Dịch giả: Cung Vũ
Hồi 63
Đĩa Cá Nướng

Bỏ ý định đi Mitsu gặp Liêu Chính Mộ Đức, Thạch Đạt Lang phiêu bạc khắp miền trung nước Nhật gần hai năm. Cuộc sống khổ hạnh, bất trắc đã tôi luyện chí khí hắn, cho hắn nhiều dịp giúp đỡ đồng loại và những kinh nghiệm quý báu về kiếm thuật. Say mê nếp sống hải hồ, phóng dật, Thạch Đạt Lang không để ý đến bề ngoài. Quần áo lôi thôi lếch thếch, râu ria lởm chởm, hắn mặc kệ, đói thì đào củ, hái trái cây rừng mà ăn, lạnh thì hiên chùa, cùng lắm bụi cây, hốc đá chố nào cũng là chỗ trú.
Sau khi thoát hiểm trên đồi Hòa Đa, hắn đến Edo lưu lại vài ngày rồi lại hướng về phía Thiên Đài mà đi. Hắn không muốn sự ràng buộc nào nên đã quyết định không lên phương bắc phục thị Liêu gia nữa. Số tiền Mạc Khải Kỳ tặng chưa trả được, Thạch Đạt Lang vẫn còn áy náy.
Cuộc sống phiêu bồng đưa đẩy hắn đến bình nguyên Hotengahara, nơi đây năm trăm năm trước, Nasakado đã khởi loạn. Bình nguyên này cho đến ngày nay vẫn thế:
một vùng hoang vu đầy lau thưa với cỏ dại. Đây đó, vài gốc sồi ngả nghiêng bên những thân cây mục nát đổ dài trên đất sỏi như xác những kẻ chiến bại bị đốn ngã từ nhiều thế kỷ trước.
Mặt trời xế về tây. Ráng chiều nhuộm hồng mặt nước đầm cỏ lác gần đó khiến bóng những ngọn cói đen, cao, rõ rệt như cắt trên nền nước sáng.
Nhìn quanh không hy vọng gì có chỗ trú ngụ qua đêm, Thạch Đạt Lang ngồi nghỉ chân bên một gốc cây mục. Hắn cảm thấy mệt mỏi. Sau trận bão vừa qua trên đồi Tochigi, khí trời ẩm thấp lùa vào lần áo trong làm hắn rùng mình ớn lạnh. Đã mấy hôm nay chỉ ăn hạt giẻ với rễ cây, hắn ao ước một bếp lửa ấm, một bát cháo nóng hay một thứ gì ăn cho chắc bụng.
Cơn gió thoảng mang đến vị mằn mặn của muối. Tiếng ếch kêu lúc xa lúc gần.
Thạch Đạt Lang đoán chừng sắp hết bình nguyên. Cứ đi nữa chắc sẽ ra bờ biển, có thể gặp xóm chài nào đó xin tá túc. Nếu không lại phải ngủ qua một đêm ngoài trời nữa.
Những lúc khác, có lẽ Thạch Đạt Lang đã tận hưởng cái thú được một mình trong cảnh tịch mịch như thế này. Nhưng sau nhiều ngày thiếu thốn, hắn chỉ thấy một cảm giác đau thương đến buốt nhói trong lòng và muốn xua đuổi cái cảm giác ấy đi. Trớ trêu thay, tiếng muỗi vo ve cùng những tiếng côn trùng ri rỉ xung quanh lại như đồng lòng lôi kéo, bao vây hắn trong niềm cô quạnh mà hắn không sao dứt ra được.
Thạch Đạt Lang đứng lên men theo con lạch nhỏ. Đến bờ đầm, bỗng nghe bì bõm trong đám cỏ lác, rõ là tiếng chân người hoặc tiếng rái cá bắt mồi. Đầm này sâu, mặt nước cao, chắc rái cá tụ vào đây không phải là ít! Trong bóng tối chập choạng, hắn mở to mắt nhìn. Quả có bóng người đang lúi húi. Trông kỹ thì ra một đứa trẻ.
Thấy động, thằng bé ngẩng lên. Nó cũng chẳng khác gì con rái cá, quần áo đầy bùn đất nhưng hai mắt long lanh, đen, tròn nhìn Thạch Đạt Lang dò xét.
Mừng được gặp đồng chủng, Thạch Đạt Lang cười vui vẻ:
- Chú bé làm gì đó?
- Bắt cá!
Thằng bé đáp gọn lỏn, đồng thời giơ cho hắn xem chiếc rổ tre đựng chừng chục con cá to bằng ba ngón tay, vẩy trắng bạc đang quẫy lẫn trong những cọng rong và lá cỏ phủ trên mặt.
- Nhiều cá nhỉ!
Thằng bé lắc đầu:
- Cũng chẳng nhiều. Bắt từ trưa đến giờ mới được chừng ấy. Mùa thu rồi, cá trốn xuống bùn hết.
- Bán cho ta được không?
- Bán chỗ cá này ấy à?
- Ừ, cho ta mua, ta sẽ trả tiền.
- Không được. Cá này tôi bắt về cho cha tôi.
Dứt lời nó ôm rổ cá nhảy lên bờ. Một loáng đã mất dạng trong đám cỏ tranh cao bằng đầu người, không để lại dấu vết.
- Thằng này nhanh nhẹn quá!
Thạch Đạt Lang bất giác hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ thuở thiếu thời và nghĩ đến Giang, đứa học trò nhỏ bây giờ chẳng biết trôi giạt nơi đâu. Lần cuối gặp Giang ở trấn Kiso, gần biên giới tỉnh, bấy giờ nó mới mười lăm. “Nay chắc đã lớn, gần mười bảy tuổi rồi còn gì! Tội nghiệp! Nó gọi mình là sư phụ, tôn kính phục thị mình mà mình đã làm được gì cho nó đâu!”.
Nhớ đến những lúc đi với Giang và Oa Tử, hắn phiền muộn khôn cùng, tự trách mình đã không làm tròn bổn phận bảo vệ hai người trong cơn hoạn nạn. Trăng lên từ bao giờ hắn không biết. Mãi khi nhìn thấy bóng mình kéo dài trên nền cỏ ướt sương, hắn mới sực tỉnh. Vầng trăng đầy, tròn vành vạnh tỏa ánh sáng lung linh lên cánh đồng mênh mông càng làm tăng nỗi hiu quạnh trong lòng hắn. Nhớ lại những đêm trăng sáng như đêm nay, Oa Tử thường mang sáo ra thổi. Qua nhạc dế nỉ non, Thạch Đạt Lang nghe văng vẳng tiếng sáo của Oa Tử xen lẫn với những tiếng cười trong như thủy tinh của nàng và Giang. Thạch Đạt Lang lẳng lặng đi như kẻ mộng du. Vầng trăng chênh chếch ngang vai, biểu tượng mối tình son sắt của nàng, theo hắn từng bước, trung thành và im lặng.
Đi như thế chẳng biết bao lâu, bỗng xa xa thấy thấp thoáng có ánh đèn. Mừng được chỗ nghỉ chân và biết đâu chẳng có cái gì ăn lót dạ, Thạch Đạt Lang rảo bước về phía ấy.
Nhưng đến nơi, căn lều gỗ trơ trọi đen ngòm sau rặng lau cao khiến hắn e ngại.
Cửa đã đóng kín. Một tiếng ngựa hí vang. Hắn giật mình nắm đốc kiếm.
- Ai đó?
