NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Vụ Án Tình Si
(Yên Chi)

Họ Biện ở Đông Xương chuyên nghề chữa bệnh cho trâu. Ông ta có con gái, tiểu tự là Liên Chi, tài sắc đủ về. Người cha yêu quý lắm muốn gả cho con nhà thanh quý, song những bậc giàu sang lại khinh là xuất thân hèn kém không xứng đáng để làm thông gia. Bởi vậy cô ta đến tuổi cập kê mà chưa có nơi có chốn.
Ở nhà đối diện có Vương thị- vợ họ Củng- tính khí lả lơi cợt nhả, là bạn trò chuyện tỉ tê trong chốn buồng the của Yên Chi. Một hôm tiễn chân Vương thị ra đến cổng, chợt thấy một chàng trai đi qua, quần áo trắng tinh, phong thái đĩnh đạc, Yên Chi đã chiều như phải ý, nét thu ba lúng liếng đôi hồi.
Chàng trai cúi đầu rảo bước đi qua. Đi đã rồi mà cô nàng còn cứ nhìn theo đăm đắm. Vương thị đóan biết ý tình mới nói chơi rằng:
- Tài sắc cô thế này mà sánh với người ấy thì không có gì đáng hận.
Cô gái ửng hồng gò má, nín thinh không nói một lời. Vương thị lại hỏi:
- Cô có biết chàng ta không?
- Không biết.
- Đó là tú tài Thu Chuẩn, con cố chử nhân họ Ngạc ở ngõ Nam. Tôi là người cùng làng nên có biết. Đàn ông trên đời này dễ không ai hòa nhã được như cậu ta. Cậu ta mặc đồ trắng vì tang vợ chưa hết. Cô vừa ý tôi sẽ nhắn lời mai mối cho.
Cô gái nín thinh. Vương thị cười quay về.
Mấy ngày sau vẫn không có âm hao gì, cô gái cho hoặc là Vương thị bận chưa đi ngay cho được, hoặc họ dòng dõi nhà sang không chịu hạ mình. Rồi cứ bổi hổi bồi hồi, nghĩ quanh nghĩ quẩn đến bỏ cả ăn uống nằm liệt giường. Vương thị đến thăm, gặng hỏi bệnh tình làm sao. Yên Chi rên rỉ:
- Em cũng chẳng biết vì sao? Từ hôm ấy chị về rồi em cảm thấy khó chịu, hơi thở bây giờ chỉ còn như mượn, sớm muộn gì thì em cũng sẽ đi thôi!
Vương thị thầm thì:
- Anh ấy nhà tôi buôn bán chưa về, cho nên chưa có người đánh tiếng đến nhà họ Ngạc, mình ngọc không an, phải vì thế chăng?
Đôi má Yên Chi ửng hồng hồi lâu. Vương thị lại đùa:
- Nếu quả vậy mà bệnh đến thế này thì còn e gì nữa? Trước tiên hãy gặp nhau một tối, chàng ta đến mấy mà lại không ưng?
Cô than thở:
- Đúng! Sự tình đến thế này thì không thể đừng được nữa. Tuy nhiên nếu họ không hiềm nhà em thấp hèn nhờ người mai mối ngay đi thì bệnh em ắt khỏi. Còn như hò hẹn tự tình thì quyết không thể được.
Vương thị cúi đầu đi về.
Thuở còn đào non, Vương thị đã từng tư thông cùng người học trò trong xóm là Túc Giới. Sau khi Vương thị thành gia thất, Túc cứ rình người chồng vắng nhà là ngựa quen đường cũ, lại tìm đến hú hí với người tình cũ. Tối ấy Túc đến, thị thuật lại chuyện cô gái, cốt làm trò cười rút rít với tình nhân, lại còn dặn đùa Túc đánh tiếng với Ngạc. Túc biết tiếng cô gái đẹp từ lâu, nghe chuyện ấy mà khấp khởi trong dạ, chuyến này có thể mượn gió bẻ măng. Nhưng muốn cùng mưa tình với tình nhân song lại sợ ả ta ghen, bèn ra vẻ vô tâm, khuyấy khỏa hỏi dò đường ngang lối tắt nhà cô gái.
