Chương 7 (B)

Có lẽ nào gia đình nhà Cullen chính là ma-cà-rồng?
Ừm, họ hẳn phải là gì đó. Mà cái gì đó phải là thứ không thể giải thích được bằng những lý lẽ thông thường. Là kẻ máu lạnh như lời Jacob, hay là người hùng trong lòng tôi... Dù có là gì đi nữa thì Edward Cullen cũng không phải là... người. Hắn ta phải là gì đó hơn thế nữa.
Vậy là... có thể như thế thật. Hẳn đây là câu trả lời tốt nhất rồi.
Vậy thì... đây là vấn đề quan trọng nhất. Nếu điều đó là sự thật, tôi sẽ phải làm gì?
Nếu Edward là ma-cà-rồng - khó khăn lắm, tôi mới buộc mình phải dùng những từ này đối với Edward - thì tôi sẽ làm gì? Nếu là ai khác thì câu trả lời duy nhất của tôi sẽ là “không bao giờ”... Ôi, tôi không còn tin vào chính mình nữa; liệu có ai khả dĩ cho tôi được lời khuyên không?
Chỉ có hai cách xem ra là khôn ngoan nhất thôi. Thứ nhất là cứ làm theo lời khuyên của chính hắn ta: đừng có ngốc nghếch nữa, hãy tránh xa hắn ta, càng xa càng tốt. Hãy hủy bỏ dự định của cả hai, cứ làm theo kế hoạch riêng của mình và lờ phắt hắn ta đi. Hãy làm như giữa mình và hắn ta luôn tồn tại một bức tường thủy tinh dày cộp. Hãy bảo với hắn ta là để cho mình yên... và rằng đã đến lúc phải nên như thế.
Nghĩ đến đây... bất giác tôi cảm thấy như mình đang bị rơi xuống một vực sâu của tất cả nỗi tuyệt vọng và đau khổ khôn cùng, chẳng lẽ không có lối thoát nào sao... Và lý trí, một lần nữa lại can thiệp, nó nhanh chóng phác thảo ra một dự định thứ hai.
Mình chẳng phải làm gì cả. Suy cho cùng, nếu hắn ta có là gì đó... nguy hiểm thì đã chẳng ra tay cứu mình làm gì. Đúng như vậy, nếu Edward không hành động kịp thời thì giờ đây, trên cái chắn bùn của xe Tyler đã có nguyên một cái vết lõm in hình mình rồi. Nhưng rồi ngay lập tức, trong tôi lại có sự tranh cãi; việc đã xảy ra đó đơn thuần chỉ là do những phản xạ của hắn ta mà thôi. Song, nếu là kẻ có phản xạ cứu người khác, thì hắn ta nguy hiểm ở mức độ nào? Tôi tự vấn lại mình. Và cứ thế, đầu óc tôi quay cuồng với những suy nghĩ không đâu vào đâu, chẳng làm sao thoát ra khỏi được cái vòng luẩn quẩn không có lối ra.
Cuối cùng, nếu có đang chắc chắn được một điều gì đó, thì tôi chỉ có thể đảm bảo được một điều duy nhất mà thôi. Hình ảnh của Edward trong giấc mơ đêm rồi chính là sự dội lại của nỗi sợ trước những gì Jacob đã nói, chứ không phải là tôi sợ chính bản thân Edward. Còn nỗi kinh hoàng của tôi trước sự tấn công của người sói... hoàn toàn không phải vì tôi lo cho con sói đến độ phải bật ra tiếng thét gào khản đặc “khôôông”... mà chính là vì tôi lo sợ cho Edward sẽ bị thương - ngay cả khi nghe tiếng hắn ta gọi tôi, miệng hắn để lộ ra những cái răng nanh sắc bén, cũng là lúc tôi đang lo lắng cho hắn ta.
Tôi hiểu mình đã có câu trả lời... song, không biết mình phải làm sao. Lòng tôi rối như tơ vò. Hiện tại, tôi chỉ biết có mỗi một điều thôi - mà dù tôi có biết thêm hai, ba điều khác đi nữa thì cũng vậy thôi - ấy là tôi sẽ chẳng làm gì được với cái sự thật phũ phàng và kinh khủng đó cả. Bởi lẽ khi nghĩ về Edward, nhớ lại giọng nói, ánh mắt sâu thẳm, cùng tính cách có sức hút mãnh liệt của hắn ta, tôi chẳng muốn gì khác ngoài việc được ở bên Edward ngay bây giờ. Ngay cả khi... Thôi, không được nghĩ đến điều ấy nữa. Không phải là ở đây, lúc một thân một mình trơ trọi giữa cánh rừng già đang càng lúc càng tối sầm lại như thế này. Không phải là lúc mưa đang làm cho khu rừng trở nên mịt mờ như đang giữa bóng chiều chạng vạng, và nhất là lúc tiếng mưa tí tách rơi như tiếng chân ai bước trên nền đất ướt át... Tôi chợt rùng mình, đứng bật ngay dậy... Lỡ mưa... Mưa có thể sẽ xóa nhòa con đường mòn thì sao?
