Chương 7

... Đêm đó, là một đêm tháng tư mờ trời. tôi cõng con trai một tuổi, tay dắt con gái lên bốn, băng đồng. Gần một năm trời tôi mới thực hiện được ý định ấy, sau bao nhiêu sự cấu xé giằng co trong lòng. Xa các con là xa nguồn an ủi lớn nhất đối với tôi. Nhưng không có cách nào nữa - khi bản thân tôi đã thấu hiểu ý nghĩa về những lời nói của chị Ba Dương, thấu hiểu nguyên nhân những đau đớn mà đám phụ nữ chúng tôi phải chịu. Tôi cần có mặt trong trường hợp sinh đẻ của bất cứ người mẹ nào, nhất thiết phải nhóm lên trong những gian nhà tôi đã sinh đỡ, những tấm lòng bền chặt với kháng chiến, những ngọn lửa sau này có thể xua đuổi bóng thù địch từ các lô-cốt tỏa xuống xóm làng.
Vì tôi muốn như vậy, nên tôi đem gởi các con tôi. Mẹ con tôi ăn cơm từ sớm và chập choạng tối thì từ giã cái nhà bãi Sao. Lưng cõng con, tay dắt con, tôi đi băng qua những cánh đồng dâu Hiệp Hưng. Không còn bao xa nữa thì đến nhà thím nông dân đón nuôi con tôi. Xa xa phía đồng dâu mông quạnh đã thấy có ánh đèn le lói.
Cái nhà ở giữa đồng, vắng vẻ trơ vơ. Mặt ngoài là bãi biển. Hai bên và mé trong hậu toàn là ruộng dâu, rẫy bí. Những con chồn đen ban đêm mò đi ăn, chạy nghe sột soạt. Con Ngọc Thủy bíu lấy tay tôi. Tôi chỉ ánh đèn bảo nó:
- Thủy, tới nhà bác Ba rồi kìa!
Con bé lấy làm thích lắm. Nó đã tới đây vài bận với tôi, những lần đi thăm con thím ba Tuất ốm. Về sau đứa con thím Ba chết, thím buồn bã khóc lóc mấy ngày trời. Lần nào tôi dắt con Thủy vào, thím cưng nó như vàng, thím dắt nó ra rẫy hái bí, hái dưa, làm bánh nấu chè cho nó ăn. Thành thử nó cứ nhắc thím với tôi mãi. Khi đến nơi, chính nó vùng khỏi tay tôi chạy lại đập cửa mà kêu. Thím Ba vội xô cửa ra. Thím ôm con Thủy, hỏi:
- Con ăn cơm rồi chưa?
- Dạ con ăn cơm rồi.
- Đợi mãi, tưởng mẹ con bây không lên chớ.
Thím Ba vừa nói vừa quàng một cánh tay bế luôn cả thằng Nhã tôi, mỗi bên một đứa, cứ thế mà nói chuyện với chúng không ngớt. Con Ngọc Thủy thì hớn hở lên, lúc nào cũng lẩn quẩn bên thím. Về khuya, thằng Nhã đã ngủ, nhưng con Ngọc Thủy vẫn ngồi bên tôi và thím Ba. Do đó, tôi thật khó mà nói chuyện về chúng nó với thím Ba. Tôi bảo con Thủy:
- Đi ngủ con!
- Thủy không buồn ngủ.
- Đi ngủ rồi sáng bác Ba cho đi rẫy.
Khi cả hai đứa đều ngủ cả, tôi nói với thím Ba Tuất:
- Thím Ba à, giờ tôi phải đi đây.
- Đi đâu, ở ngủ rồi mai hẵng đi.
Tôi lắc đầu: - Đêm nay tôi phải đi Hiệp Lộ có công chuyện.
Tôi nói xong ngồi thừ ra đó. Sắp sửa tới giờ tạm biệt hai con, lòng tôi bùi ngùi vô hạn. Bắt đầu từ đêm nay tôi sẽ xa chúng nó, và những ngày tới đầy nguy hiểm, gian khổ, đang chờ đợi tôi. Trong những ngày ấy tôi sẽ không còn các con bên cạnh để âu yếm thương yêu chúng nó nữa. Gởi con cho thím Tuất, tôi yên lòng, nhưng vẫn có cái gì bắt tôi cứ áy náy, lo lắng. Tôi móc túi lấy món tiền trăm bạc xanh dành dụm được bấy lâu đưa cho thím Ba và nói:
- Nói thiệt với thím, nhà cửa của tôi bị tụi nó phá phách, gạo lúa cũng không còn...
Thấy cảnh tôi bồng bế con cái tới, thím Ba đã xót lòng, giờ thấy tôi đưa tiền nói thế, thím khóc. Tôi lại nói:
- Tôi còn có một trăm, thím cầm lấy. Nhờ thím trông nom các cháu thay tôi, còn tôi, tôi phải đi công tác.
Thím Ba chùi nước mắt, cầm tiền nhét trả lại túi tôi, nghiêm giọng nói:
- Cô Tư cất đem theo mà xài, tôi không có lấy đâu.
- Thím không nhận thì tôi không dám nhờ thím đâu.
- Tôi đủ sức nuôi các cháu. Cô coi tôi là người thế nào mà cô nói vậy. Tôi không nuôi mướn, tôi làm việc chung, việc của cô tôi làm không được thì tôi nuôi mấy cháu thay cô, đó là phận sự của tôi.