Đêm hôm sau hắn trèo tường vào, đến ngay buồng Yên Chi gõ nhẹ vào cửa. Bên trong có tiếng hỏi:
- Ai đấy?
Đáp: Ngạc đây!
Tiếng cô gái hổn hển nói vọng ra:
- Em sở dĩ nghĩ đến chàng là vì chuyện trăm năm, đâu phải vì một tối. Nếu chàng quả thực yêu thương em thì hãy nhờ mai mối tới ngay. Nếu có ý đòi tư thông thì em quyết không dám vâng lời.
Túc giả vờ ưng thuận, chỉ khẩn cầu được nắm bàn tay thon thả làm tin. Cô gái không nỡ cự tuyệt thẳng thừng, đành gượng dậy mở cửa. Túc nhảy xổ vào ôm chầm lấy đòi điều kia khác. Cô gái không còn sức nào chống cự, ngã quay ra đất, thở không ra hơi. Túc vội dìu lên, cô gái nói đứt đoạn:
- Sao tàn ác đến thế! Tất không phải là Ngạc lang... Nếu quả Ngạc lang là người thuần nhã thấy tôi đau ốm hẳn phải xót thương, có đâu lại cuồng bạo thế này!... Nếu còn vậy tôi buộc phải kêu lên thì sẽ tổn thương đến phẩm hạnh cả hai. Hỏi có ích gì?
Túc sợ bại lộ tung tích không dám tiếp tục cưỡng bức chỉ xin được hẹn hò gặp gỡ sau này. Cô gái xin chờ ngày nghinh hôn. Túc cho rằng hẹn ấy xa quá, cứ nài nẵng. Để chóng thoát khỏi cảnh bày bây, cô đành hẹn khi khỏi bệnh. Túc xin vật làm tin, cô gái không cho. Túc sấn sổ tuột lấy chiếc giày thêu của cô gái rồi quay đi. Cô gái gọi, đòi trả lại:
- Đã có lời giao ước, tôi đâu dám tiếc? Chỉ sợ vẽ hổ thành chó, để rồi chịu tiếng chê cười. Nay của tin đã lọt vào tay anh, liệu không thể nào quay trở lại được nữa. Anh như có lòng nào phụ bạc, tôi chỉ còn một chết mà thôi.
Túc quay trở lại ngủ với Vương thị. Đã đi nằm rồi hắn vẫn không quên đôi giày, lén thò tay vào túi áo thì giày đã biến đâu mất. Hắn vội vàng dậy che đèn lục lọi áo, lần tìm trong bóng tối. Vương thị thấy thế gặng hỏi, hắn cứ im thin thít. Hắn nghi Vương thị dấu đi. Ả ta lại cứ cười cợt ỡm ờ làm cho hắn càng nghi. Rồi sốt ruột không kìm giữ được nữa, hắn nói toẹt ra. Nói xong hắn đốt đuốc ra tìm ngoài nhà nhưng vẫn không thấy, đành nuôi hận trở về buồng Vương thị. Hắn vẫn còn hy vọng, đêm hôm khya khoắt không ai qua lại, nếu có giày rơi thì vẫn còn ở ngoài đường. Tờ mờ sáng hắn đã trở dậy, lục lọi tìm tòi, song vẫn không thấy gì cả.
Nguyên là trong ngõ có Mao Đại là tên du thủ du thực, không có nơi ăn chốn ở nhất định. Hắn ve vãn Vương thị nhưng không ăn câu. Lại biết Túc thường lui tới nhà thị nên rình bắt để cho bêu rêu một phen. Đêm ấy hắn qua cổng nhà th.
Cháu cười và nói:
- Đã đẹp lại là thi sĩ nữa, cậu ạ! Thơ phú làm hay đáo để, cô thường dạy bảo cháu luôn.
Cửu nương mỉm cười:
- Con nhỏ này khi không bêu rếu người ta làm cho ông cậu cười chết!