Hắn nhận ngay ra giọng thằng bé bắt cá hồi chiều.
- Ta là khách lỡ đường, muốn ngủ nhờ một đêm, sáng mai đi sớm.
Tấm ván cũ dùng làm cửa được kéo sang bên, đứa trẻ thò đầu ra dò xét.
- À! Ông khách!
Đoạn bước hẳn ra ngoài, nhìn Thạch Đạt Lang một lúc, nó nói:
- Được, mời ông vào.
Căn lều đổ nát quá đỗi. Mái tranh nhiều lỗ hổng, ánh trăng xuyên qua vẽ lên vách lá những vệt sáng tròn loang lổ. Cuối lều sát với một căn phòng, tạm gọi là phòng vì được ngăn ra bằng mấy tấm ván cũ, là một chỗ lõm xuống dùng làm bếp. Trong bếp than, sậy đã tàn nhưng mùi khét của những thân sậy chưa cháy hết vẫn còn phảng phất.
Đứa bé khêu to ngọn đèn dầu thông đặt trên bệ đất, mời Thạch Đạt Lang ngồi vào chiếc chiếu độc nhất trải trên nền nhà rồi quỳ xuống trước mặt hắn, trang trọng nói:
- Xin tha lỗi, nhà nghèo không có gì đãi khách. Lúc nãy ở ngoài đầm, ông ngỏ ý muốn ăn cá, bây giờ còn ý muốn ấy không?
Trong căn lều nát, dáng trịnh trọng của thằng bé khiến Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Hắn không nói mà chỉ nhìn nó chăm chú. Thấy khách nhìn, thằng bé cũng nhìn lại, chờ câu trả lời.
- Ngươi bao nhiêu tuổi?
- Mười hai.
Đứa trẻ đáp buông sõng. Nhìn khuôn mặt nó, Thạch Đạt Lang phân vân vì nó hao hao giống một khuôn mặt nào đó hắn không nhớ. Tuy thằng bé nhem nhuốc đen đủi như củ sen vừa móc dưới bùn lên, nhưng khuôn mặt ấy có nhiều nét thanh tú. Đặc biệt là đôi mắt sắc sảo vô cùng, vừa thông minh vừa cương nghị khiến hắn có cảm tình ngay.
Không thấy khách nói gì, đứa trẻ lại tiếp:
- Trong nhà cũng còn cháo kê nấu đậu. Cá nướng phần cha tôi rồi, ông có thể dùng chỗ còn lại.
Thạch Đạt Lang mỉm cười nghe câu nói thật thà ấy. Hắn gật:
- Tốt lắm. Vậy mang ra đây cho ta.
- Ông dùng trà không?
- Nếu có trà thì còn gì bằng!
- Vậy ông chờ đấy.
Thạch Đạt Lang nghe tiếng đứa nhỏ bẻ những thân sậy ở phòng trong rồi tiếng thổi lửa phù phù. Chắc nó đang đun nước.
Qua khe vách, khói cuồn cuồn tuôn ra, xua hàng đàn muỗi với bọ mát bay tứ tung khắp chỗ.
Lát sau thằng bé bưng ra một cái khay gỗ trên bày lộn xộn những thứ thực phẩm vừa kể, kèm theo một ấm trà, đôi đũa và cái bát sành, để tất cả lên chiếu trước mặt khách.
Đang đói bụng, Thạch Đạt Lang không nề hà, ăn một loáng đã hết cả món cá nướng và bát kê nấu đậu. Hắn chép miệng ra vẻ còn thòm thèm, gật đầu cám ơn thằng bé.
- Ngon lắm! Cho ta gửi lời cảm ơn chủ nhà nữa. Chủ nhà đâu? Chắc ngủ rồi!
Đứa trẻ cười hì hì, lấy tay chỉ vào mũi mình:
- Chủ nhà đây!
Thạch Đạt Lang trố mắt:
- Ngươi là chủ nhà?
Đứa trẻ gật. Yên lặng ngượng nghịu một lát, Thạch Đạt Lang lại hỏi:
- Ngươi ở một mình thì làm gì mà sống?
- Bắt cá, trồng rau, cho thuê ngựa. Con ngựa buộc đằng trước ông thấy đó. Tôi cho thuê và làm nài giữ ngựa luôn.
Thằng bé vừa nói vừa thu xếp khay mang vào.
- Khuya rồi, ông đi nghỉ thôi! Nằm ngay trên chiếu ấy. Nhà chỉ có thế!
Thạch Đạt Lang cảm ơn, cởi áo ngoài ra làm gối, dựa song kiếm vào vách cạnh túi hành trang rồi nằm nghỉ. Giấc ngủ đến chập chờn. Qua tiếng muỗi vo ve, hắn nghe đâu đây tiếng mưa rơi trên mái tranh và tiếng rin rít của sắt đá cọ vào nhau. Tỉnh dậy, mồ hôi toát ra như tắm ướt cả lần áo lót.
Bên ngoài, ánh trăng vẫn vằng vặc. Từ hiên vọng vào nhiều tiếng xoèn xoẹt, dường như có người đang mài dao trên đá. Một con dao hay một lưỡi kiếm? Thạch Đạt Lang nhẹ nhàng ngồi dậy, đưa tay với thanh trường kiếm kéo lại gần mình. Tiếng mài dao dừng lại, tiếp theo giọng đứa trẻ hỏi:
- Ông tỉnh rồi à?
Hắn cau mày. “Sao nó biết mình đã tỉnh?” và hết sức ngạc nhiên về sự linh mẫn của thằng bé.
Ghé mắt qua khe vách, hắn thấy thằng bé bắt cá đang ngồi mài một lưỡi dao, loại dao dùng để phát cỏ của nhà nông, dài đến hơn thước. Bên cạnh nó là cái hũ sành đựng nước.
- Ban đêm mài dao làm gì vậy?
- Ông sợ hả?
Câu hỏi như nhát kiếm đâm vào tâm thức Thạch Đạt Lang. Hắn yên lặng, tự hỏi hay thằng bé này là một con rái cá thành tinh ở dưới đầm hiện lên trêu chọc hắn. Ở những chốn đầm lầy, thiếu gì chuyện chồn, cáo, rái cá sống lâu năm thành tinh có thể đọc được những ý tưởng thầm kín của người ta rồi đội lốt người, hiện lên quấy phá.
Thạch Đạt Lang đứng dậy bước ra hiên đến bên thằng bé:
- Ngươi mài dao làm gì thế? Hắn hỏi lại.
Đứa trẻ chùi lưỡi dao và quần rồi giơ lên cao. Lưỡi dao loáng dưới ánh trăng. Nó đưa hai ngón tay sờ thử xem sắc hay nhụt, đoạn nói:
- Ông nghĩ dao này chặt người làm đôi được không?
Thạch Đạt Lang cau mặt:
- Còn tùy...
Thằng bé ngẩng nhìn Thạch Đạt Lang ra ý hỏi.
- Còn tùy cách sử dụng. Ngươi biết cách dùng nó không?
- Biết chứ!
- Định chặt ai thế?
- Cha tôi!
Câu trả lời khiến Thạch Đạt Lang giật mình sửng sốt. Từ khi bước vào lều, hắn không ngờ đứa trẻ lại có ý tưởng ghê gớm đến thế!
- Chặt cha ngươi ra làm đôi? Ngươi nói đùa không đấy?
- Thật mà!
Thạch Đạt Lang phẫn nộ kêu lớn:
- Ngươi có ý định giết cha? Ngươi có biết thế là vô luân hay không? Đến lang sói ở đồng hoang này cũng không thế!