Tôi nghe thím Tuất nói, nghẹn ngào ôm chầm lấy thím. Hai thím cháu chúng tôi cùng thông cảm, ôm nhau với cả chân tình. Lát sau tôi buông thím ra, buộc lại khăn cổ, khoác bọc quần áo lên vai định đi. Nhưng lúc ấy chừng như có sức mạnh gì níu kéo tôi lại. Tôi đặt bọc áo quần xuống, nhè nhẹ bước trở vào buồng. Hai con tôi đang yên giấc. ánh đèn mờ chiếu vẻ mặt thơ ngây của hai đứa. Tôi đứng ngây ngất nhìn chúng nó rất lâu. Rồi nghĩ tới lúc sáng sớm mai dậy, các con nó không thấy mình, tôi xót cả lòng. Lần cuối cùng, tôi lặng lẽ cúi xuống hôn hai đứa, rồi mới trở ra.
Thím Ba Tuất cầm hộ bọc quần áo, đưa chân tôi qua một thửa ruộng dâu.
Ra đến nhà anh Mười, tôi đã gặp anh Dũng chờ tôi ở đấy. Thấy vắng mặt anh Trương, tôi hỏi:
- Anh Trương đâu rồi anh?
- Đi bố trí rồi. Còn tôi ở nhà đợi chị nãy giờ đây.
- Tôi phải đưa mấy cháu đi thành ra hơi trễ.
Dũng xem đồng hồ tay và nói:
- Không, mới mười rưỡi. Sao, hai cháu mạnh không chị?
- Nó vẫn mạnh. Con Ngọc Thủy biết coi chừng em rồi.
- Tôi nhớ nó quá. Nói hồi Tết về thăm nó mà về không được. Tôi cúi đầu không đáp, đưa bọc quần áo cho anh Mười cất dùm rồi cùng đi với anh Dũng. Chúng tôi đến nhà chị Tám vợ lính. Khi chúng tôi đến ấp ngoài đã gặp chị Mười đón ở đầu Cầu Sắt. Gặp nhau, chúng tôi trở về nhà chị. Chị Tám, tức là vợ Tám Tân, người lính đã gặp tôi một lần ở bãi Sao. Nhà chị Tám ở cách Cầu Sắt non trăm thước. Sau khi tôi căn dặn chị lần chót, chị liền ra đi. Còn chị Mười thì bế con chị Tám đi ngõ tắt về trước trong ấp trong.
Anh Dũng, anh Trương dắt tiểu đội du kích ra đầu cầu. Tôi cũng cùng theo. Trời tối đen như mực. Đứng ở đầu cầu nhìn vào quán Tư Bửu thấy rõ cả. Đèn măng-xông thắp sáng. Trong buồng bọn lính đánh "dì dách" rì rầm to nhỏ, ăn thua nhau quyết liệt. Tiếng cái vừa tiền, tiếng mụ Tư Bửu lấy xâu cũng nghe rõ. Bọn Tư Bửu từ lâu coi vùng Cầu Sắt này như vùng tự do của chúng. Một bên là bót Long Hưng, một bên là lô-cốt, chúng nó cứ tha hồ lui tới quán uống rượu, chơi gái, đánh bài. Mụ vợ Tư Bửu dung chứa hết, lấy tiền mối, ăn xâu. Đôi khi Tư Bửu tới, muốn ngủ với mụ, nhưng nhằm lúc mụ bận lo toan, mụ tìm cho Tư Bửu một con điếm hạng khá. Thế là hai đứa đều được việc.
Đêm nay, sòng bài rất đông tay con. Tư Bửu có mặt từ đầu hôm, đóng vai thủ cái. Mụ Tư vừa lấy xâu vừa làm hổ cho chồng.
Anh lính Tân, người lính có vợ được tôi sinh cho, đêm nay cũng có mặt trong sòng bài. Chính anh ta làm nội ứng đêm nay. Giác ngộ được anh Tám Tân, tôi đã mất một thời kỳ lui tới khá lâu. Vợ anh - chị Tám là người cương quyết nhất trong việc thúc giục chồng rời bót mà đi. Bấy lâu nay, sau khi gây được một số cơ sở nội ứng ở các bốt, chúng tôi gặp khó khăn - không rõ vì sao vừa rồi - Tư Bửu đều đổi số lính đó đi. Tôi bực quá. Song tôi gắng sức theo dõi điều tra nơi đến mới của số lính ấy. Vất vả lắm mới biết được chớ không phải dễ đâu. Sau khi biết chính xác rồi, tôi báo cáo về huyện. Huyện báo cáo lên Tỉnh. Tỉnh ủy liền mật thị cho những địa phương ấy bắt liên lạc với số lính tốt đó. Như vậy tác dụng của cơ sở nội ứng vẫn không mất mát đi đâu. Trừ phi các địa phương chưa phát triển phong trào. Nhưng mà, anh nghĩ lúc đó thì ở trong mình, vùng nào lại không làm ngụy địch vận kia chớ... Còn nói về số lính mới tới, tuy bắt đầu được ta vận động tuyên truyền, nhưng chưa thấm, kế đó Tư Bửu tuyên bố với chúng nó: "Việt Minh chỉ có cái miệng tài. Tôi mà còn ở đây, các anh đừng có lo. Các anh cứ ngồi trong lô-cốt, tới tháng tôi phát lương cho xài".
Thực ra, sở dĩ có đội võ trang tổ chức nội ứng hôm nay không phải vì lời nói của Tư Bửu. Nếu anh đã từng qua công tác đó, chắc anh cũng hiểu. Đội công tác võ trang không thể chỉ có bắc loa thét vào bót mà còn phải có sức mạnh gây hiệu lực cho tiếng loa ấy...
Chị Tư Hậu nói cách linh lợi. Tôi thấy gương mặt chị hơi khác trước, và đôi mắt sáng ánh dữ dội. Tôi đang nghe chị giảng một lý luận. Cái lý luận rút trong thực tế, do lòng căm thù sinh ra. Chính trong trường hợp ấy, làm tôi mới hiểu sâu sắc, căm thù là ngọn lửa nóng bốc dậy mãnh liệt hơn mọi ngọn lửa thường. Và cũng chính lúc ấy tôi mới thật rõ vì sao chị Tư Hậu dám đem hai con mình gởi đi, dám tạm rời nguồn an ủi yêu thương nhất của mình... Tôi nói với chị:
Chị hãy kể tiếp cho tôi nghe câu chuyện xảy ra đêm đó đi!
