Dịch giả: Trương Bảo Sơn
Chương II

     ng Ba Xu còn thức, nằm bên bà vợ đương ngủ, thân hình đồ sộ. Những đêm sáng trăng, ông thường hay thức. Ông thường tự hỏi những đêm như thế người ta có nên ra đồng làm việc không. Ông muốn lén ra khỏi giường để đi, thí dụ như chặt một cây sồi làm củi, hoặc nhặt nốt cỏ Cu Tý đang làm dở. Ông nghĩ thầm:
- Thằng bé, đáng lẽ mình phải mắng nó mới phải.
Khi còn nhỏ, ông mà lười biếng bỏ việc đi chơi như thế thì đã bị đòn nứt đít ra rồi. Cụ thân sinh ra ông đã đuổi ông ra suối bắt nhổ cái cối xay đi và bắt nhịn đói một bữa. Ông lại nghĩ: Thôi mặc nó! Nó có bé mãi đâu!
Nhớ lại dĩ vãng, ông thấy ông không được hưởng cái sung sướng của tuổi thơ ấu. Cụ thân ông là một mục sư nghiêm khắc như Đức Chúa trong kinh Cựu Ước. Tuy nhiên, không phải cụ sống về thánh kinh, mà sống về một cái trại nhỏ ở gần Vô-Lư-Hạ là nơi cụ nuôi các con cái đông đúc của cụ. Cụ đã dậy các con đọc, viết và học những thánh kinh, nhưng tất cả đứa nào vừa mới chập chững biết chạy biết nhẩy, cũng phải làm việc cho đến rã cánh. Thức ăn thì hạn chế. Ông Ba không sao to nhớn lên được. Chân tay khẳng khiu, vai hẹp, ngực và hông thì giơ cả xương ra, mềm oặt. Một hôm ông đến nhà ông Phó Lém đứng giữa mọi người như một cây sậy đứng giữa những cây sồi vĩ đại. Ông Phó Lém ngắm ông một lúc rồi nói:
- Oắt con trông như đồng xu. Cố nhiên là một đồng xu lương thiện rồi, nhưng không còn đồng xu nào bé hơn nữa. Xu ơi là Xu! Ba Xu ơi, là Ba Xu!
Tên ông trước là Ba sau thêm thành Ba Xu từ đấy. Khi ông đi bầu phiếu, ông ký là Nguyễn Văn Ba, nhưng khi ông nộp thuế thì người ta cứ biên tên ông là Ba Xu, mà ông cũng chẳng phản đối. Ông thực là một đồng xu bằng kim khí nguyên chất, rắn chắc như đồng, mà cũng có cái gì mềm dẻo như đồng nữa. Ông lại thực thà lương thiện quá thành nhiều người coi ông như một miếng mồi ngon, nhất là các ông chủ tiệm, chủ máy xay và các ông lái ngựa. Một hôm ông chủ tiệm Týn Thành ở Vô-Lư-Hạ, người cũng thực thà như ông, trả thừa ông một đồng bạc; ông đã đi khỏi hàng mấy cây số rồi còn quay lại trả, mà ông lại đi bộ vì ngựa ông què. Ông Týn Thành bảo:
- Ông cẩn thận quá! Sao ông không đợi khi khác tiện dịp qua đây trả lại tôi cũng được.
Ông Ba Xu đáp:
- Nhưng tiền không phải của tôi, tôi giữ trong mình áy náy chết đi được. Giá tôi chết đi nữa tôi cũng chỉ muốn giữ cái gì của tôi thôi.
Điều này cũng để cho ta hiểu tại sao Ba Xu lại đến một nơi hẻo lánh không người. Những người ở dọc bờ sông sâu, lặng sóng, tấp nập thuyền bè lớn nhỏ qua lại buôn bán, có người lại chiếm một khoảng rộng suốt từ bờ sông bên này qua bên kia, cho rằng ông Ba Xu phải là người can đảm lắm, và điên cuồng lắm mới bỏ những nơi đông đúc, đưa vợ con vào giữa chốn rừng sâu, núi thẳm, đầy beo, sói, gấu, cọp như thế. Đối với bọn Phó Lém thì người ta hiểu ngay là cái gia đình đông đúc toàn những kẻ vũ phu háo chiến cần phải ở nơi rộng rãi và không muốn bị ai quấy nhiễu. Nhưng ai là người nỡquấy nhiễu Ba Xu?
Đâu có phải là chuyện bị quấy nhiễu; nhưng ở nơi làng mạc, đô thị, những nơi dinh trại kế cận nhau, những dư luận, những hành động và những tài sản của mọi người thường không giới hạn. Người nọ hay xen vào đời tư của người kia. Sự thực thì họ đối với nhau cũng có tình bằng hữu thân thiện và tương trợ những lúc khó khăn, nhưng cũng có khi họ gây lộn nhau và nghi kỵ lẫn nhau. Ông Ba Xu đã sinh trưởng trong một gia đình có ông bố hết sức nghiêm khắc và trong một xã hội tàn nhẫn, lừa lọc, gian ác và cũng vì thế mà đáng lo âu.
Có lẽ ông đã nhiều lần bị đánh đập. Cảnh yên ổn và êm tĩnh, có thể nói là từ bi, của rừng rú sâu rộng đã lôi cuốn ông. Trong người ông có một cái gì vừa chất phác vừa hiền lành, mộc mạc vừa mong manh, người ta đụng tới thì đau đớn, mà rừng thông động đến thì lại làm cho khuây khỏa dễ chịu. Ông sống ở trong rừng thực là chật vật, mà đi mua đi bán cái gì thực là xa xôi khó nhọc. Nhưng cái đồn điền đây thực là hoàn toàn của riêng ông. Thú rừng đối với ông có lẽ còn không đến nỗi tàn ác như một vài người ông đã gặp. Ông có thể hiểu vì sao những giống sài lang, beo gấu giết hại gia súc của ông; nhưng ông không thể hiểu tại sao loài người lại độc ác đến thế.
Ngoài ba mươi tuổi ông mới lấy một thiếu nữ mập mạp, to lớn gấp đôi ông; ông đưa vợ lên một chiếc xe bò chất đầy những vật dụng cần thiết trong gia đình, đi lúc la lúc lắc đến một căn nhà con tự tay ông đã cất sẵn trong một cái trại. Ông đã ra công kiếm được chỗ đất tốt nhất trong chốn rừng hoang đầy thông và bụi rậm này.
Ông mua của bọn Phó Lém ở cách đó khá xa, ít nhất là bốn cây số; miếng đất rất tốt giữa một hòn đảo thông, là vì thông ở đây cành lá dài mọc vượt lên giữa những bụi rậm thấp, trông chẳng khác gì một hòn đảo phì nhiêu nổi trên những làn sóng biển.
Cũng có nhiều hòn đảo khác giống thế rải rác về phía tây và phía bắc, nhưng đất ở đấy khó cày cấy, hoặc ẩm thấp nên cây cối mọc um tùm rậm rạp, những cây dứa dại mọc nhiều nhất; lại có cả sồi, hồng nguyệt quế, mộc liên, anh đào dại, mía, ô rô, cẩu cốt... mọc rải rác mọi nơi.
Chỉ có vấn đề thiếu nước là phiền nhất, mạch nước sâu quá, đào và xây được một cái giếng tổn phí không thể tưởng tượng được. Trong khi chờ xi măng, vôi, gạch hạ giá, thì nhà ông Ba vẫn !!!15033_28.htm!!! Đã xem 17590 lần.