- Tôi đâu có giết. Tôi chỉ cắt đôi ra thôi mà...
- Thằng này điên rồi!
Thạch Đạt Lang nhảy lại định giật con dao. Nhưng thằng bé kêu lên:
- Không! Không! Nếu không chặt ra thì làm sao tôi mang đi chôn được!
Thạch Đạt Lang khựng lại:
- Thế cha ngươi chết rồi à?
- Phải. Chết rồi! Lúc sáng.
Thạch Đạt Lang thở phào tựa người vừa trút được một gánh nặng. Nhìn ra xa, đồng cỏ hun hút dưới ánh trăng mơ hồ như trong truyện liêu trai. Hắn lắc đầu, không ngờ cuộc đời lại có những chuyện bi hài đến thế được!
- Thi thể để đâu?
- Ở phòng trong, ông vào mà coi!
Thạch Đạt Lang theo thằng bé vào phòng. Nó mang theo cái đèn đã khêu to ngọn đặt lên chiếu. Trên chiếu, xác một ông già mặt kimono mới, nằm ngay ngắn, tay để lên ngực, mái tóc bạc phơ cuốn gọn gàng trong chiếc mũ vải nông dân. Đầu chiếu, trên một cái kệ thấp bày bát cơm, bát nước và một đĩa gỗ đựng mấy con cá nướng, một cái lọ nhỏ cắm vài bông hoa dại còn tươi.
Trông đĩa cá, nhớ đến lúc hắn đòi mua những thứ ấy của thằng bé mang về làm lễ cúng cha, Thạch Đạt Lang cảm thấy bẽ bàng. Nghĩ rằng hắn cũng đã chia sẻ một phần những lễ vật kia, Thạch Đạt Lang chắp tay cúi đầu kính cẩn trước thi hài chủ nhân để tỏ lòng cám ơn và từ biệt.
Thằng bé mắt đỏ hoe. Nó không khóc, chỉ bậm môi. Thạch Đạt Lang khen cho lòng can đảm ấy và liên tưởng đến hành động thực tế của nó, mài dao định cắt thi thể cha ra để mang đi chôn cho dễ, hắn không biết phải nghĩ thế nào. Trong những tâm hồn hoang dã, ý niệm về luân lý có khác với ý niệm của mọi người. Một hành động khác thường trong một cảnh huống khác thường, âu đành coi như vậy!
- Ngươi định chôn cha ngươi ở đâu?
- Trên đồi. Chỗ ấy cao, không ngập nước.
- Không mướn được ai khiêng xác hay sao?
- Không có tiền.
- Ta tặng một số tiền làm ma.
Đứa trẻ lắc đầu:
- Cha tôi không muốn thế. Ông không nhận tiền tặng của ai bao giờ, mà cũng không muốn lễ lạc gì ở chùa nên không cần tiền.
Xem thái độ của thằng bé và nghe những lời nó nói thì gia đình này chắc không phải gia đình nông dân và có một quá khứ muốn giấu. Tôn trọng ý muốn ấy, Thạch Đạt Lang đề nghị giúp đứa nhỏ trong việc chôn cất.
Hôm sau, mới hửng sáng, thi thể ông lão đã được bó chặt lên lưng ngựa chở đi, đứa bé dẫn đường và Thạch Đạt Lang theo sau.
Đồng hoang khá rộng, nhiều chỗ lầy lội chỉ mọc toàn một thứ cỏ lác. Gặp những chỗ như thế, ngựa chở nặng không qua được, Thạch Đạt Lang phải vác thi thể ông lão lên vai, lựa chỗ đất rắn hoặc bước lên thân cây đổ mà đi. Xế trưa mới tới bãi tha ma trên một quả đồi trong một khu rừng thưa. Rải rác đây đó vài ngôi mộ, có ngôi chỉ còn là những nấm đất thấp lè tè, cỏ đã vàng cháy.
Tìm đến chỗ mấy ngôi mộ cũ có dựng bia, đứa bé ngỏ ý muốn an táng cha ở đấy.
Hai người hì hục đào huyệt xong, đặt thi thể ông lão xuống và lấp đất. Đứa bé cắm những bông hoa dại lên mồ rồi chắp tay cung kính vái. Nó nói:
- Ông bà và mẹ tôi chết đều chôn ở đây cả. Những mộ này là mộ các vị ấy.
- Sao không có danh tính gì khắc trên bia mộ?
- Ông tôi không cho! Cha tôi dựng những tấm bia đá này để đánh dấu. Theo lời kể lại thì lúc còn sống, ông tôi được nhiều nhà quyền quý đến thăm, mời giữ nhiều chức vụ.
Nhưng ông tôi không nhận, bảo rằng kiếm sĩ chỉ thờ một chủ. Nếu thất bại, không bảo vệ được chủ soái thì phải mai danh ẩn tích đi. Cho nên ông tôi về cày ruộng, không muốn lộ danh tính nữa.
- Ngươi biết tên tổ phụ ngươi là gì không?
- Không. Cha tôi không cho biết.
- Cha ngươi tên gì?
- Người ta thường gọi là Hạo ông.
- Thế còn ngươi?
- Tôi tên Hạo đồng.
- Có anh chị em gì không?
- Có. Có một người chị lớn nhưng không biết mặt vì khi tôi sinh ra thì chị tôi đã biệt tích rồi. Không biết giờ ở đâu!
- Bây giờ còn một mình, ngươi định làm gì?
- Không biết nữa. Chắc vẫn bắt cá, trồng rau, chăn nuôi như trước.
Trên đường về, Thạch Đạt Lang nhìn cảnh bình nguyên trải dài trước mặt. Hắn lấy làm lạ tuy ở đây không có cây to, nhưng đất đai chẳng phải không màu mỡ. Xem những bụi lau, bụi cói thì biết. Xanh biếc tốt tươi. Chỉ những chỗ nào xa bờ đầm thì cỏ mới úa vàng cằn cỗi. Vấn đề có lẽ là nước. Hoặc trời ít mưa hoặc không giữ được nước lâu.
Nếu biết chế ngự thiên nhiên, con người sẽ giàu mạnh. Không hiểu vì sao vùng bình nguyên này lại không được khai phá. Cư dân ở đây quá nghèo. Đất rộng dân thưa mà phải chịu cảnh cơ cực thì cũng lạ. Nhìn Hạo đồng đi bên cạnh dắt ngựa, hắn tự nhủ:
“Như thằng bé này can đảm và tháo vát, nếu chưa khá được, chắc cũng vì còn nhỏ tuổi quá mà thôi!”.
- Hạo đồng! Ngươi muốn ở đây cả đời trồng rau, bắt cá không?
Nó lắc đầu:
- Không!
- Ngươi ước muốn làm gì?
- Làm kiếm sĩ. Tôi muốn được như cha tôi.
- Cha ngươi là nhà nông, đâu phải kiếm sĩ!
- Vừa là nhà nông, vừa là kiếm sĩ. Tôi vẫn thường xem ông luyện kiếm ở sau nhà.
Thạch Đạt Lang không hỏi nữa, lẳng lặng đi bên Hạo đồng. Những lời hắn dự đoán quả không sai. Hắn thấy thương thằng bé.
Lát sau, Hạo đồng ngập ngừng hỏi:
- Ông khách! Ông cũng là kiếm sĩ phải không?
Thạch Đạt Lang gật:
- Ngươi hỏi làm gì?