Chị Tư Hậu gật đầu và nói:
- Chị Tám rời chúng tôi đi sang quán gọi chồng. Tám Tân thấy vợ tới thì biết rồi. Anh nói với sòng bài:
- Con nhỏ tôi nóng đầu, tôi xin nghỉ chơi.
Mụ Tư Bửu tiếc mất tay chơi, nài nỉ:
- Thì có gì đâu, con nó nóng sơ sơ mà về gì... ở chơi hồi nữa đi. Anh Tám Tân nói về một chút rồi sẽ lại liền, đoạn bỏ sòng bài bước ra. Anh nháy mắt ra hiệu cho hai người lính cùng bọn, rồi lấy cây súng khoác lên vai đi. Bọn lính còn lại bảy đứa cộng với chồng Tư Bửu là chín, tiếp tục sát phạt nhau. Bên ngoài anh Dũng ra lệnh anh em du kích xông vào bao kín ngôi quán. Tám Tân dắt ba du kích trở lại chĩa súng vào sòng bài. Tư Bửu vùng chạy. Nhưng hắn đã bị một anh lính túm lại. Cả bọn trở tay không kịp, đều bị bắt sống. Tốp du kích lùa chúng qua đầu cầu. Tôi nhập vào cùng đi. Con mụ Tư Bửu đi một chập thì dừng lại không chịu đi. Du kích dí súng vào lưng mụ, mụ cũng không nhúc nhích. Nó khôn lắm, biết là bọn chúng tôi còn ở trong vùng cốt, không dám nổ súng. Anh em du kích lôi cái thân béo mập của mụ lên. Kéo được mụ ta qua khỏi ngõ rẽ, mụ lại nằm rị xuống, cất tiếng rống như heo, ai nấy đều lo. Chợt tôi thấy anh Dũng đi lui lại bàn nhỏ với đồng chí Trương. Sau đó Dũng bước tới chỗ mụ ta nằm, rút súng lục kề vào đầu mụ. Và tôi chỉ kịp nghe một tiếng chát. Rồi thân hình của con mụ chỉ điểm không động đậy nữa.
Lần đó tên Tư Bửu biến sắc khi gặp mặt tôi. Lúc du kích đem hắn về tới ấp trong, tôi định bụng đến trước mặt hắn kể tội hắn và xem hắn có nhận ra tôi không như câu hắn đã hỏi tôi ba năm trước. Nhưng đến khi tôi sắp vào nhà giam hắn, bỗng nhiên tôi lại do dự không muốn vào. Gian nhà không đến nỗi tồi lắm. Hắn vẫn có thể nhìn ra tôi. Khi thoạt trông thấy tôi, cặp mắt hắn vụt nhìn xuống. Còn tôi, bao nhiêu lời định kể tội hắn cũng vụt biến đi cả. Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn một chập, thế rồi đi ra ngoài. Hai tay tôi ôm lấy mặt bước đi từng bước. Dũng nhìn thấy hỏi:
- Chị Hậu khóc à? Sao vậy?
- Không, tôi có khóc hồi nào đâu.
Sự thực thì tôi đã khóc. Tuyện không phải là vì tôi sợ hắn. Hắn đã không còn đáng sợ nữa. Song le tôi sợ cái bộ mặt của hắn. Cái bộ mặt khả ố khiến tôi không chịu nổi và bỗng chốc gợi lại chuyện đau đớn cũ. Tôi bảo anh Dũng:
- Anh Dũng à, như vậy là xong, chiều tôi về đồng dâu.
Anh Dũng nhìn tôi bảo:
- Có thể đợi tôi cùng đi với!
- Anh cũng về à!
- Tôi lên huyện, định tối ngủ lại ở bãi.
Tôi ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Đợi anh có lâu không?
- Bố trí công việc sâm sẩm tối thì đi!
Tôi có vẻ ngần ngại: - Tối quá... tôi muốn về sớm gấp coi mấy cháu thế nào. Dũng bấy giờ cũng không nài ép. Anh bảo rằng nếu thế thì tôi cứ về trước. Nói xong anh quay đi. Tôi thì tôi vẫn còn đứng ở đấy. Tôi tần ngần hối hận ngay sau những câu tôi vừa nói. Cái gìn giữ ý tứ của tôi nó bộc lộ ra rõ quá, đến đỗi Dũng nhận thấy được. Và ăn cơm xong rồi tôi cũng chưa đi. Lát sau Dũng trở về. Thấy tôi vẫn còn đó, anh lộ vẻ ngạc nhiên:
- Chị Hậu chưa đi sao?
- Lỡ cỡ rồi, đợi anh cùng đi luôn thể!
Chúng tôihế. Nhưng niềm sung sướng lúc chưa xảy chuyện khổ nhục và tang chế là niềm sung sướng toàn vẹn. Lần này, trong đau đớn, tôi cố gắng và nó trở lại an ủi tôi. Sau đó, tôi thấy như mình già dặn hơn. Tôi thấy công việc ấy có thể làm dịu cơn đau đi. Hình như nó là cái cánh tay giông giống như cánh tay của chị Ba đưa ra hôm nọ cho tôi bíu lấy lúc tôi rền rĩ "Chị Ba... mẹ con em biết làm sao bây giờ..."