Cháu cũng cười nói tiếp:
- Mợ cháu qua đời, mà cậu chưa lấy ai. Cậu xem cô này có vừa lòng không?
Cửu Nương cười thẹn vừa chạy vừa nói:
- Ranh con này phát khùng nói nhảm rồi đó.
Nói đoạn đi thẳng.
Lời nói tuy gần như đùa bỡn, nhưng chàng nghe lấy làm thích ý. Cháu dòm thấy ý cậu bèn nói:
- Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp. Nếu cậu không chê là dị loại, thì cháu xin nói giùm với bà mẹ cô ta.
Chàng bằng lòng lắm, nhưng sợ người với ma làm sao kết thành vợ chồng được, cháu biện bạch:
- Không hề chi đâu cậu ạ! Cậu với cô ta vốn có lương duyên túc thế với nhau.
Chàng từ biệt ra về, cháu tiễn chân và nói:
- Năm bữa nữa, trăng thanh người vắng có người đến rước.
Chàng ra ngoài cửa, không thấy Châu sinh đâu cả,nghểnh cổ nhìn về hướng tây, bóng trăng lờ mờ, nhận ra con đường cũ mà đi, thấy một toà nhà ở mé nam. Châu ngồi trên bệ đá ngoài cửa, lật đật đứng dậy đón chào:
Tôi ngồi đợi anh đã lâu. Đây là nhà tôi, mời anh quá bộ vào chơi.
Nói đoạn dắt tay chàng vào, ân cần cảm tạ, rồi đưa ra một cái chén vàng, trăm hột trân châu, và nói:
- Thưa anh, tôi xin nộp mấy vật mọn này để làm lễ cưới. Kế đó nói tiếp ngay:
- Nhà tôi có rượu đây, nhưng đó là vật dưới âm ty, không muốn đem mời khách quý, xin anh lượng cho.
Chàng xin cáo thoái, Châu tiễn ra đến cửa đường mới trở lui.
Về chùa, nhà sư và người tùy tùng xúm hỏi, chàng giấu giếm và nói:
- Bảo tôi gặp ma, ấy là nói xam. Vừa rồi tôi đến nhà bạn nhậu chơi đó thôi.
Sau năm hôm, quả thấy Châu đến, gương mặt rất vui vẻ, mới vào tới sân đã chào hỏi cười nói:
- Việc cui mừng của anh đã xếp đặt xong rồi, động phòng ngay trong đêm nay.
Đoạn, ngồi lại đợi anh sửa soạn cùng đi. Chàng tỏ vẻ sửng sốt:
- Quái lạ, tôi vì chưa nhận được hồi âm, cho nên chưa nộp lễ cưới gì cả, sao anh lại bảo là xong việc rồi?
Châu nói:
- Tôi đã thay mặt anh mà nộp đâu đó cả rồi.
Chàng hết sức cảm tạ, rồi theo Châu tới nhà Châu vào thẳng trong buồng, thấy có cháu gái y phục sang trọng, chờ đón rước cậu. Chàng nói:
- Cưới nhau hồi nào?
Châu trả lời:
- Đã ba hôm nay.
Chàng đưa ngay số hột ngọc của bạn tặng riêng cho hôm trước, cho cô cháu gái để thêm vào của hồi môn. Cô từ chối đôi ba lần rồi mới chịu lãnh, rồi kể chuyện lại cho cậu nghe:
- Cháu đem ý muốn của cậu bày tỏ với Công Tôn lão phu nhân; bà bằng lòng lắm, nhưng chỉ lấy cớ mình già nua, mà đường con cái hiếm hoi, ngoài Cửu Nương không có cốt nhục nào khác cho nên không muốn gả nàng đi lấy chồng xa. Phu nhân hẹn đêm nay cậu đến gửi rể tại nhà. Nhà không có ai là đàn ông, vậy để nhà cháu dẫn cậu đi.
Châu liền dẫn chàng đi, tới cuối xóm, thấy một nhà mở cửa sẳn sàng. Hai người vào trong nhà, ngồi giây lát thì gia nhân báo tin phu nhân đến. Hai nàng thanh y nâng đỡ bà cụ bước lên thềm nhà, chàng muốn lạy chào, nhưng bà cụ gạt đi:
- Tôi già yếu lọn khọm đáp lễ không đặng, vậy xin khước đi nhé.