Không, con đường mòn vẫn còn kia, nó vẫn bình an vô sự, vẫn uốn lượn chỉ hướng cho tôi thoát khỏi cái mê cung xanh thẳm và sũng sĩnh nước này. Tôi lại hấp tấp bước đi trên con đường mòn, cái mũ trùm đầu gần như bị kéo xệ xuống giữa mặt, mặc kệ, tôi cứ bước như lao chạy qua các lùm cây, trong lòng tự ngạc nhiên với chính mình là làm sao đã đi được vào rừng sâu đến thế. Đúng lúc tôi bắt đầu hoài nghi về hướng đi của mình, không biết là tôi đang trên đường về nhà hay đang dấn sâu thêm vô rừng đây... và trước khi tôi kịp “lên cơn” yếu bóng vía, mặt mày tái mét, tim đập liên hồi thì tôi loáng thoáng nhận ra những khoảng rừng thưa qua các nhánh cành đan vào nhau. Trong không trung vang lên tiếng động cơ xe hơi phóng trên đường quốc lộ. Thế rồi bãi cỏ trước nhà bố đột ngột trải dài ra trước mắt tôi, tiếp liền theo đó là ngôi nhà cũng hiện ra rõ đến từng góc cạnh; vậy là tôi sắp được tận hưởng bầu không khí khô ráo, ấm áp rồi.
Vào đến nhà, tôi mới nhận thức được đang là giữa trưa. Tôi lên lầu thay quần áo, quyết định chọn quần jean và áo thun ngắn tay để mặc ở nhà... Vậy là bài tập hôm nay chẳng có kết quả gì mấy, nhưng có hề gì, bài làm chuyên đề về Macbeth mãi đến thứ Tư tuần sau mới phải nộp kia mà. Tôi hý hoáy xác lập dàn ý và hoàn toàn bằng lòng về nó, trong lòng thanh thản hơn kể từ... ừm, chính xác là kể từ trưa thứ Năm.
Tính cách của tôi là vậy đấy, xưa nay, tôi vẫn luôn là kẻ thích làm theo ngẫu hứng. Cũng bởi cái tính ấy nên khi buộc phải quyết định một điều gì, trong người tôi lúc nào cũng cảm thấy khó chịu, khổ sở và bực bội như bị lửa đốt. Thế mà mỗi khi quyết định xong, tôi lại nỗ lực bằng được để thực hiện - và kết quả thường là cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lâng lâng bay bổng... Nhưng cuộc sống là thế, thi thoảng việc gì cũng có những ngoại lệ, đó là khi nỗi nhẹ nhõm, thanh thản đâu không thấy, chỉ thấy toàn một mối ê chề thất vọng, giống như cái quyết định đến sống ở cái thị trấn Forks này vậy. Thế đấy, nhưng dù sao vẫn còn tốt hơn là cứ phải căng thẳng suy đi tính lại với một lô một lốc những lựa chọn đâu đâu.
Mà cái quyết định này của tôi thật chẳng ra làm sao cả. Nó quái gở hết sức.
Ngày hôm nay trôi qua một cách êm ả và hoàn toàn có lợi cho tôi - tôi đã hoàn thành bài tập trước tám giờ tối. Còn bố thì về nhà với một mẻ cá to, nhìn chiến công của bố, tôi bất chợt nảy ra ý định là sẽ tìm mua bằng được một quyển sách dạy nấu ăn chuyên về cá khi đến Seattle vào tuần sau. Nghĩ đến đây, tôi bỗng thấy lạnh cả xương sống, tất nhiên là trước khi có cuộc đi dạo với Jacob Black, tôi cũng có cảm giác này mỗi khi nghĩ đến chuyến đi... Có điều, tâm trạng lúc này nên khác đi mới phải. Tôi nên sợ... Tôi hiểu là mình cần phải sợ, nhưng sao tôi lại chẳng thấy sợ chút nào cả...
Đêm ấy, tôi ngủ rất say, không hề mộng mị gì, có lẽ do từ sớm tinh mơ, tinh thần tôi đã không được thoải mái, còn đêm trước nữa, tôi đã chẳng được ngủ lấy một giấc cho ra hồn. Tôi choàng tỉnh giấc, đó là lần thứ hai trong suốt khoảng thời gian đến Forks, tia nắng mặt trời rực rỡ của một ngày đầy nắng rọi thẳng vào phòng tôi. Tôi quáng quàng nhào đến bên cửa sổ, bất ngờ... trên nền trời chỉ có mỗi một đám mây, điểm xuyết xa xa là một vài gợn mây trắng mỏng manh, xốp nhẹ, thế thì không thể mang mưa đến được rồi. Tôi hớn hở mở tung cửa sổ để tận hưởng bầu không khí thoáng đãng - lại thêm một bất ngờ khác: cánh cửa sổ nhẹ hẫng, chẳng hề có lấy một tiếng ken két nào, dù rằng hàng bao năm qua, nó vẫn cứ đóng im ỉm. Tiết trời thật ấm áp dễ chịu. Máu trong người tôi như được giải thoát khỏi sự kìm kẹp vô hình bấy lâu, đang chảy tuôn tràn trong các huyết mạch.