Chính là buổi sáng ấy, chị Ba Dương sắp đến. Chị ấy đã hẹn với tôi như thế. Nghĩ đến chốc nữa gặp chị Ba, tim tôi đập gấp, hồi hộp. Con Thủy của tôi vẫn còn ngủ. Muốn đỡ hồi hộp hơn, tôi tìm một chuyện làm, liền đi thay nước lu tôm mà cha tôi vừa xịp được hồi đêm. Thay nước tôm xong, tôi bắt chục con đem làm. Đang làm tôm thì chị Ba Dương tới. Tôi nói:
- Em trông chị từ nãy giờ.
Vừa nói tôi vừa đưa mắt nhìn ra phía sau lưng chị Ba. Không thấy có ai cả, tôi hỏi:
- Mấy ảnh không tới à?
Chị Ba Dương ngồi xuống bắt một con tôm bẻ càng, khẽ bảo:
- Có, nhưng mấy thằng lính ở Hiệp Lộ đi đâu xuống bãi sớm quá!
- Đâu?
- Nó cà rà ở đằng cuối bãi. Không biết để làm gì. Thành ra chị phải đưa hai ảnh vô nhà chú Chín tránh tạm. Chốc nữa, nó đi rồi, chú Chín Tốt sẽ đưa hai ảnh lại đây.
Chị Ba nói xong cầm dao làm tôm với tôi. Tôi nhìn về cuối bãi rồi nhìn chị. Tôi thấy chị Ba bình tĩnh như không. Hình như cái chuyện như thế chị thường gặp hàng ngày. Tôi vừa lo vừa phục thầm. Quả nhiên một chốc sau chú Chín Tốt đến, theo sau có hai người. Tôi nhìn thoáng qua, mỉm cười. Nếu không biết trước, không thể nhận ra được là hai đồng chí cán bộ. Một người đứng tuổi và một người còn trẻ. Người đứng tuổi mặc áo đen, quần xá xị trắng. Còn anh trẻ vận một cái áo tiều đơm cúc vải cũ rích, nơi miệng có ngậm một cái ống vố bằng sừng. Gói đồ khoác sau lưng họ là chiếc khăn choàng kiểu hai thước buộc túm.
Hai người tiến đến. Chị Ba đưa mắt nhìn tôi, giới thiệu khẽ với họ:
- Đây là cô Hậu...
Hai người chào tôi. Chị Ba cho tôi biết người có tuổi tức là đồng chí Trương. Và chị vỗ vào vai người trẻ tuổi bảo.
- Đồng chí Dũng là đồng chí này!
Anh cán bộ trẻ khoác áo tiều đó so nhẹ vai cười, miệng bập bập cái ống vố. Khi vạt áo tiều anh ta bị gió thổi bay ra sau, cả người anh ta nổi lên cái dáng khỏe, nửa hơi vui tính nửa có phần hơi kiêu. Cha tôi lúc này đã trở dậy. Thấy họ, cha tôi rất vui, lật đật đi nấu nước. Chín Tốt đưa hai anh cán bộ tới đây rồi, mới xấp lưng quay đi được ít bước bỗng day lại hốt hoảng nói:
- Anh em, hai thằng lính nó lên!
Tôi nghe nói cũng hoảng:
- Chị Ba đưa hai anh vô nhà đi. Có gì thì xuống hầm.
- Được rồi, hai đồng chí vào đi. Còn em, Hậu, em bắt tôm ra, chị ngồi làm với em.
Chị Ba nói rồi, nhanh nhẹn xếp đặt ngay.
Lát sau, từ mé bãi, hai tên lính khệnh khạng đi lên. Trông bộ đi của chúng, tôi hơi yên tâm. Chúng nó đi thất thểu, chậm chạp, không có gì tỏ ra đi sục cán bộ cả. Đi ngang trước mặt chúng tôi; chúng nó bước quá luôn. Nhưng bỗng hai đứa thì thầm nói nhỏ gì với nhau rồi quay lại. Chị Ba tay bẻ càng tôm nhưng mắt không rời hai đứa. Chị nói nhỏ: "Em cứ tỉnh, để chị liệu..."
Hai tên lính đi đến trước mặt chúng tôi. Một tên muốn nói điều gì mà như còn ngại ngùng. Sau đó y trỏ vào mớ tôm dưới đất hỏi:
- Hai chị có dư tôm bán để tôi mua.
- Chị em tôi có đủ ăn thôi, không có dư để bán.
- Chị làm phước để lại ít con mà.
Chị Ba Dương hỏi:
- Anh muốn mua bao nhiêu?
- Để cho bao nhiêu cũng được. Nói thiệt, tôi chỉ còn có hai đồng bạc.
Chị Ba Dương ra vẻ ngần ngừ một lát, đoạn bảo tôi:
- Hậu, em lựa để cho hai ảnh một mớ đi em.
Tôi nghe lời chị Ba, bắt trong lu ra mấy con nữa, túm càng buộc chung lại một chùm đáng trên cân đưa cho tên lính. Song lúc đó, bỗng y không cầm lấy. Y đút hai tờ bạc một đồng trở vô cái túi to nơi bẹn quần của y. Chị Ba thấy thế nói:
- Bao nhiêu tôm tính hai đồng, cũng như cho anh phần nữa mà anh còn chê ít sao?
- Không... không phải tôi chê.
Người lính vừa lắp bắp vừa day ngó tôi trân trân. Mãi sau anh ta hỏi tôi:
- Có phải chị là cô mụ Hậu không?
Tôi không rõ tại sao anh ta biết tên tôi. Tôi chưa kịp chối, thì anh ta nói tiếp một mạch:
- Trời ơi... Tôi cảm ơn chị biết chừng nào.
Tôi với chị Ba sững sờ. Kế anh ta lại nhìn tôi, nói giọng xúc động.
