cải lương chùng xuống:
Cho tui hỏi em một câu.
Anh muốn hỏi em bao nhiều câu mà lại chả được.
Giọng anh kép buồn tênh:
Em chê tui, chắc là tại  em không quên được cố nhân, chớ gì?
Có tiếng thở dài:
Tốt nhất là chúng mình  đừng nhắc đến  người ấy nữa?
anh kép nôn nóng hỏi -  Có phải tại em vẫn thương kẻ đó quá xá?
Không phải như thế, đâu anh.
Nếu không thương nó, vậy hà cớ gì em lại muốn lập gia đình với nó?
Sau vài mươi giây im lắng, mới có tiếng đáp khẽ:
Anh ác lắm, anh  có biết không?
Em nói ác cái chi?
Thì anh đã biết tỏng câu chuyện ra rồi mà sao vẫn còn cứ cố  bắt em nhắc lại làm gì để cho lòng em thêm ân hận với  người mà em chỉ lợi dụng chứ  không hề mảy may  thương yêu đó.
Chỉ lợi dụng?
Đúng vậy. Em có  cần nhắc để anh nhớ rằng chỉ có anh mới đúng điệu người tình đồng hội đồng thuyền  mà gần nửa đời người  em vẫn từng  mỏi mòn trông đợi? Em có cần nhắc trước khi  duyên kiếp mang anh đến bên em,  vì sợ và không chịu đựng nổi nỗi cô độc mênh mông mà chỉ những kẻ ở trong hoàn cảnh đặc biệt như chúng ta mới thấu hiểu nổi, em khi ấy giống như  một kẻ nghèo mượn thỏi vàng giả để tự an ủi số kiếp, đã nhẫn tâm lợi dụng cái nhân dáng  trông hao hao, trông giông giống của người ấy  để lấp đầy cơn mơ hoang khốn khổ  của mình? Em có lỗi với người ấy nhiều lắm, anh yêu ạ. Em không muốn chúng ta nhắc đến người ấy đơn giản là vì thế.
Giọng  gã kép hát run lên vì cảm động:
Anh đã  hiểu ra ‎‎ý của em  rồi. Em nói đúng lắm. Thiệt là  tội nghiệp em của anh, thiệt là tội nghiệp em thương yêu của anh .
Cặp môi đỏ như son của  thầy giáo Hợp đang bĩu ra hờn trách chợt tê dại đi trong cơn mưa hôn hối hả  của anh kép phóng đãng.  Gã mở đùi ra hong hóng đợi. Hai đứa đàn ông lộn giống quấn vào nhau trong bụi cây nhầu nẫu lá hoa.

HẾT


Xem Tiếp: ----