Khi tôi bước xuống lầu, bố đã ăn sáng xong, bố nhìn tôi và lập tức nhận ra được ngay nét mặt tươi vui của cô con gái.
- Một ngày đẹp trời để ra ngoài, con nhỉ - Bố lên tiếng.
- Dạ - Tôi đồng ý với một nụ cười nở rộng.
Bố cũng mỉm cười, đôi mắt nâu nheo lại hằn đầy vết chân chim. Chỉ khi trông thấy bố cười như vậy, tôi mới hiểu hơn về cái lý do khiến mẹ và bố đã quyết định tiến tới hôn nhân một cách chóng vánh còn hơn bị bão cuốn. Những nét trẻ trung lãng mạn hồi đó của bố đã nhạt nhòa từ trước khi... tôi biết đến bố, khi mái tóc xoăn nâu - tuy không mềm như tóc tôi nhưng cũng cùng màu - đã trở nên thưa dần, từ từ để lộ làn da sáng bóng ở trước trán. Tuy thế, khi ngắm bố cười, tôi cũng loáng thoáng nhận ra được phần nào hình ảnh người đàn ông đã “cuỗm mất” trái tim của mẹ và cùng mẹ cao chạy xa bay khi mẹ lúc đó mới chỉ hơn tôi bây giờ có hai tuổi.
Tôi vui vẻ ăn sáng, mắt không thôi ngắm nhìn những luồng bụi lăn tăn chuyển động trong tia nắng mặt trời rọi qua cửa sổ. Có tiếng bố chào tạm biệt cất lên ở ngoài cửa, cùng lúc với tiếng động cơ xe tuần tra càng lúc càng xa dần. Tôi chùng chình bước ra cửa, tay để hờ lên chiếc áo đi mưa. Thôi, tốt nhất là cứ nên mang cả nó theo. Thở dài, tôi cuộn cái áo mưa trong tay rồi hân hoan hòa mình vào những tia nắng rực rỡ nhất trong mấy tháng qua.
Chỉ cần quệt một vệt mỡ bò thôi là tôi đã có thể dễ dàng hạ được tất cả các ô cửa kính trong chiếc xe tải. Tôi là một trong những học sinh đến trường sớm nhất; thậm chí tôi đã chẳng cần phải kiểm tra đồng hồ khi bước ra ngoài cơ đấy. Đậu xe xong, tôi lò dò tiến tới chỗ mấy chiếc ghế dài hiếm khi có người sử dụng. Ghế vẫn còn hơi âm ẩm, thế nên tôi cẩn thận ngồi lên chiếc áo mưa, cảm thấy vui vui khi đã quyết định mang nó theo. Bài tập về nhà của tôi cuối cùng đã hoàn tất - là sản phẩm của một đời sống xã hội tẻ nhạt - tuy nhiên, có vài bài lượng giác khá hóc búa, tôi không chắc là mình có làm đúng hay không. Rồi giống như một học trò hiếu học, tôi rút quyển sách ra để kiểm tra bài đầu tiên... Được nửa chừng, tôi bắt đầu mơ mơ màng màng, thẫn thờ ngắm nhìn những tia nắng lấp loáng trên những tàn cây vỏ đỏ... Và lơ đễnh hí họa trên mép giấy làm bài tập về nhà. Vài phút sau, tôi thất thần nhận ra là tôi vừa vẽ xong năm cặp mắt đen đang trừng trừng nhìn xoáy vào tôi trên tờ giấy. Hoảng hốt, tôi lấy gôm xóa hết chúng đi.
- Bella! - Có tiếng ai đó gọi tôi, hình như là tiếng của Mike thì phải.
Tôi ngước mặt lên nhìn quanh quất, thì ra trong lúc tôi ngồi đây, trường học đã bắt đầu đông học sinh rồi, vậy mà tôi chẳng hay biết gì cả, thật đãng trí hết chỗ nói. Giữa tiết trời không quá mười lăm độ này, học sinh nào cũng tròng vào người chiếc áo thun ngắn tay, một vài người còn diện luôn cả quần soọc đến lớp nữa. Trong số đó có Mike, anh chàng mặc quần soọc kaki và chiếc áo có sọc vẫn mặc để chơi bóng bầu dục đang tiến đến chỗ tôi.