- Chị sanh cho vợ tôi chớ gì... chị đừng giấu, tôi mang ơn chị lắm. Đêm đó, tôi tính vô... mà không vô đặng. Trời ơi, thằng nhó tôi tốt đứa lắm. Vợ tôi nó cứ nhắc tên chị hoài... nó biểu có dịp phải đền ơn chị.
Tôi nghe người lính nói, sực nhớ ra cái đêm nhà tôi về, tôi đi đỡ cho chị vợ lính, té ra là vợ người lính này. Bây giờ tôi đỡ lo, mới hỏi anh ta:
- Sao anh biết tôi:
- ấy, thì chị này vừa kêu tên chị, tôi mới biết. Trước vợ tôi nó cũng có nói chị ở bãi Sao.
Dứt lời anh ta bảo nhỏ người lính bạn:
- Thôi, Tám... đừng lấy tôm của mấy chị nữa.
Rồi anh nói với chị Ba và tôi:
- Tôi không lấy tôm đâu, tụi tôi không đủ tiền.
Chị Ba nói:
- Mới có giữa tháng mà mấy anh hết tiền rồi à?
- Hết rồi, vợ tôi nó đã phải đi mót lúa mấy bữa nay.
- Thôi, anh cầm lấy mấy con tôm đi. Chị em tôi không lấy tiền đâu.
Anh lính ngần ngừ không muốn lấy. Thì anh lính kia có ý tiếc, bảo:
- Hai chị cho thì cầm từ giã anh Mười. Chúng tôi ra khỏi Hiệp Lộ. Vầng trăng đã lấp ló treo trên đầu các ngọn sao. ánh trăng chiếu vô vòm lá, khiến lá sao lấp loáng như có thoa mỡ. Rặng sao hứng lấy ánh trăng, chỉ buông rơi xuống mặt đường sỏi vắng vẻ những đốm sáng lỗ chỗ. Lúa tháng mười ở bên đường thoảng ngát mùi thơm ngọt của sữa gạo mới đọng lại trong vỏ hạt. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau. Vẫn chưa ai nói chuyện với ai một câu nào. Kể ra cái chuyến đi trên xe ngựa từ năm trước có lẽ giữa tôi với anh ấy còn được tự nhiên hơn nhiều. Chưa quen biết mà lại dễ nói. Chừng hơi quen hơi thân rồi sao lại khó nói. Người cán bộ trẻ đã làm tôi hơi khó chịu khi mới gặp, lâu nay anh ta thật là người đáng sợ đối với tôi. Cái bóng dáng của anh cứ xen vào cuộc đời tôi, muốn tháo gỡ mà tháo gỡ không xong, đành cứ để nó xen vào. Đôi lúc cảm thấy được an ủi, cảm thấy bớt trống trải. Song lẽ một chốc chi đó tôi lại đâm lo ngại rồi.
- Chị Hậu à, gởi hai cháu đi, chị có nhớ chúng nó nhiều không?
Đang im lặng, chợt Dũng hỏi tôi, tôi thẫn thờ đáp:
- Tôi cắn rứt quá. Không biết có thể quen dần được không, chớ như thế này... chắc là chịu không nổi.
Dũng yên lặng nhìn vào mắt tôi. Lâu sau, anh hất mớ tóc ngược ra sau nói:
- Nói là xa mấy cháu, nhưng chị có xa gì cho lắm, vẫn có thể gặp luôn. Ví dụ như chốc nữa thì gặp rồi. Chỉ có như tôi, không biết chừng nào tôi mới gặp con gái nhỏ tôi. Có lẽ là ngày kháng chiến thắng lợi.
Tôi hỏi, mặc dù đã biết chuyện riêng của Dũng do anh Trương kể lại:
- Dạo trước anh Dũng có nói là cháu nhỏ ở với bác, còn chị mất. Tại sao vậy.
Dũng nghe hỏi, anh lặng thinh lùi lũi đi tới. Dáng điệu Dũng trông hơi ảo não. Tiếng chân anh dẫm sỏi rào rạo, nghe khô và lạnh. Hồi sau Dũng nói với tôi:
- Vợ tôi mất thật là đau đớn...
- Sao vậy anh? Chị đã mất lâu chưa? Bệnh gì?
- Không...
Kế đó Dũng thở ra một cái. Anh nói, giọng như lắng xuống:
- Kể cũng hơi dài dòng. Năm 49 tôi bị địch bắt ở địch hậu Vĩnh Châu. Dạo đó tôi cũng hoạt động như thế này. Gián điệp nó chỉ điểm thế nào mà bọn giặc nó sục đúng ngay hầm tôi. Trong hầm gồm có ba người, tôi và hai anh nữa. Chúng nó chất rơm đốt. Khói luồn vào hầm làm chúng tôi ngột không thể tả. Hầm bí mật ở Vĩnh Châu đều có ngách trổ ra đồng cả. Nhưng tại ngách đó cũng bị chúng nó chặn. Liệu ở lâu dưới hầm chắc là phải chết ngạt. Tôi mới quyết định lên cái ngách giữa đồng. Có chết thì cũng chết sao cho đáng. Tôi dọn đường bằng một loạt lựu đạn, rồi cầm súng lục nhảy lên. Anh em cứ thế lên theo. Chúng nó sáu thằng toàn Tây trắng bu lại. Tôi bắt chết ngay hai thằng. Nhưng chúng nó bắn lại chết ngay một anh. Tôi vừa kịp nhìn thấy thế, thì sau gáy đau nhói một cái. Mắt tôi đổ lửa, chân quỵ xuống...