- Cha tôi chết rồi, không còn ai thân. Ông cho tôi theo được không?
Thạch Đạt Lang không đáp, cứ lẳng lặng đi. Hắn đã đoán trước ý thằng bé nhưng phân vân quá. Giang là đồ đệ mà hắn cũng chưa làm được gì cho nó, lại không biết hiện giờ Giang ở đâu; nay nhận thêm Hạo đồng nữa, trách nhiệm càng nặng, biết có chu toàn được không hay chỉ làm nó khổ! Nhưng thấy thằng bé nhỏ tuổi mà can đảm, trong tình trạng tứ cố vô thân khẩn cầu mình, nếu không giúp, nó sẽ trông vào ai? Nếu cứ sợ trách nhiệm thì không làm được gì. Cha mẹ sinh con, chưa chắc đã bảo đảm được đường đi của con mình...Vả lại ai có thể khách quan để cả quyết được đường này đối với nó là tốt, đường kia đối với nó là xấu? Hạo đồng muốn trở thành kiếm sĩ? Được! Nếu ước vọng của nó chỉ có thế, ta có thể dẫn dắt nó và trong cảnh ngộ này, có lẽ ta chỉ làm được vậy thôi.
Mải suy nghĩ và bị giằng co bởi lòng thương người và trách nhiệm, Thạch Đạt Lang vẫn chưa trả lời đứa bé.
- Nếu ông thuận, tôi sẽ dẫn ngựa và hầu hạ Ông. Ông chỉ phải dạy tôi cách đánh kiếm.
Thạch Đạt Lang bật cười:
- Không phải chỉ có thế. Muốn trở thành kiếm sĩ, ngươi phải nhẫn nhục và chịu nhiều gian khổ.
Cho là Thạch Đạt Lang không chịu thu mình làm đồ đệ, Hạo đồng quỳ ngay xuống trước mặt hắn, khẩn khoản:
- Xin ông giúp tôi thành kiếm sĩ. Lúc còn sống, cha tôi vẫn ước mong như thế nhưng chẳng tìm được ai để nhờ cậy.
- Hừ! Thôi đứng lên! Trước khi quyết định, ngươi hãy cho ta biết ngươi có đủ ý chí và khả năng không đã!
Hạo đồng mừng cuống quít:
- Dạ đủ! Đủ!
- Khoan, để xem.
Rồi nhìn quanh, Thạch Đạt Lang tìm được một cành cây gãy, nhặt đưa cho đứa bé:
- Cầm cành này đánh ta. Xem ngươi dùng gậy ra sao.
- Nếu đánh trúng, ông cho tôi theo chứ?
- Cứ thử đi đã.
Hạo đồng cầm cành cây múa tít xông vào. Thạch Đạt Lang né tránh rồi luồn ra phía sau phát vào lưng nó khiến nó ngã sấp. Lồm cồm bò dậy, thằng bé lại nhảy tới dùng cành cây đâm vào bụng Thạch Đạt Lang. Lần này nó chỉ đâm dứ. Cành cây chưa đến bụng, nó đã thu về phạt ngang chân địch thủ.
Thấy Hạo đồng cũng biết biến chiêu và cách cầm côn của nó tuy vụng về nhưng không đến nỗi tệ, Thạch Đạt Lang khen:
“Giỏi!”. Hắn đá cành cây bắn ra xa rồi thuận tay nắm thắt lưng thằng bé nhấc bổng lên. Hạo đồng dãy dụa, tức giận mặt đỏ bừng nhưng không thốt một lời nào.
- Ngươi đã chịu chưa? Có muốn học kiếm nữa không?
- Vẫn muốn học.
- Để làm gì?
- Để thắng địch thủ.
- Ngươi trong tay ta, thắng thế nào được!
- Ông khỏe và lớn hơn tôi nhưng tôi sẽ tập luyện để thắng.
Thạch Đạt Lang cười ha hả:
- Ngươi nên nhớ trong khi ngươi tập thì ta cũng tập...
- Nhưng ông nhiều tuổi hơn, ông già trước tôi. Tôi thắng ông được!
- Hừ! Nếu ta vất ngươi xuống phiến đá kia cho ngươi dập xương mà chết, ngươi có sợ không?
- Không sợ!
- Bướng thật!
Hắn ném Hạo đồng xuống cỏ. Thằng bé đau nhưng vùng trở dậy nhặt cành cây xông vào nữa, lần này dáng quyết liệt.
- Thôi!
Thạch Đạt Lang xua tay. Hắn nhìn Hạo đồng lăm lăm cây gậy, cười mà bảo nó:
- Được rồi. Ta thu ngươi làm đồ đệ.
Về đến lều, trời tối mịt. Trên quãng đường còn lại, Hạo đồng vui vẻ hết sức, nhất định mời Thạch Đạt Lang ngồi lên lưng ngựa để nó dẫn đi. Cách xưng hô của nó với Thạch Đạt Lang cũng đổi khác. Nó gọi Thạch Đạt Lang là thầy và xưng con.
Tuy không được học hành nhưng Hạo đồng tỏ ra lễ phép và cũng biết đôi chút đạo lý mà Thạch Đạt Lang đồ chừng đã được cha nó dạy cho. Ngoài ra, về gia thế, nó không rõ gì hơn ngoài họ nó là Hạo.
- Ông con trước khi chết đã đốt hết gia phả. Cha con lại không muốn tiết lộ lý lịch của tổ tiên nên đến đời con không còn biết gì nữa.
Thạch Đạt Lang thở dài:
- Thật đáng tiếc! Con là Hạo đồng, nhưng đồng không phải là tên riêng mà chỉ có nghĩa là thằng nhỏ. Từ nay ta gọi con là Hạo Nhiên, con có bằng lòng không?
- Hạo Nhiên là gì hả thầy?
- Hạo Nhiên là ngay thẳng. Ta muốn suốt đời con giữ cái chí khí ngay thẳng con vẫn có.
- Vậy con xin bái lĩnh.
Nói đoạn dập đầu xuống lạy tạ.
- Hạo Nhiên! Ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi khỏi nơi đây. Đêm nay là đêm cuối cùng con sống dưới mái nhà này. Mười hai năm, chắc con có nhiều kỷ niệm. Hãy giữ những kỷ niệm ấy, đừng quên con thuộc dòng họ Hạo.
Mắt Hạo Nhiên mờ lệ.
- Thế con có được mang vật gì làm kỷ niệm trong nhà này không?
- Được! Con thích vật gì cứ mang, nhưng đừng cồng kềnh, cản trở bước đường phiêu lưu của con.
Hạo Nhiên vào phòng trong, lấy cái đĩa gỗ đựng cá cúng cha cất vào bọc.

Truyện Thạch Kiếm Hồi 1 !!!1940_62.htm!!! Đã xem 267439 lần. --!!tach_noi_dung!!--

Dịch giả: Cung Vũ
Hồi 62
Mảnh Vỏ Bào

--!!tach_noi_dung!!--
Diệp Hàn Khang ngạc nhiên, không ngờ bà Hồ Điểu là người ít giao thiệp lại quen biết gã kiếm sĩ trẻ tuổi ấy. Ông cũng định hỏi cho rõ nhưng trước mặt vị tăng già, thấy không tiện lại thôi.
Hai gã chân sào ra chỗ thuyền đậu, sửa soạn cởi giây buộc để dời bến. Thình lình Cát Xuyên Mộc rẽ lau bước tới:
- Các chú chở ta sang bên kia sông được không?