- A, Mike - Tôi cũng lên tiếng rồi vẫy tay đáp lại, làm sao có thể không nhiệt tình vui vẻ trong một buổi sáng đẹp trời như thế này được.
Mike bước đến ngồi ngay bên cạnh tôi, những lọn tóc chải theo nếp đâu vào đấy của anh chàng lấp lánh ánh vàng dưới nắng, còn nụ cười thì nở ra đến tận mang tai. Trông Mike có vẻ rất vui khi nhìn thấy tôi, điều này làm cho tôi cảm thấy hơi ngài ngại nhưng trong lòng lại rất mãn nguyện.
- Trước đây, mình đã không chú ý... Tóc cậu có hơi hoe hoe đỏ đấy - Mike nhận xét rồi khẽ mơn nhẹ tóc tôi, những lọn tóc trở nên dao động nhưng rất khẽ, tựa như một làn gió mát thổi thoáng qua vậy.
- Do nắng đấy.
Rồi tôi chợt cảm thấy khó chịu khi Mike tỏ ra bạo dạn vén một lọn tóc ra phía sau tai tôi.
- Một ngày đẹp trời, phải không?
- Ừ, mình cũng mong chờ một ngày như thế này - Tôi đồng ý.
- Hôm qua em..., à cậu làm gì? - Giọng nói của Mike bỗng chuyển sang âm điệu của một người có chút “quyền hạn” nào đó...
- Mình tập trung hầu hết thời gian cho bài tiểu luận - Tôi không muốn nói thêm rằng mình đã hoàn thành xong... Tự mãn vốn là một tính xấu.
Mike gõ gõ vào trán vài cái rồi kêu lên:
- Ờ đúng rồi... Thứ Năm là ngày nộp bài, phải không?
- Ừmmm, mình nhớ là thứ Tư thì phải.
- Thứ Tư à? - Mike thoáng cau mày - Thôi rồi... Thế cậu viết gì vậy?
- Phải chăng cách xử lý các nhân vật nữ của Shakespeare cho thấy ông là người ghét phụ nữ?
Mike chằm chằm nhìn tôi như thể tôi vừa mới thốt ra một thứ tiếng khó hiểu nào đấy.
- Chắc tối nay mình phải thức mà làm thôi - Mike trả lời kèm theo một tiếng thở dài thườn thượt - Mình tính mời cậu ra ngoài... nếu cậu muốn...
- Ừm ừm... - Tôi bắt đầu dè dặt. Sao tôi không thể tự nhiên nói chuyện vui vẻ với Mike mà cứ phải túng túng, ngượng nghịu thế này nhỉ?
- À ừm, hai đứa mình có thể đi ăn tối hay là gì đấy... rồi mình về làm bài sau... - Mike mỉm cười nhìn tôi, hy vọng...
- Mike à... - Trời ơi, tôi ghét phải làm người khác thất vọng quá - Mình không nghĩ điều đó là nên đâu.
Mặt Mike xịu xuống.
- Sao vậy? - Anh ta ấp úng hỏi, ánh mắt đầy sự dè chừng. Bất giác tôi nghĩ đến Edward, không rõ Mike có nghĩ là do Edward mà tôi từ chối lời mời của anh ta không nhỉ...
- Mình nghĩ là... Ừm, cậu mà lặp lại điều mình sắp nói ra đây là sẽ chết với mình đấy nhé - Tôi cảnh báo rồi tiếp tục nói - Mình nghĩ là điều đó sẽ khiến Jessica bị tổn thương.
Mike trở nên bối rối, rõ ràng là anh bạn của tôi không mảy may ngờ tới cái lý do này.
- Jessica?
- Thật đấy, Mike ạ, bộ cậu không biết sao?
- Ôi trời - Anh chàng không giấu được nỗi lúng túng và có thể thấy rõ là đang sửng sốt tột độ. (Đây là chính là thời cơ thuận lợi để tôi có thể đào tẩu một cách an toàn...).
- Tới giờ đến lớp rồi, mình không muốn bị trễ nữa - Nói xong, tôi thu dọn sách vở, cho hết vào túi.
Chúng tôi cùng sóng bước đi bên nhau đến tòa nhà thứ ba trong im lặng, Mike vẫn còn ngơ ngơ ngác ngác như người mất hồn. Tôi chỉ hy vọng rằng dù Mike có đang nghĩ gì, thì điều đó cũng là định hướng cho Mike biết cách cư xử cho đúng mực hơn mà thôi.