Kể đến đó, Dũng ngừng nói, chắp hai tay ra sau lưng:
- Ngã xuống tôi ngất đi. Lúc sực tỉnh, thấy mình đã nằm trên xe "gíp". Tôi mới biết là mình chưa chết, nhưng hai tay thì bị sợi dây dù trói chặt... Tôi nghĩ phải chi lúc đó đạn chui tọt vô óc, thế mà yên... Đi tù, tôi cũng quen dần với cảnh tù tội, tra tấn. Nhưng mới vào tù là tôi đã nuôi cái ý chỉ muốn thoát ra. Cuối cùng thì thoát ra được thật. Thành thử ở tù chỉ có một năm. Một năm thôi mà thấy dài ghê quá, bị đánh đập nhiều phen, ăn uống còn thua thú vật. Vậy nhưng vẫn chịu nổi để mà trốn ra được. Trốn ra được rồi, tôi định bụng trước khi trở lại công tác, thế nào cũng phải về thăm vợ con một chuyến. Trước khi bị bắt, vì bận bịu công tác nên chưa về nhà lần nào... Vợ tôi, anh Trương biết, không đẹp nhưng coi được. Có duyên nhứt là cái răng hơi khểnh một chút, với lại tính tình hiền hậu quá. Còn con gái nhỏ tôi, sanh nó hồi tôi còn làm thợ ở Ba Son, dễ thương biết chừng nào.. nhưng việc đời xảy ra lại ngược với mong muốn của mình, tôi về tới An Thới, quê vợ tôi, thì vợ tôi đã chết trước đó một tháng. Một viên đạn đại bác chín mươi của đồn An Thới đã giết vợ tôi trong lúc vợ tôi chạy đi bế con bé xuống hầm. May mà mảnh đạn nó không trúng con tôi... Bà con đùm bọc nuôi con tôi một tháng trời, ở từ nhà này sang nhà khác...
Dũng nói tới đấy lại nín lặng. Chúng tôi đã đi vượt khỏi đoạn đường sỏi ra tới bãi cát. Dũng bước chậm chậm, lắng nghe tiếng sóng cuộn dồn một chốc rồi kể tiếp:
- Tôi ở lại hai đêm với con tôi. Sau đó tôi nhắn má tôi ở ngoài thành vào. Tôi gởi con cho má tôi và ra đi ngay. Lòng tôi nặng nề như có dằn đá. Thời hạn đi phép của tôi chưa hết nhưng không thể nấn ná lại một ngày nào nữa. Tốt hơn hết là đi. Ra đi, tôi nghĩ tội nghiệp cho con tôi với má tôi. Con nhỏ còn bé quá... Mà sau chuyến ấy tai con bé nó nghe không rõ nữa chị à. Chưa điếc, nhưng nó chỉ nghe tiếng được tiếng không. Thế mới khổ chứ. Còn má tôi... bà già quá, trước đã phải oằn lưng xuống lo nuôi các anh em tôi, giờ vẫn phải đi may vá mướn nuôi con tôi...
Nghe Dũng nói, trong đầu tôi cứ nghĩ: Trời, như vậy thì có phải riêng gì tôi đâu. Trên khắp các ngõ đường, chiến tranh cứ đào thành những hào hố thê thảm. Bao giờ thì những hào hố ấy được lấp bằng như cũ. Tôi nghĩ tới đứa con bé của anh Dũng. Đứa bé sớm mang tật nguyền và mất mẹ, vắng cha. Từ lâu, qua những chuỗi ngày dài, em chỉ sống với bà... Tôi đưa mắt nhìn Dũng, thấy vẻ mặt hơi ảo não một chút thôi. Dũng bấy giờ không nói thêm tiếng nào nữa. Anh lần lần trong túi áo tìm cái ống vố nhồi thuốc vào, rồi anh ngồi thụp xuống bật lửa đốt. Nhưng gió quá đốt mấy lần không cháy. Tôi tháo khăn cầm chắn gió cho anh, chừng ấy cối thuốc mới cháy. Dũng hít mấy hơi, cối thuốc đỏ rực lên, khói bay tản ra sau. Đêm càng khuya, trăng càng chiếu sáng xuống bãi. Sóng biển nghe ồ ạt, gần kề. Dưới ánh trăng, những đợt sóng ngoài xa nhảy cỡn lên, tóe màu xanh lam biếc. Sau khi hút mấy hơi thuốc rồi, Dũng khoan thai bước. Tôi yên lặng nhìn anh. Lòng tôi chợt tràn ngập một thứ cảm giác nửa như tội nghiệp nửa như khâm phục. Bất chợt tôi nghĩ đến một sự bù đắp nào đó. Nhưng vừa nghĩ tới đấy, tôi vội xua đi. Khôi người, thì mọi người ăn ở có tình nghĩa với mình. Đúng như vậy. Lần trước thím Ba Tuất, lần này có chị Lụa chăm sóc hai con tôi.
Bây giờ nhớ lại những chuyến đem con đi gởi cho tôi vẫn thấy nao nao. Lần nào cũng mang hai đứa đi ban đêm cả. Lần trước đi sớm hơn. Lần này nhà chị Lụa mãi Hiệp Lộ, đường xa hơn, nên đi tới khuya mà chưa đến. Hồi chiều anh Dũng nhân đi Hiệp Lộ đã mang hộ những bị quần áo của bọn trẻ đi trước. Chuyến ấy, dọc đường con tôi cũng cảm biết rằng tôi đem nó đi gởi. Con Ngọc Thủy từ dạo xa tôi nó sớm lớn khôn quá. Tôi không còn phải bận bịu vì nó nữa, trái lại luôn đỡ đần tôi nhiều việc.