Còn khiếp sợ vì đường gươm chớp nhoáng của gã thanh niên kiếm sĩ áo đỏ, hai gã ấp úng. May sao bà Hồ Điểu đến. Thấy bà, Cát Xuyên Mộc đổi ngay thái độ, tươi cười hỏi:
- Lão bá làm gì ở đây thế?
- Ta lên chùa Phổ Giác dâng hương.
- Lão bá đi thuyền này đấy ư?
- Phải.
- May quá! Vãn bối cũng muốn sang sông về Edo. Phiền lão bá cho quá giang được chăng?
Bà Hồ Điểu chưa kịp đáp, Diệp Hàn Khang đã tiến ra vái chào. Nhanh trí và khôn ngoan, ông biết không thể từ chối được nên đi bước trước để mua chuộc cảm tình của Cát Xuyên Mộc. Ông tự giới thiệu mình và ân cần mời chàng thanh niên kiếm sĩ cùng xuống thuyền trở về Edo.
Tâm thuật Diệp Hàn Khang và Cát Xuyên Mộc khác nhau nhiều lắm, nhưng đôi khi những người khác tính nết lại tình cờ có một vài sở thích giống nhau. Diệp Hàn Khang và Cát Xuyên Mộc đều thích ăn cá sống, vì vậy khi cá tươi được mang tới và khay rượu bày ra, cả hai đều tỏ vẻ hoan hỉ. Dưới mắt Diệp Hàn Khang bấy giờ, Cát Xuyên Mộc không còn là một kẻ sát nhân ghê sợ nữa mà là một tri kỷ.
Câu chuyện nổ như pháo ran. Trong lúc cao hứng, chàng thanh niên kiếm sĩ rửa chén chuốc rượu mời bà Hồ Điểu và chủ thuyền, sau đó lại rót cho hai gã chân sào mỗi người một chén. Bà Hồ Điểu hỏi tin tức về Thạch Đạt Lang:
- Hình như hắn vẫn còn ở vùng Edo này. Mùa thu năm ngoái, có người thấy hắn đến thăm một kiếm sĩ có danh vọng về võ học ở ngoại thành.
Diệp Hàn Khang không đồng ý, cho là sai lầm. Nếu Thạch Đạt Lang còn ở Edo thì gia nhân đã báo ông biết rồi. Kẻ chịu ơn ông không hiếm, lại thuộc mọi tầng lớp xã hội, có lý nào hành tung của một kiếm sĩ đã diệt gần hết phái Hoa Sơn qua khỏi mắt họ được.
Tuy tin tức về kẻ thù không rõ nhưng lòng quan tâm theo dõi của hai người làm bà Hồ Điểu yên bụng. Bà hy vọng nếu cả hai cùng giúp thì chóng chầy gì bà cũng bắt được Thạch Kinh Tử.
- Già này được cả hai vị để tâm ra sức giúp cho, thật muôn vàn may mắn. Chắc những lời cầu xin của già đã được đức Phật chứng giám nên ngài run rủi cho gặp hai vị.
Thật là hạnh ngộ.
Nói rồi bà cúi rạp đầu xuống sạp thuyền tạ Ơn và rót rượu mời Diệp Hàn Khang và Cát Xuyên Mộc.
Nhân cơ hội, Diệp Hàn Khang cũng muốn biết thêm về kẻ đối ẩm, bèn đưa đẩy:
- Cát Xuyên đại hiệp! Thế bốn tên mà đại hiệp vừa giết ở ven sông là ai vậy? Có liên hệ gì với Thạch Đạt Lang chăng?
Dường như chỉ đợi có thế, uống xong chén rượu, Cát Xuyên Mộc nhếch mép cười khinh mạn, đáp:
- Có gì đâu mà phải bận tâm! Bọn đó là tiểu tốt của Hồ Phong chứ không liên hệ gì đến Thạch Đạt Lang. Hồ Phong mở trường dạy binh pháp, ta có đến thăm mấy lần.
Toàn lý thuyết suông. Cũng có lần lão luận về thuật dụng kiếm, nhưng cũng như lý thuyết về binh pháp của lão, hão huyền cả. Ta có lên tiếng chỉ trích thì bị bọn đồ đệ Hồ Phong đả kích và thách thức. Ta chỉ cười và hẹn chúng đến bờ sông Sumida cho chúng nếm thử chiêu kiếm trảm nhạn của ta.
Ngừng một lát, rót thêm rượu uống cạn, Cát Xuyên Mộc lại tiếp:
- Có năm đứa đến, nhưng một đứa sợ quá bỏ chạy ngay từ đầu. Hà hà...Còn bốn đứa kia, làm sao địch nổi một cái vẩy tay của ta được.
Kể xong, hắn gật gù cười nhạt:
- Ở Edo này xem ra chẳng thiếu gì kẻ khoác lác, nói một tấc lên đến trời mà hành động thì khiếp nhược...
- Hồ Phong? Hồ Phong nào nhỉ?
- Hồ Phong Hạo Điền, tôn ông không nghe nói đến bao giờ ư?
- Không, lão phu kiến thức nông cạn...
- Hồ Phong Hạo Điền xuất thân ở đất Cải, một thời giữ chức tham nghị quân sự cho sứ quân Hồ Điền Tân Dã. Bây giờ về hưu, mở trường riêng thu đồ đệ.
Diệp Hàn Khang tuy là một doanh nhân, không hiểu rõ về những việc xảy ra trong giới võ lâm nhưng tính tình chất phác dễ tin người. Những lời Cát Xuyên Mộc nói khiến ông phục lắm. Qua vài mẩu chuyện trao đổi, ông thấy ga thanh niên ngồi trước mặt tuy hợm hĩnh, tàn nhẫn nhưng là một kẻ có tài về kiếm thuật và chắc chắn đường gươm độc đáo của hắn sẽ dùng được việc khi cần, bèn nảy ý muốn mua lòng Cát Xuyên Mộc. “Gã này còn trẻ, chưa cạo đầu xuống tóc như các kiếm sĩ khác mà đã tỏ ra có bản lĩnh và kiến thức, thật không phải dễ tìm. Mình nên tìm cách giữ hắn làm thủ túc”.
- Đại hiệp! Lão phu có lời đề nghị.
-...
- Hiện trong nhà lão phu có nuôi được chừng bốn năm chục gia nhân đều là thanh niên can đảm, khỏe mạnh. Lão phu có ý muốn xây dựng một võ đường cho họ luyện tập và mời đại hiệp giảng dạy. Đại hiệp nghĩ thế nào?
Cát Xuyên Mộc ngồi im một lát, đoạn nhìn thẳng vào mặt Diệp Hàn Khang mà nói:
- Tôn ông cũng biết là đã có nhiều sứ quân mời tại hạ, bổng lộc hai ba ngàn gia. lúa mỗi năm nhưng tại hạ chưa tiện nhận lời vì thú thật, hiện nay chưa muốn bị ràng buộc bởi một lời hứa nào cả. Vả lại tại hạ đã định không làm việc gì nếu bổng lộc không noidung1('tuaid=1940&chuongid=27">Hồi 27 Hồi 28 Hồi 29 Hồi 30 Hồi 31 Hồi 32 Hồi 33 Hồi 34 Hồi 35 Hồi 36 Hồi 37 Hồi 38 Hồi 39 Hồi 40 Hồi 41 Hồi 42 Hồi 43 Hồi 44 Hồi 45 Hồi 46 Hồi 47 Hồi 48 Hồi 49 Hồi 50 Hồi 51 Hồi 52 được năm ngàn giạ.