Gặp lại Jessica ở lớp lượng giác học, tôi bất ngờ khi thấy cô ta tỏ ra vui như tết. Thì ra là Jessica, Angela và Lauren đang có dự định sẽ đến Port Angeles vào tối nay để mua sắm quần áo cho buổi khiêu vũ, tất nhiên là cô bạn muốn tôi đi cùng... dù rằng tôi chẳng cần gì để phải mua với bán. Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự. Đi cùng những cô bạn ra khỏi thị trấn tất nhiên là sẽ rất vui rồi, chỉ có điều là Lauren cũng có mặt ở đó. À, vậy thì ai mà biết được tối nay tôi sẽ làm gì... Không được, không được để đầu óc vẩn vơ. Mình đương vui vẻ dưới bầu trời đầy nắng như thế này thì đừng nghĩ chi những việc xa xôi như vậy. Tôi tự nhủ. Tuy nhiên cũng không nên vì thế mà tỏ thái độ quá phởn phơ, chẳng có lấy một chút dè dặt.
Nghĩ vậy nên tôi chỉ trả lời bâng quơ với Jessica rằng tôi không chắc chắn lắm, lý do là tôi còn phải xin phép bố trước mới được.
Trên suốt quãng đường đi đến lớp học tiếng Tây Ban Nha, Jessica chẳng nói gì ngoài chuyện khiêu vũ, đề tài này cứ kéo dài mãi cho đến tận lúc lớp học tan hết mà vẫn chưa kết thúc, phải thêm năm phút sau nữa, câu chuyện khiêu vũ mới được chấm dứt, vì đó là giờ ăn trưa. Tôi và Jessica lục tục kéo nhau đến quán ăn. Thật ra, tôi không hề cảm thấy rối bù đầu óc trước câu chuyện tràng giang đại hải của cô bạn... Rất đơn giản, tôi chỉ đang sốt ruột trông chờ được nhìn thấy trở lại gương mặt không chỉ của Edward mà của cả bốn anh chị em nhà hắn ta nữa - để so sánh với những nghi ngờ mới nảy sinh trong đầu óc tôi. Nhưng rồi khi vừa bước qua ngưỡng cửa quán ăn, một cảm giác ớn lạnh từ đỉnh đầu trượt dọc theo sống lưng của tôi, nó dừng lại ở bụng... Tôi cảm thấy nôn nao... Liệu họ có đọc được suy nghĩ của tôi không? Rồi bất chợt một cảm giác lạ lùng khác xen vào... Edward có đang đợi tôi không?
Như thường lệ, tôi đưa mắt về phía chiếc bàn của anh em nhà Cullen. Bụng tôi thắt lại khi nhận ra rằng cái bàn ấy trống trơn, không có người ngồi. Với một tia hy vọng mỏng manh, tôi rảo mắt tìm khắp quán ăn, hy vọng hắn ta đang ngồi một mình, và... chờ đợi tôi đến. Nhưng không, khắp nơi đều gần như kín chỗ - lớp học tiếng Tây Ban Nha đã làm chúng tôi đến trễ - và chẳng thấy tăm hơi của Edward lẫn anh em của hắn ta đâu cả. Một cảm giác sầu thảm chợt ùa vào xâm chiếm lấy hồn tôi, tàn phá hết mọi sức mạnh đang có ở trong tôi.
Tôi cứ lê bước theo sau Jessica, bây giờ thì chẳng cần phải tỏ ra vẻ đang chăm chú lắng nghe cô bạn huyên thuyên nữa.
Chiếc bàn ăn thân thuộc của tôi cũng gần như kín chỗ. Tôi cẩn thận chọn chỗ ngồi bên cạnh Angela để né chiếc ghế trống bên cạnh Mike. Mà hình như Mike cũng đang có ý giữ chỗ đó cho Jessica thì phải, tôi thấy mắt cô bạn của mình sáng rỡ; thật sự là một điều đáng vui chứ còn gì.
Rồi Angela quay sang hỏi tôi vài câu về Macbeth, tôi trả lời thật tự nhiên, cố dằn xuống nỗi đau khổ đang quặn thắt trong lòng. Cũng giống như Jessica, Angela lên tiếng mời tôi cùng nhập bọn với cô đến Port Angeles vào tối nay, và giờ thì tôi gật đầu đồng ý, cố bám víu vào bất kỳ điều gì có thể làm cho mình nguôi ngoai...
Sau bữa ăn chẳng lấy gì làm vui vẻ, tôi lại nhận ra mình vẫn còn một chút ít hy vọng khi bước vào lớp sinh học, để rồi khi nhìn thấy chỗ ngồi trống vắng của Edward, lòng tôi lại dâng tràn một nỗi thất vọng mới.
Những giờ học còn lại trôi qua một cách ảm đạm, tẻ nhạt. Trong giờ học thể dục, chúng tôi được nghe một bài dài thoòng loòng về các quy tắc, luật lệ của bộ môn cầu lông... lại một sự tra tấn tinh thần khác. Nhưng ít ra thì tôi cũng chỉ có việc ngồi nghe mà thôi, thay vì phải chạy tới chạy lui trên sân mà “chụp ếch”. Và điều tuyệt vời nhất dành cho tôi, đó là thầy chưa giảng xong thì đã hết giờ, vậy là ngày mai sẽ phải tiếp tục ngồi nghe tụng nốt “bài kinh” còn lại. Mà cũng chẳng có gì phải lo nếu lỡ như sau đó, tôi có được trang bị một cái vợt để tung hoành với cả lớp, thì cho tới lúc “nâng niu” được cái vợt trên tay, cũng sẽ lại hết giờ mất rồi...