Nói rồi, truyền thanh y bày tiệc rượu mừng. Châu cũng gọi gia nhân đem cỗ bàn riêng ở nhà mình lại và một hồ rượu riêng, để chuốc chén mừng chàng. Trong tiệc ăn uống không khác trần gian, duy có chủ nhân tự uống tự ăn, chứ không vồn vã mời khách. Tiệc tan, Châu ra về.
Thanh y dẫn đường cho chàng vào nhà trong, Cửu Nương diện sang, ngồi bên đuối hoa đợi sẵn. Trai tài gái sắc, cá nước duyên ưa, cuộc gặp gỡ nhau vui sướng thế nào, không cần phải nói ra.
Nguyên lúc trước, mẹ con Cửu Nương bị bắt, người ta định giải về kinh đô, nhưng khi đến quận Tế Nam thì bà mẹ chết vì không chịu nổi cực khổ, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo mẹ. Nay cùng tân lang đầu ấp tay gối kể chuyện thân thế đã qua mà thổn thức không tài nào ngủ được, bèn khẩu chiếm hai bài thơ tứ tuyệt:
I
Áo lụa hồi xưa hóa bụi trần
Luống đem nghiệp chướng trách tiền thân
Mười năm bóng chiếc sương khuya lạnh
Gác tía đêm nay mới thấy xuân.
II
Nấm mồ côi cút gió mưa vây
Ai ngỡ dương đài lại hóa mây?
Chợt nhớ rương xưa đem vật cũ
Quần là vấy máu hãy còn đây.
Trời gần sáng, nàng hối thúc chồng:
- Mình nên về sớm đi chớ để bọn tôi tớ bàn tán khó chịu.
Từ đó ngày tới đêm đi lại ái tình hết sức gắn bó. Một đêm chàng hỏi vợ:
- Làng này tên chi?
- Tên là Lai Hà Lý. Nàng đáp- Trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là người hai huyện Lai Dương, Thế Hà cho nên thành tên.
Chàng nghe bùi ngùi khôn xiết, nàng cũng bi cảm nói:
- Cô hồn bơ vơ, ngàn dặm trôi nổi, tình cảm hai má con tôi, nói ra đau lòng xót ruột. Nếu chàng nghĩ đến ân nghĩa một đêm, thì lấy cốt em mà táng bên mộ ông bà để cho em có chỗ nương tựa muôn đời không còn ân hận gì nữa.
Chàng nhận lờ, nàng lại nói:
- Âm dương cách trở, người quỷ khác nhau, mình cũng không nên bịn rịn ở chốn này lâu.
Nói rồi đưa tặng chàng cái khăn lụa để làm kỷ niệm và gạt lệ giục chàng lên đường. Chàng rầu rĩ ra đi, trong lòng còn thương tiếc không đành, bèn tiện đường gõ cửa nhà họ Châu.
Châu chạy chân không ra đón, vợ cũng trỗi dậy, đầu tóc rũ rượi, thấy cậu nửa đêm đến nhà mình, có ý sửng sốt hỏi gạn căn do. Chàng ngẩn người giây lát, mới thuật lại lời nói của Cửu Nương. Châu nói:
- Mợ cháu không nói với cậu thì cháu cũng định nói, vì mấy hôm nay cháu suy nghĩ đêm ngày đã tính đến việc đó. Chốn này không phải là trần gian, thiệt tình cậu chẳng nên ở lâu.
Hai cậu cháu ngó nhau trào nước mắt. Một lúc chàng mới gạt lụy, từ biệt lên đường.
Trở về gõ cửa nhà trọ nằm trằn trọc tới sáng.
Thức dậy, muốn đi tìm mộ Cửu Nương ngay, nhưng lại quên hỏi dấu tích thì biết mộ nàng ở đâu mà tìm. Mong cho mau tới đêm tối lại đi nhưng mồ mả lố nhố ngổn ngang không đường nào xóm cũ đành phải thở dài bỏ về.