Ngưng một lát, hắn lại tiếp:
- Nhưng thế nào cũng có dịp tới vấn an tôn ông.
- Đa tạ đại hiệp.
Bà Hồ Điểu khẩn khoản xin Cát Xuyên Mộc lưu tâm đến lời đề nghị ấy nhưng gã chỉ ậm ừ.
Đến gần cầu Đại Bản, cảnh hỗn tạp vùng tân đô đã thấy xuất hiện. Cát Xuyên Mộc yêu cầu cho thuyền cập bến, từ giã bà Hồ Điểu và chủ thuyền để lên bờ. Nhìn vóc dáng cao lớn của gã thanh niên với thanh kiếm đeo trên lưng dài như cây sào phơi in rõ nét trên nền áo tía khuất dần theo con đường mòn ven đô, Diệp Hàn Khang không khỏi khen thầm, khẽ thốt:
- Chà! Con người trẻ tuổi mà ghê gớm quá!
Bà Hồ Điểu cũng trông theo. Liên tưởng đến Mãn Hà Chí, bà khẽ thở dài không nói.
Năm ngày sau, Cát Xuyên Mộc đến tư thất Diệp Hàn Khang như một cơn lốc. Chủ nhân hân hoan ra đón, lại gọi gia nhân lần lượt từng người tới cung kính vái chào khiến Cát Xuyên Mộc rất xứng ý.
- Đây là số gia nhân phụ trách trong nhà. Còn một số nữa cũng hiểu biết võ nghệ và kiếm thuật được lão phu sai đi làm chút việc nên không ra mắt đại hiệp được, xin thứ lỗi.
- Tôn ông có nếp sống phong lưu lắm nhỉ!
Diệp Hàn Khang mỉm cười:
- Cũng không phải lo về sinh kế. Như lần trước đã đề nghị với đại hiệp, lão phu muốn mở một võ đường...
- Tại hạ hôm nay đến đây cũng vì lý do ấy. Xin cho xem khu vườn tôn ông định dựng võ đường.
Diệp Hàn Khang dẫn Cát Xuyên Mộc ra vườn sau. Thấy có một số vải đương nhuộm phơi la liệt trên cỏ, Cát Xuyên Mộc ngỏ lời hỏi.
- Vườn rộng, lão phu cho nhà hàng xóm làm nghề thợ nhuộm thuê phơi vải. Nếu đại hiệp nhận lời, để bảo họ dẹp đi.
- Bất tất...Tôn ông dựng võ đường làm gì! Vườn này khá kín đáo không trông ra đường, chỉ cần khai quang một khoảng đổ cát lên là được. Chẳng ai làm rộn.
- Nhưng nếu trời mưa?
- Trời mưa tại hạ không đến. Và cũng báo để tôn ông rõ, những buổi tập luyện sẽ nguy hiểm lắm đấy, không như ở các võ đường khác đâu. Tôn ông cần cảnh cáo gia nhân, nếu họ không chú ý sẽ bị tàn phế cả đời hay có khi mất mạng nữa.
- Được rồi! Họ phải hiểu chuyện đó. Đại hiệp cứ giảng dạy theo ý muốn.
Các buổi luyện tập được ấn định mỗi tháng ba lần vào những ngày mồng ba, mười ba và hăm ba nếu trời không mưa, lương bổng tùy số lần luyện tập nhưng không dưới hai ngàn gia. lúa mỗi năm và các phí tổn linh tinh trong khi giảng dạy chủ nhân phải đài thọ.
Sân luyện võ vừa hoàn tất, Cát Xuyên Mộc đã khai giảng ngay và mới hôm đầu tiên đã không nương tay với các võ sinh dù họ thiếu kinh nghiệm. Đến hôm thứ ba thì đã có một người gãy cẳng và bồn năm kẻ bị thương nhẹ.
Đứng giữa sân, lăm lăm cây kiếm tre, Cát Xuyên Mộc lớn tiếng cảnh cáo:
- Ta đã bảo phải cẩn thận chú ý đề phòng! Nào ai muốn tập nữa? Muốn thì vào đây, nếu không ta đi về, khỏi mất thì giờ vô ích.
Trong số võ sinh đứng ngoài lố nhố bên gốc phong lớn, một thiếu niên bước ra nói:
- Vãn sinh! Xin đại hiệp nương tay cho!
Và cúi xuống nhặt thanh kiếm gỗ.
Một tiếng “chát”. Thanh trúc kiếm của Cát Xuyên Mộc đã giáng vào lưng. Thiếu niên ngã sấp, nằm bất động trên nền cát ẩm, chưa kịp giơ kiếm lên đỡ.
Mọi người xúm đến khiêng thiếu niên võ sinh đặt dưới tàn cây, lấy nước vẩy lên mặt. Nhưng gã không tỉnh, mặt nhợt nhạt, lát sau mắt lạc thần, không thở nữa.
- Các ngươi trông gương đó! Lúc nào cũng phải cẩn trọng không được sơ hở. Để đối thủ khai thác nhược điểm của mình là điều tối kỵ trong khi giao đấu!
Bầu không khí nặng nề khó thở. Võ sinh đưa mắt nhìn nhau, có người cau mặt giận dữ, có người nhẫn nhục chịu đựng, nhưng ai cũng tỏ vẻ bi thương. Duy Cát Xuyên Mộc không hỏi han và cũng không hề để mắt nhìn đến cái xác không hồn của thiếu niên võ sinh nằm dưới tàng cây phong lớn.
- Nếu cái chết làm các ngươi sợ hãi thì tốt hơn hết nên từ bỏ kiếm thuật. Tinh thần còn quan trọng hơn kiếm thuật. Sự luyện tập là cần nhưng biết khép mình vào kỷ luật để chế ngự xúc động và giữ cho mình cái dũng khí cần thiết khi lâm trận, đó mới là điều cốt yếu. Nào! Ai là kẻ tự cho mình còn giữ được cái dũng khí ấy thì vào đây!
Không ai lên tiếng và cũng không ai động đậy gì.
Thình lình một võ sinh trung niên cao lớn đứng phía sau Cát Xuyên Mộc nhảy vọt tới với ý định tập hậu hắn. Nghe tiếng gió, Cát Xuyên Mộc cúi rạp mình. Bị mất đà, trung niên võ sinh ngã lộn ra phía trước và thanh trúc kiếm của Cát Xuyên Mộc cũng vừa bổ xuống trúng hông gã. Tiếng thét đau đớn vang lên. May gã chỉ bị gẫy xương chứ không đến nỗi nguy đến tính mệnh.
Cát Xuyên Mộc vứt kiếm xuống sân, tháo bao tay, nói:
- Thôi ngưng! Hôm nay như thế tạm đủ.
Đoạn ra giếng múc nước rửa mặt.
Xác gã thiếu niên võ sinh được khiêng vào hậu sảnh và người ta lo chữa trị cho những kẻ bị thương. Gia nhân đổ đi tìm Diệp Hàn Khang, kháo với nhau khe khẽ:
- Có lẽ phải nói với chủ nhân ngưng tập thôi. Nguy hiểm quá!
oo Về đến nhà, Diệp Hàn Khang hốt hoảng đến ngay hậu sảnh thăm gia nhân bị thương và cử người lo việc mai táng cho gã thiếu niên bạc phúc.