Được rời khỏi sân trường, lòng tôi vui như mở cờ trong bụng, giờ thì có thể tự do mà trề môi, mà mếu máo, để tống khứ hết mọi ưu tư, muộn phiền trong lòng, sau đó, sẽ cùng đi với nhóm của Jessica. Nhưng ngay khi vừa mới bước chân vào đến cửa nhà thì tôi nhận được điện thoại của Jessica, cô bạn tôi cáo lỗi không đi được... vì Mike đã mời cô ta đi ăn tối. Hoàn toàn bất ngờ, nhưng tôi vẫn cố thể hiện với cô bạn là mình rất vui khi nghe được tin tốt lành đó. Quả thật là tôi có cảm thấy nhẹ nhõm được đôi chút, hình như cuối cùng Mike cũng đã hiểu ra... nhưng rồi khi chưa kịp hưởng trọn sự khuây khỏa, tôi lại phải đón nhận một tin “sét đánh”: chuyến đi mua sắm ở Port Angeles sẽ được dời lại vào tối mai.
Thôi được rồi, chẳng ai có thể giúp mình quên đi nỗi buồn dai dẳng này thì tự mình phải cứu mình vậy, nghĩ rồi, tôi lao vào bếp lo bữa tối. Tôi ngâm cá trong nước ướp, rồi chuẩn bị món xàlách trộn dầu giấm để ăn với bánh mì còn dư lại của buổi tối hôm qua. Xem chừng chẳng còn gì phải làm nữa, tôi bỏ ra ba mươi phút để làm bài tập. Bài tập cũng đã được làm xong... Thế thì kiểm tra e-mail vậy... Ôi trời, thư của mẹ đang chất thành núi. Tôi kiên nhẫn đọc từng thư một, và tất nhiên càng đọc về sau thì mặt càng trở nên “nóng bừng” – một trong những triệu chứng của cơn bực bội, cáu kỉnh... Hít vào thật sâu rồi trút ra một hơi thở dài, tôi cúi xuống bàn phím gõ vài dòng trả lời...
Mẹ,
Con xin lỗi. Mấy ngày qua, con cứ bận suốt. Con đã đi chơi biển với mấy người bạn. Con lại phải làm một bài luận văn nữa.
Tự cảm thấy mấy lời xin lỗi này không được thỏa đáng cho lắm, tôi xóa sạch rồi gõ lại.
Hôm nay là một ngày nắng đẹp, rất thích hợp để ra ngoài, phải không mẹ? Con biết ạ. Tâm trạng của con cũng không tốt như mẹ. Thế nên con sẽ năng ra ngoài dang nắng để có nhiều vitamin D. Con lúc nào cũng yêu mẹ lắm lắm.
Bella.
Xong xuôi, tôi quyết định dành hẳn một tiếng đồng hồ để đọc sách, nhưng không phải là những quyển sách buộc phải học ở trường. Tôi có khá nhiều sách hay, tôi đã mang chúng theo khi đến thị trấn Forks này. Xem nào, quyển cũ nhất là Tuyển tập Jane Austen(11). Đọc quyển này đi, nghĩ rồi tôi chụp lấy quyển sách, bước nhanh ra phía cầu thang, chợt bắt gặp một tấm mềm bông sờn cũ nằm chỏng chơ trên nóc chạn, cũng có ích đây, vả lại, cái chạn cũng đang nằm ngay phía cầu thang nữa... Tôi ngồi thụp xuống bậc thang đầu tiên, với tay thộp lấy nó xong mới chịu bước xuống lầu, và hướng ra khoảng sân phía sau nhà.