Chàng nhớ chiếc khăn nàng tặng, lấy ra xem, gặp gió thổi rách tả tơi, nát như tro tàn.
Thầy trò sửa soạn hành lý trở về quê quán, luôn nửa năm trời bứt rứt trong tâm, không sao chịu nổi, lại cưỡi ngựa đến trước cửa thành Tế Nam, may ra gặp được nàng chăng? Khi đến Giao Nam, trời đã chạng vạng, liền buộc ngựa gốc cây trước sân, rồi lần mò vào bãi tha ma.
Nhưng chỉ thấy mồ con mả lớn, gai góc um tùm, lập loè lửa ma. Tê lòng sởn óc, đành bóp bụng trở về quán trọ, rồi ngày hôm sau rầu rĩ lên đường hồi hương.
Đi chừng một dặm, xa trông thấy một thiếu nữ đi thơ thẩn một mình trong đám mồ mả, nhìn cách ăn mặc đi đứng thật giống Cửu Nương, vội vàng xuống ngựa để nói chuyện với nàng. Nhưng nàng bỏ chạy, làm như không từng quen biết. Chàng lại muốn tới gần mữa, thì nàng nhăn mặt trừng mắt tỏ vẻ giận dữ, đưa tay áo lên che mặt. Chàng kêu Cửu Nương mấy tiếng, nàng biến đâu mất.
ĐÀO TRINH NHẤT dịch

Truyện Liêu Trai Chí Dị Dế Chọi Đạo Sĩ Thư Sinh Họ Diệp Ðạo Sĩ Núi Lao Thụy Vân Vương Thành Anh Ninh Không đề Hồng Ngọc Bành Hải Thu Bộ Da Vẽ Xảo Nương Ngũ Thu Nguyệt õ. Chỉ nhớ là khi gõ cửa nhà Vương thị thì giày vẫn còn trong ống tay áo.
Ông quay sang hỏi Vương thị:
- Ngoài Túc ra, còn ai thông gian với ai nữa?
- Bẩm, không có ai nữa.
- Đã là kẻ đĩ bợm, đâu chỉ có chuyện một người?
- Con đã trót dan díu với Túc Giới từ thuở nhỏ chưa thể đoạn tuyệt được. Về sau không phải là không có kẻ ve vãn, chim chuột, song thực chưa dám đi lại thêm với một ai khác.
Ông bắt nói rõ tên những kẻ ve vãn để chứng thực.Vương thị cung tiếp:
- Kẻ cùng làng là Mao Đại đã mấy lần rồi, lần nào cũng bị cụt hứng.
Thi công châm biếm:
- Gớm nhỉ? Sao tự nhiên lại trinh bạch thế?
Liền sai đánh trượng. Ả ta gục đầu chịu đòn, máu me đầm đìa, song vẫn hết sức biện bạch là quả không còn đi lại với ai khác. Lúc ấy Thi công mới tha đánh, vặn hỏi:
- Chồng ngươi đi xa, há lại không có kẻ nào thác cớ đến gạ gẫm hay sao?
- Thưa, thế thì cũng có. Tên Giáp, tên Ất... đến một vài lần, hoặc vay mượn, hoặc quà cáp.
Những tên Giáp tên Ất này đều là những tên du đãng trong ngõ, cũng có ý định với a nhưng chưa dám lộ.
Thi công ghi họ tên bọn ấy, sai bắt đến hết, giam chúng ra miếu Thành Hoàng, bắt quỳ phục trước hương án rồi phán bảo:
- Đêm qua ta được thần nhân báo mộng: kẻ sát nhân không ngoài bốn, năm tên lũ bay. Nay trước uy linh thần linh, bay không được dối trá. Đứa nào tự thú được hưởng lượng khoan hồng. Bằng không thì quyết chẳng khoan thứ.