Ra nhà ngoài, thấy Cát Xuyên Mộc ung dung ngồi uống trà bên chiếc kỷ thấp, đột nhiên hình ảnh gã kiếm sĩ vung gươm kết kiễu đời kẻ thua trận không đủ sức tự vệ trên bờ sông Sumida tháng trước hiện lên trong trí ông khiến ông nửa bất mãn, nửa phẫn nộ.
Một người, dù có tài năng đến mấy đi nữa mà thờ ơ như thế trước cái chết và sự đau khổ của đồng loại do chính mình gây ra thì người ấy cũng không đáng để ông ngưỡng mộ.
Thấy ông vào, Cát Xuyên Mộc điềm nhiên quay lại hỏi:
- Nghe nói Tân đô có xóm yên hoa mới lập, chủ nhân chắc biết rõ, sao không cho tại hạ đến thăm?
Muốn uống rượu hay hưởng lạc, Cát Xuyên Mộc thường vẫn có thói đòi hỏi như thế, chẳng biết vì dụng ý trơ trẽn hay chỉ vì tuổi thiếu niên thiếu tế nhị. Diệp Hàn Khang khôn khéo đáp:
- Thế ra đại hiệp chưa đến đó bao giờ ư? Tối nay lão phu phải ở nhà trông coi gia nhân lo việc tang chứ không thì cũng đến đó với đại hiệp.
Nói đoạn gọi hai tên bộc thân tín là Lý Tuất và Liêu Túc đến đưa cho một số tiền và căn dặn:
- Các ngươi đến đó không phải để ăn chơi mà để đại hiệp sai bảo. Đừng để đại hiệp mất vui. Nhớ lời ta dặn.
Cả ba theo đường mới đắp qua bãi đậu thuyền Kyobashi, đến gần xóm yên hoa thì trời đã chạng vạng. Ban đêm ở tân đô bấy giờ phần lớn chưa có đèn. Những đêm không trăng như đêm nay, trời tối như mực, ba thầy trò Cát Xuyên Mộc bước khấp khểnh khó khăn. Đường gồ ghề, nhiều đoạn đá, cát chất thành đống ngổn ngang, đường chính không đi, đi xuống ruộng.
- Chà! Đường xá gì mà tồi tệ quá. Đáng lẽ ta phải mang đèn.
Lý Tuất cười:
- Đi chơi mang đèn để tổ người ta cười cho. Ấy! Cẩn thận, có đống đất mới đào, đại hiệp tránh sang bên kẻo sa xuống hố!
Cả ba cùng nói cười vui vẻ, quên hẳn chuyện bị thảm ban chiều. Đến một cái cầu gỗ bắc ngang qua một con lạch nước đục ngầu phản chiếu màu trời đỏ quạch, Liêu Túc bảo Cát Xuyên Mộc:
- Xóm yên hoa ở bên kia cầu này. Đây là đường tắt, chứ đường chính xa hơn và đông người qua lại. Đại hiệp có cần khăn vải không?
- Để làm gì?
- Để che mặt đi một chút. Như thế này...
Hắn vừa nói vừa lấy khăn trong bọc ra choàng lên đầu.
Cát Xuyên Mộc cũng bắt chước, dùng một tấm khăn lụa màu lá úa bịt tóc.
Liêu Túc nhìn rồi nói:
- Được lắm! Bảnh quá rồi!
Lý Tuất cũng phụ họa:
- Màu khăn thật khéo chọn!
Đến xóm yên hoa, nhà nào nhà nấy đều đã lên đèn. Tuy không được như xóm Liễu ở Kyoto, nhưng cái không khí ăn chơi rộn rịp không kém. Trước cửa thanh lâu phần nhiều có treo rèm lụa màu hoàng yến hoặc nghệ non. Có nhà buộc dây đeo lục lạc hoặc khánh sành dưới chân cửa để báo hiệu cho con em biết mỗi khi có khách đến.
Cát Xuyên Mộc cùng hai gia nhân đi lẫn lộn trong đám khách tìm hoa, người nào trên đầu cũng buộc một vuông khăn như một ước lệ. Họ vào nhà này, nhà kia, ngắm nghía một lúc rồi lại đi ra, dường như chưa vừa ý.
- Thôi, đại hiệp khỏi cần giấu diếm nữa. Lý Tuất nói.
- Giấu diếm cái gì?
- Đại hiệp bảo chưa tới khu này bao giờ, sao vừa đến nhà đằng kia đã có người nhận ra ngay?
- Ai? Ta đâu có biết!
- Một cô em nấp sau tấm bình phong, thấy đại hiệp đến, kêu lên rồi bỏ chạy.
Cát Xuyên Mộc mỉm cười:
- Họ lầm đấy. Ta quả chưa đến nơi này bao giờ.
Nhưng lát sau nghĩ thế nào, hắn lại bảo hai tên theo hầu:
- Hay là trở lại nhà đó, xem cô bé ấy là ai.
- Tùy đại hiệp.
Cả ba trở lại ngôi thanh lâu đầu tiên, trước cửa treo hai chữ Lạc Thiên. Căn nhà mới cất được một phần, kiến trúc dự trù có vẻ quy mô, hàng cột vài mái thấp rập theo lối kiến trúc các đền miếu cổ thành Kyoto, nhưng nhìn kỹ có một vẻ tạm bợ và thiếu phong cách chững chạc. Cát Xuyên Mộc đoán chừng dưới sàn gỗ có lẽ vẫn còn là bãi lầy với cỏ hoang và ếch nhái. Căn đại sảnh dùng làm phòng ăn chưa kịp dọn dẹp, bừa bãi khay rượu, khăn lau tay và những cánh hoa nhàu nát.
Lý Tuất vỗ tay ba lượt, đợi lúc lâu mới thấy một mụ trung niên ra đón vào, mời ngồi bên chiếc bàn thấp ở góc phòng. Trên bàn, độc nhất chiếc lọ sứ nhỏ cắm một bông cúc long trảo đã héo.
- Chỗ này mà gọi là lạc thiên sao? Cát Xuyên Mộc hỏi, nửa bông đùa nửa chỉ trích.
- Xin quý khách lượng thứ. Quán mới cất, chưa được như ý. Xếp đặt phòng ốc và bài trí chưa đâu vào với đâu. Chừng nào xong, quý khách sẽ thấy quán chúng tôi chẳng kém gì nhà hàng chính Lạc Thiên ở Kyoto khi trước.
- Ồ! Thế ra đây là hậu thân của Lạc Thiên quán ở Kyoto đấy?
- Cũng không hẳn thế. Đây chỉ là một chi nhánh mới mở.
Nhìn Cát Xuyên Mộc một lát, mụ rụt rè hỏi:
- Qúy khách tha lỗi, hình như năm trước chúng tôi có gặp quý khách trên đường Koshu thì phải?
Cát Xuyên Mộc quên lần gặp gỡ ấy nhưng vội nắm ngay lấy cơ hội để làm quen:
- Phải rồi! Thế là ta cũng có duyên với quán này lắm.
Mọi người cười vui vẻ, không còn nhớ gì đến lời chê bai của hắn lúc trước.
- Dĩ nhiên đại hiệp có duyên với quán này rồi. Lý Tuất tiếp. Có nàng vẫn không quên đại hiệp mà!
Rồi gã tả qua dung mạo và y phục người thiếu nữ nhìn thấy sau bức bình phong cho mụ tài phán nghe. Mụ gật đầu:
- Tiện phụ biết. Tưởng ai chứ nàng đó thì đúng ở đây rồi. Xin để gọi ra bồi tiếp.