Khoảng sân phía sau nhà chúng tôi bé xíu nhưng rất vuông vức, tôi gấp mền lại làm hai, đảo mắt tìm một chỗ ngồi thuận tiện. Kia rồi, một lớp cỏ dầy, lại không nằm dưới bóng râm, tôi trải cái mền lên chỗ thảm cỏ đã chọn, không hiểu sao ở đây cỏ lúc nào cũng ươn ướt, mặc cho mặt trời có rọi nắng xuống bao nhiêu... Tôi nằm úp bụng xuống cái mền, hai chân để gập lên, đòng đưa trong không trung, tay tôi lật qua lật lại những trang tiểu thuyết có trong tuyển tập để cân nhắc xem tác phẩm nào thật sự thích hợp với mình vào lúc này nhất. Niềm kiêu hãnh và thói định kiến, Lý trí và tình cảm... đây là hai tác phẩm tôi rất thích. Niềm kiêu hãnh và thói định kiến thì mới đây, tôi đã đọc rồi, thế thì đọc Lý trí và tình cảm vậy. Chọn lựa xong, tôi bắt đầu ngấu nghiến tác phẩm... và trớ trêu thay cho tôi, đúng lúc đọc đến chương ba thì tôi ngớ người ra, trong truyện có nhân vật nam chính tên là Edward. Đúng là chạy trời không khỏi nắng, một cách bực bội, tôi giở nhanh sang tác phẩm khác: Khu vườn Mansfield, không được, tác phẩm này có nhân vật nam chính tên là Edmund, cũng na ná như nhau mà thôi. Hình như hồi cuối thế kỷ mười tám, người ta không thể nghĩ ra được cái tên nào hay hơn thì phải. Tôi đóng ập quyển sách lại một cách tức tối, rồi lăn ngược người lại. Cố kéo tay áo lên thật cao và khép nhẹ mắt lại. Giờ thì mình sẽ nằm ỳ ở đây và không thèm nghĩ ngợi gì nữa, chỉ cần quan tâm đến ánh nắng ấm áp đang phủ lên làn da của mình thôi - tôi tự ra lệnh cho mình. Nhưng mà nào có được yên... Cơn gió phá đám vẫn còn quanh quẩn đâu đây, nó cứ nhằm vào tóc tôi mà vờn giỡn, khiến cho các lọn tóc cứ bay lòa xòa quanh mặt tôi rất khó chịu. Bực bội, tôi túm ngược hết tất cả tóc lên, để nó tự do xòe theo hình quạt trên tấm mềm, rồi lại tập trung tận hưởng cái hơi ấm đang lan tỏa trên mi mắt, trên gò má, trên mũi, trên hai cánh tay, trên cổ và cái hơi ấm ấy còn xuyên cả vào bên trong chiếc áo sơ mi sáng màu mà tôi đang mặc...
Bỗng cả nền đất như rung lên, toàn bộ con người tôi chợt bừng tỉnh. Trong không gian vang lên không lớn lắm tiếng động cơ của chiếc xe tuần tra quen thuộc đang trên đường lăn bánh vào khuôn viên nhà. Tôi ngồi bật dậy, ngạc nhiên trước thực tế ánh nắng đã tắt tự lúc nào... Xa xa, sau những rặng cây, mặt trời đang chuẩn bị rơi xuống, khuất dạng cuối chân trời... Hóa ra nãy giờ tôi đã ngủ ở đây ư... Tôi nhìn quanh quất, đầu óc tự dưng rối mù với duy nhất một cảm giác bất ngờ, hoảng hốt khi giật mình nhận ra là bố về...
- Bố, có phải bố không? - Tôi cất tiếng hỏi thật to. Và đáp lại câu hỏi ấy là một tiếng đóng sầm của cửa trước.
Tôi nhảy bật dậy, quơ vội quyển sách và cái mền giờ đã ẩm ướt mà cáu giận với chính mình. Bữa ăn tối nay thế là bị trễ rồi! Tôi hớt hơ hớt hải chạy vào nhà để đun nóng dầu. Bố kia rồi, sừng sững hiện ra khi tôi vừa bước vào gian bếp, bố đang máng cái thắt lưng buộc súng và rút chân ra khỏi đôi giày.
- Con xin lỗi, bữa tối vẫn chưa xong... Con ngủ quên ngoài vườn - Tôi cố kìm một cái ngáp.
- Đừng lo lắng quá, con gái ạ - Bố trả lời - Sao cũng được mà, bố cũng đang muốn theo dõi mấy trận đấu đây.
Dùng xong bữa ăn tối, tôi ngồi xem tivi với bố, để mà có cái gì đó làm cho vơi bớt đầu óc thôi chứ chẳng phải tôi thích thú gì. Hôm nay tivi chẳng có gì đáng xem cả. Biết tôi ghét bóng chày, bố bật sang kênh hài kịch... mặc dù đó không phải là “gu” của hai bố con. Song ít ra bố cũng có vui lên khi theo dõi nó. Thế cũng tốt, nó khiến cho bố vui vẻ là được rồi, chứ còn tôi thì vẫn không thể cười nổi.
- Bố à - Tôi lên tiếng khi tivi chuyển qua mục quảng cáo - Jessica và Angela muốn xem qua vài cái áo ở Port Angeles vào tối mai, để chuẩn bị cho buổi khiêu vũ... Cả hai đứa nó muốn nhờ con chọn giúp... Con có thể đi với chúng được không?
- Jessica Stanley ấy hả? - Bố hỏi lại.
- Và Angela Weber - Tôi thở dài khi phải nói cả họ tên cho bố biết.
Bố ngạc nhiên ra mặt:
- Nhưng con đâu có ý định tham dự khiêu vũ?