Đoạn đường tắt, trời tối rất khó đi, thỉnh thoảng phải dừng lại ngồi nghỉ. Thằng Nhã cứ bám chắc tay tôi như sợ tôi đi. Tôi ôm sát nó vào lòng. Một phút gần chúng nó là một phút đỡ nhớ. Thực tình để chúng nó ở nhà tôi cũng lo lắm. Chỉ sợ con nó còn dại men ra bãi bị sụp hồ. Anh biết sụp hồ là thế nào không. Bãi biển trong mình nó có nhiều nơi không được bằng phẳng. Gò cát hay lồi lên lõm xuống. Đất cát thường có chỗ trống chân. Nước lớn lên bò lòn vô mép trong bất ngờ cuốn ụp mấy cái cát chống chân đó. Trẻ con mò ra bãi chơi, đánh bẫy chim nhạn hoặc lượm vỏ sò, lúc về bị sụp hồ chết là thường lắm.
- Má... má đừng đi nữa nghe má... - Thằng Nhã bập bẹ bảo tôi thế. Tôi mới hỏi: - Má đi con có nhớ má không? ở nhà con có đi chơi xa, ra bãi không?
Nó đáp:
- Không, con không có đi xa. Chị Thủy nhớ khóc, con còn dỗ chị nữa. Má má đừng đi nữa!
Nghe nó nói tôi không nhịn được cười. Thằng con trai tôi, tôi biết tính nó, lém hơn chị nhiều. Nó có nhớ tôi, thế nhưng nói thẳng ra là không khi nào nó nói, lại đổ cho chị. ở một số trường hợp khác cũng thế, con Thủy có gì cũng thổ lộ thẳng với tôi, còn nó, hình như nó không muốn cho ai thấy là nó yếu ớt một chút nào cả. Con Thủy hỏi nó:
- Nhã không nhớ má thiệt chơi?
Con Thủy vừa hỏi vừa bấm nhẹ tay tôi, ra hiệu cứ để yên.
- Không nhớ, sao hôm đó thím Ba đi rẫy, Nhã ở nhà tháo chuồng gà ra hết. Thím Ba về rầy, Nhã khóc đòi chị tìm má cho Nhã liền. Chị bảo má chưa về thì Nhã khóc.
Con Thủy hỏi rồi bẹo nhẹ gò má em. Thằng Nhã thẹn quá rúc đầu vào sau vạt áo tôi. Một lúc chợt ngẩng ra nói:
- Hồi nào... Nhã khóc hồi nào đâu.
- Thôi, đừng chối. Nhã chối thì chị không chơi với Nhã nữa!
Thường thường câu chuyện giữa hai chị em nó tới đó là tôi phải lo tháo gỡ. Làm thế nào bảo cho đứa em biết nói dối là không tốt. Với lại, trong lời nói, làm sao cho con chị càng tăng thêm trách nhiệm của nó đối với em. Tôi liền hỏi:
- Nhã, con có như vậy không?
- Không, chị Thủy... chị ấy...
Tiếng "không" của thằng Nhã đáp rất yếu, tỏ ra là nó đã nhận, nhưng nó không thể mở miệng bảo "có" được. Tôi nhẹ nhàng bảo:
- Nhã nói dối, má không thương. Từ nay Nhã phải nghe lời chị nghe không?
Tôi day hỏi con Thủy:
- Bữa đó chồn có ăn thịt con gà nào của thím Ba không?
- May mà không có, má à. Thím Ba nói rủi thím không về lùa gà kịp thì chồn ở rừng lên ăn thịt hết. Thím đâu có nói gì, chỉ dặn lần sau đừng mở chuồng nữa, vậy mà Nhã khóc thôi là khóc.
Thằng Nhã bấy giờ rúc đầu vào ngực tôi, không đáp. Biết là nó đã chịu lỗi, tôi bảo:
- Thím Ba nuôi mấy con đáng lẽ phải giúp đỡ thím ấy chớ sao lại quấy rầy thím.
- Có, chị Thủy đi hái dâu, còn con chiều nào cũng cho gà ăn.
Thằng Nhã lanh lảu đáp. Tôi nhấc đầu nó lên hỏi:
- Giờ con có biết thím Ba ở đâu không?
Cả hai cùng yên lặng. Tôi nói:
- Mấy con không còn gặp thím ấy nữa đâu!
Con Thủy ôm lấy vai tôi, sụt sịt khóc. Tôi lặng lẽ vuốt tóc nó, bùi ngùi nói:
- Con thương thím Ba lắm phải không?
Con Thủy vẫn im lặng, áp cặp mắt ướt vào tai tôi. Xung quanh nơi mẹ con tôi ngồi nghỉ, cảnh vật im lìm chìm trong đêm tối. Đoạn đường này trước kia có đến hai lô-cốt địch, mới vừa bị du kích bức phải rút. Chỉ còn lại hai đống gạch đổ sụp, mờ mờ hiện ra ở bên kia đường. Tôi nghĩ rằng cái chết của những lô-cốt đó thật như một việc quả báo. Nó mọc lên ở đây như những ung nhọt làm bao người bị thiệt mạng, trong đó có cha tôi, có thím Ba, giờ đến lúc nó lần lượt chết đi trong đêm tăm tối là phải lắm.
- Con thương thím Ba lắm phải không, Thủy?
Tôi buột miệng lặp lại một lần nữa, rồi nói tiếp:
- Con có nhớ nội không? Nhớ ba không? Nội với ba con cũng chết như thím Ba vậy.
Thằng Nhã rục rịch muốn khóc. Con Thủy thấy thế thì cất đầu ra khỏi vai tôi, vội đưa tay quệt nước mắt, cố gượng không cho em biết, nó nói với giọng của một người chị:
- Nhã, nín đi... nín đi không? Chốc nữa gặp chú Dũng chị mách chú ấy.
Tôi liền đứng dậy. Một là vì thấy đã khuya, hai là muốn phá tan sự buồn bã cho các con. Nhất là chúng nó lại sắp xa tôi. Tôi giục:
- Thủy, đi thôi con!