Bọn chúng đều đồng thanh kêu là không có dính dáng đến vụ giết người. Thi công sai đem hết gông cùm, kìm kẹp bày ra trên mặt đất, như thể chuẩn bị gia hình. Chúng bị buộc trói lại, lột trần truồng ra, nhưng vẫn một mực kêu oan. Thi công sai ngừng gia hình, phán bảo:
- Bay đã không tự nhận thì buộc ta phải nhờ quỷ thần chỉ bảo.
Rồi sai người lấy chăn che kín các cửa đền, không để cho ánh sáng lọt vào; trật trần lưng bọn chúng ra dẫn vào trong buồng tối, đưa một chậu nước vào bắt đứa nào cũng phải rửa tay rồi sắp hàng đứng dưới bức vách. Xong xuôi ông mới ra lệnh:
- Bọn bay phải quay mặt vào vách, cấm không được động đậy để thần nhân viết chữ vào lưng kẻ có tội.
Lát sau, gọi chúng lên kiểm tra, ông chỉ vào mặt Mao Đại, thét lớn:
- Đây đúng là tên sát nhân.
Thì ra Thi công đã sai người xoa than lên vách. Nước rửa tay chính là nước muội đèn. Tên giết người sợ thần viết vào lưng, cho nên trong bóng tối đã quay lưng lại tựa vào vách, đến khi sắp ra lại lấy tay che lưng nên trên lưng có vệt đen. Khi thẩm phán, Thi công đã có ý nghi Mao, đến bây giờ càng rõ rành. Rồi dùng cực hình tra khảo, Mao phải khai ra hết sự thực.
Sau đó, Mao bị kết án chém đầu, Túc Giới là sĩ buông tuồng bị giáng một bậc học vị.
Văn án được công bố, xa gần đều truyền tụng.
Ngày từ khi được Ngô công phúc án. Yên Chi mới biết Ngạc Thu Chuẩn là oan. Mỗi khi ra vào chốn công môn, gặp nhau nàng thường nhìn chàng mà nuốt lệ, tựa như có điều gì đau đớn tiếc nuối mà chưa nói được thành lời. Ngạccũng cảm động vì tình quyến luyến không che giấu của cô gái, trong lòng cũng rất mực mến yêu. Song lại nghĩ đến điều cô ta xuất thân hèn kém, mỗi khi bị dẫn giải đến nha môn trăm nghìn người nhòm ngó, chỉ trỏ, nếu lấy e sợ người ta chê cười. Bởi vậy cứ ngày đêm nghĩ quanh nghĩ quẩn mà không dám tự quyết được. Văn án cuối cùng được ban bố, trong đó có mấy câu kết về Yên Chi thấu lý đạt tình: “ Khen cho biết chống cự khi kẻ xấu lọt vào nhà, đó là người tình nhân trong trắng. Còn như biểu lộ thái độ ái mộ chàng trai đẹp, đó cũng là việc thanh nhã, phong lưu. Bởi vậy mong quan huyện đứng ra tác thành cho đôi lứa”. Lúc ấy Ngạc mới ngả một bề.
Và quan huyện đã làm đúng theo lời quyết án.
LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Rất rõ ràng: xử kiện không thể không hết sức cẩn trọng vậy! Cũng có thể biết người này bị kết oan, song ai biết kẻ kia còn có nhiều điều khuất tất. Tuy sự việc có điều ám muội song ắt thế nào cũng có kẻ hở. Cho nên nếu không suy ngẫm nghiên cứu kỹ thì không thể được vậy! Than ôi! Người ta đều phục cái bậc hiền minh có tài xử đoán ngục tụng, mà không biết dụng tâm của trời giá kia cũng thực là công phu vậy. Những bậc cai trị dân trên đời này chỉ biết cờ rượu qua ngày, chăn gấm xỏ tay, dân tình bên dưới khốn đốn, nào có động một chút lòng? Đến khi trống gióng mở cửa công đường thì ngất ngưởng trên cao tót, dưới sân nháo nhác tố khổ thì lại gông cùm trấn áp. Thế thì có lạ gì trong chốn tối tăm còn biết bao nhiêu oan khiên trầm uất.
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Tiểu Hòang Dung
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 3 tháng 1 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--