Nhưng đợi mãi không thấy ai ra, Liêu Túc nóng ruột lại vỗ tay gọi.
- Khách quan vui lòng thư cho một chút. Chủ nhân đang cho người đi tìm. Không hiểu nàng đi đâu mà tìm mãi không thấy.
- Nàng tên gì?
- Mộ Hoa Nương.
Mộ Hoa Nương là tên mới của A Kế Mỹ. Sau cái đêm bị kẻ lạ mặt bắt đi và cưỡng bức ở ven sông trấn Hà Châu, tỉnh dậy, A Kế Mỹ không còn cách nào khác là theo đoàn kỹ nữ đến Edo và xin nhập bọn vậy. Nàng mang tên mới do Thôi Nãi Phu đặt cho từ đó.
Thấm thoắt thế mà đã gần hai năm. Kiếp bèo giạt tưởng tạm yên, ai ngờ định mệnh lại đưa đẩy gã này đến với nàng lần nữa. A Kế Mỹ sợ và ghét Cát Xuyên Mộc. Cũng như Sĩ Khánh và tên cường đồ đã cưỡng bức nàng, A Kế Mỹ thấy người đàn ông nào cũng ích kỷ, tàn bạo và đáng ghê tởm, ngoại trừ một người... Người đó, chao ôi! nghĩ đến chỉ khiến nàng tủi thân muốn khóc. Sự sợ hãi thúc đẩy A Kế Mỹ tìm cách tránh mặt ba người khách. Nàng nép mình trốn trong đống gỗ vụn và dăm bào của căn lều đang dựng ở sân sau. Ngoài kia tiếng gọi “Mộ Hoa Nương” vang đến tai nàng lẫn với tiếng ồn ào của khách chơi đêm, tiếng sênh phách và những tiếng rao hàng lanh lảnh.
Mỗi tiếng gọi lại như làm tăng thêm nỗi lo sợ của A Kế Mỹ khiến nàng cố thu mình nhỏ lại hơn trong bóng tối như con chuột trong lỗ sâu. Nàng ngồi như thế lâu lắm, lắng nghe động tĩnh. Cho đến khi không còn tiếng réo gọi nữa và đồ chừng khách đã đi khỏi, A Kế Mỹ mới bò ra, len lén xuống bếp. Thấy nàng, mụ đầu bếp ngạc nhiên:
- Mộ Hoa Nương! Đi đâu về thế? Bao nhiêu người tìm, cả chủ nhân cũng...
- Khe khẽ chứ! Chủ nhân đâu?
- Ông lên nhà khách rồi.
- Cho ta chén rượu.
- Rượu bây giờ ư?
- Ừ, nhanh lên!
Với hũ rượu trên kệ, mụ rót một chén rượu đưa A Kế Mỹ. Nàng ngửa cổ uống một hơi cạn, lấy vạt áo chùi mép đoạn chạy ra cửa.
- Đi đâu đấy?
- Ta ra giếng sau rửa chân.
- Nhớ lên trình chủ nhân, nghe!
Nhưng A Kế Mỹ không lên đại sảnh gặp Thôi Nãi Phu. Nàng vòng qua bếp mở cổng sau ra đường. Gió đêm thổi lành lạnh. Chút rượu vừa uống khiến nàng chếnh choáng say. Nhìn mấy khung cửa giấy sáng, trên đó hiện lên hình một hai kỹ nữ với khách làng chơi ngồi kề vai nhau, A Kế Mỹ nhổ nước bọt rồi cắm cúi đi thật nhanh về phía trước.
Một cái hố, nước mưa đọng lưng chừng, phản chiếu nền trời sao lấp lánh. A Kế Mỹ dừng lại ngắm, rồi nghĩ thế nào, nhìn lên trời tìm ngôi sao lớn nhất, nàng thì thầm một lời ước.
Đằng xa về phía sau, bóng đèn lồng thấp thoáng. Gió thoảng đưa tiếng chân người và tiếng gọi “Mộ Hoa Nương” đến tai A Kế Mỹ.
Nàng tức giận rủa thầm:
- Đồ súc vật! Chúng không để người con gái đau khổ này yên thân được lúc nào chăng? Nước mắt và mồ hôi của ta trong bấy lâu không đủ để chúng mua thêm được cái cột hay cây kèo nào sao?Đừng hòng bắt ta trở về nữa!
A Kế Mỹ rẽ theo đường mòn xuống ruộng. Trong bóng tối, nàng rảo bước đi nhanh, hy vọng chóng ra khỏi chỗ này càng sớm càng tốt.
Trên đầu nàng, vướng trong tóc, một mảnh vỏ bào cũng theo nhịp chân nàng bước mà nhún nhảy như múa.
oo Khi cả ba dời khỏi trà thất thì Cát Xuyên Mộc đã say chếnh choáng, phải vịn tay vào vai Lý Tuất mới đi được.
Phố xá vắng teo. Về đến gần bờ lạch, trời tối om nhất là qua những quãng đường có tàng cây rậm rạp. Đêm không trăng, dưới ánh sao lờ mờ khi ẩn khi hiện, cả ba bước thấp bước cao, không phân biệt được chỗ nào là đường chỗ nào là vệ cỏ nữa Lý Tuất bực dọc nói bâng quơ:
- Đã bảo ngủ lại, mai về có phải hơn không!
Liêu Túc cũng phụ họa:
- Phải rồi. Sao đại hiệp không ngủ lại?
- Ngủ ở đâu? Cát Xuyên Mộc lè nhè. Ở cái trà thất hôi hám đó à? Không đời nào!
Thà trở lại quán Lạc Thiên còn hơn.
- Không nên...
- Sao lại không nên?
- Nàng đó tuy biết đại hiệp song lại cố ý lánh mặt. Như thế thì còn thú vị nỗi gì?
Cát Xuyên Mộc đập tay vào vai Lý Tuất:
- Phải! Phải! Ngươi nói phải lắm!
- Đại hiệp muốn cùng vui với nàng không?
- Không.
- Nhưng vẫn nhớ nàng phải không?
- Trong đời, ta chưa bao giờ nhớ ai cả. Ta không phải hạng người dễ say mê đàn bà. Ta có nhiều việc khác phải làm!
- Việc gì?
- Tiền tài! Danh vọng! Lòng ngưỡng mộ của người đời! Ta muốn...
- Ấy cẩn thận! Đống đá trước mặt!
Cát Xuyên Mộc tránh sang bên. Đột nhiên, hắn gạt tay Lý Tuất và Liêu Túc rồi quát lớn:
- Ai?
Một bóng đen nhào tới, mũi kiếm phóng thẳng vào bụng Cát Xuyên Mộc cùng với tiếng thét:
- Coi đây!
Tình hình khẩn cấp khiến Cát Xuyên Mộc tỉnh hẳn rượu. Hắn nghiêng mình tránh mũi kiếm sát thủ, rồi nhảy lên tảng đá đảo mắt nhìn. Quanh hắn, hàng chục bóng đen khác lố nhố từ các lùm cây ven lộ xông ra - Súc sinh! Mày giết bạn đồng môn của ta, mày phải chết.
Cát Xuyên Mộc cười gằn, với tay ra sau lưng rút “cây sào phơi” nhanh như một lằn chớp.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: thachdien
Nguồn: Nhanmonquan
Được bạn: MS đưa lên
vào ngày: 12 tháng 1 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--