- Dạ, con không tham dự, nhưng con sẽ giúp họ lựa áo... giống như là “cố vấn” ấy ạ - Với phụ nữ thì tôi không phải giải thích lằng nhằng thế này đâu.
- Ừ, con cứ đi đi - Có vẻ như bố đã hiểu ra rằng “con gái là thế” nên thôi không hỏi han gì nữa - Nhưng nhớ tối tăm là phải đi chung với nhau đấy nhé.
- Sau giờ học là tụi con đi liền, nên sẽ về muộn. Bố có thể tự lo bữa tối được mà, phải không bố?
- Bells à, trước khi con đến đây, suốt mười bảy năm qua, bố vẫn tự ăn một mình đấy thôi, đã sao đâu nào - Bố nhắc cho tôi nhớ.
- Bởi thế con mới thấy lạ - Tôi lầm bầm trong miệng rồi như sực nhớ ra, tôi nói to - Con sẽ bỏ vài thứ vào tủ lạnh để bố ăn kèm với bánh xăngguých nhé? Ở ngăn trên cùng ấy.
Sáng hôm sau, trời vẫn đầy nắng. Tôi lại tỉnh dậy trong một niềm hy vọng mới, dù rằng mình đã kiên quyết gạt bỏ từ hôm qua. Hôm nay, tôi chọn mặc một chiếc áo màu xanh dương đậm, có cổ hình chữ V, chiếc áo này tôi đã mặc hồi giữa mùa đông ở Phoenix, giờ mới lại lấy ra mặc giữa tiết trời ấm áp như thế này đây.
Cũng vào ngày hôm nay, tôi quyết định lên lịch đến trường cụ thể, nghĩa là canh giờ làm sao để khi vừa ngồi vào ghế là bắt đầu vào giờ học ngay. Mọi động thái của tôi lại diễn ra như thường lệ: khi vừa trờ đến cổng trường, tim tôi thắt lại, tôi cho xe chạy vòng vòng quanh bãi để tìm chỗ trống, đồng thời... tìm luôn chiếc xe Volvo màu bạc sáng bóng... Sau vài lần lượn tới lượn lui mà chẳng thấy tăm hơi nó đâu, tôi bèn cho xe đậu vào hàng cuối cùng rồi ba chân bốn cẳng chạy vào lớp quốc văn, không kịp thở lấy một hơi, trước khi hồi chuông cuối cùng báo hiệu giờ học vang lên. Dẫu sao trong lòng tôi cũng không còn cảm thấy nặng nề.
Hôm qua làm sao thì hôm nay cũng y như vậy. Tôi quyết chẳng để cho bất kỳ một tia hy vọng nào nhen nhóm trong lòng mình nữa. Khi lần bước đến quán ăn trưa, tôi đã phải kìm nén một cách khổ sở, để rồi khi ngồi một mình một bàn trong giờ sinh học, trong tôi không còn mảy may một chút hy vọng nào.
Chuyến đi đến Port Angeles được dời lại vào ngày hôm nay đã trở nên thú vị hơn khi Lauren đột nhiên có một cuộc hẹn khác. Tuy nhiên, nghĩ đến việc rời khỏi thị trấn là lòng tôi lại chùng xuống, bất giác, tôi hơi ngoái lại phía sau... trông chờ một phép lạ... Không cần, tối nay mình sẽ ổn thôi, mình sẽ không làm hỏng niềm vui của Angela và Jessica đâu, tôi tự nhủ với mình như vậy. Biết đâu mình lại tìm được một bộ đồ ưng ý. À, còn cái vụ đi mua đồ ở Seattle vào cuối tuần này nữa, có lẽ mình sẽ phải tự đi lấy một mình, sao mà chẳng còn thấy hứng thú như lúc đầu thế nhỉ... thật là chả muốn nghĩ tới. Nhưng mà không phải như thế đâu, nhất định hắn ta sẽ không hủy bỏ chuyến đi mà không thèm báo cho mình lấy một tiếng đâu.
Tan trường, Jessica lái chiếc Mercury trắng cũ kỹ, theo tôi về nhà để tôi cất sách vở cùng chiếc xe tải. Vào nhà, tôi chải qua mái tóc, bất chợt cảm thấy hào hứng lên đôi chút khi nghĩ tới việc được tạm thời rời khỏi Forks. Tôi để lại trên bàn một lời nhắn cho bố, nhắc lại cho bố chỗ để bữa ăn tối, và nhanh tay lục tìm trong túi xách cái ví cũ mèm ít khi được đụng đến, rồi nhanh chân chạy ra với Jessica. Chúng tôi đến nhà của Angela, cô bạn đang đứng đợi. Nỗi hào hứng của tôi nhanh chóng tăng lên, chính xác là tăng theo hàm lũy thừa khi chiếc xe vi vút lao ra khỏi địa phận của thị trấn.