Tôi cõng thằng Nhã. Bé Thủy ngoan ngoãn đi sau lưng tôi. Mẹ con tôi đi tiếp đoạn đường. Mùa tháng tư, vườn tược trong xóm gần đó thoảng tới mùi hương bông bưởi thơm ngát. Bưởi lại ra hoa rồi. Lòng tôi dìu dịu mối hy vọng, thầm ước sau ngày kháng chiến, tôi sẽ sống yên ổn nuôi con. Lúc đó, thú thực với anh tôi có nghĩ tới Dũng, khi còn bé tôi nó vừa nhắc tới anh ấy. Tôi không hiểu sao, chỉ có thấy Dũng thì tôi đỡ trơ trọi hơn. Tôi nghĩ như thế, nhưng vẫn thấy buồn buồn. Như vậy không biết phải hay quấy, anh cắt nghĩa hộ tôi, cho tới bây giờ tôi vẫn không rõ... Tôi nói thật lòng, anh đừng cười...
Tôi bảo:
- Lẽ nào tôi lại cười chị... Theo tôi...
Chị Tư Hậu hơi cúi người ng con bé cứ cười rúc rích. Tôi nhẹ tay bụm miệng nó "Để mấy chú ngủ con!" Con Thủy im bặt. Tôi nhìn vào nhà, chợt thấy anh cán bộ trẻ mở mắt ngó đăm đăm ra. Lúc bấy giờ tôi thấy cặp mắt anh nọ khác hẳn ban sáng. ở trong đôi mắt đó, đang ánh lên vẻ tha thiết và hứng thú lây. Sau đó anh không nhìn nữa mà ngó mông ra biển, vẻ mặt trở nên buồn bã, nghĩ ngợi. Khi ấy gương mặt anh mất đi vẻ khinh đời. Hồi sau có lẽ không ngủ được, anh ngồi dậy hút thuốc. Hút thuốc coi mòi chán rồi, anh bước ra ngoài. Tôi rày con:
- Con cứ giỡn hoài, phá mất giấc ngủ của chú rồi!
- Không sao, tôi hết buồn ngủ rồi chị à.
Nói xong anh chìa hai tay về phía bé Thủy. Tôi nhẹ đẩy con ra:
- Con, lại chú bồng!
Con bé liền sang với anh. Anh ôm nó nhè nhẹ đu đưa rồi hôn trên tóc nó. Chốc sau anh trao lại cho tôi nói:
- Tôi cũng có một đứa con như thế này.
- Cháu với chị giờ ở đâu?
Anh ấy lặng thinh, ngồi ghé xuống một góc vạt. Lâu sau anh thở dài nói:
- Nó không còn mẹ nữa. Tôi gởi nó cho má tôi.
Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên muốn hỏi. Lần này anh cán bộ im lặng rất lâu, cứ ngồi nhìn xuống đất, hết nhìn xuống đất lại ngó ra mạn khơi. Mãi một lúc sau mới nói:
- Vợ tôi chết rồi.
Anh chỉ trả lời ngắn ngủi như thế rồi lại ngồi im. Tôi nghe nói lòng thấy xót lên, nhưng không dám hỏi tới nữa. Tôi ước chừng là anh đang bị mối khổ tâm nó dày vò. Ngay khi đó nét mặt anh trở lại lạnh lạt như trước. Anh trở vào giường nằm lại, không lâu sau, tôi nghe tiếng ngáy của anh cất lên.
Chiếc xe ngựa từ phía miễu Cá Ông ngày một hiện rõ ra. Tôi đứng đợi sẵn trên bãi tự nãy giờ liền lột khăn vẫy lên. Trong nắng chiều, đôi vành gỗ uốn cong của chiếc xe bóng ngời. Con ngựa ô hắt màu lông đen nháy, khỏe mạnh phóng nước đại, lôi cỗ xe vun vút chạy tới. Xe chạy quá chỗ tôi đứng, anh Mười đánh xe cho đảo lại. Con ngựa sau khi chạy hết một đoạn đường với chiếc xe không, hình như chưa phỉ sức, nện vó độp độp xuống cát mấy cái và nghiến hàm thiếc ken két. Đằng sau lối xe vừa qua, những vết chân ngựa nằm giữa hai lằn dấu của bánh xe, nổi bật lên một đường dài lượn thành hình vòng cung trên gò cát.
Anh Mười Hợi từ trên nhảy xuống, hăm hở hỏi tôi:
- Sao? Anh em tới chưa thím!
- Tới rồi. Tôi với mấy ảnh đợi anh nãy giờ. Anh Mười vô nghỉ uống nước một chốc rồi đi.
Anh Mười vừa theo tôi vào nhà vừa vung roi nói:
- Thím Tư, hồi nãy đi dọc đường, hai thằng lính gác hai lô cốt đầu cầu Cây Sao hỏi tôi đi đâu. Tôi nói vô Bãi Sao rước khách, nó tưởng thiệt. Mà thứ lính tráng gì như chết đói hồi đời nào vậy thím. Thím Tư coi, ở trên lô cốt nó thả dây thòng xuống một cái giỏ, thứ giỏ rộng cá trê, biểu tôi: "- ủng hộ tụi tôi một vài ngân, năm đồng, mười đồng tùy hỉ..." Tôi mới nói: "Rủi quá, tôi không sẵn tiền theo, khi khác tôi sẽ ủng hộ mấy thầy". Bỗng có một thằng từ trên chĩa súng xuống nói nửa giỡn nửa thiệt "Có ủng hộ không thì nói đặng tôi lãy cò!". Làm tôi phải lựa mấy đồng bạc rách bỏ vô giỏ, tụi nó mới cho đi. Thím coi, thấu trời chưa!
Tôi nghe nói thì không nhịn được cười.
Anh Mười Hợi vào nhà. Cha tôi cứ ngó anh ta châm bẩm.
- Hình như tôi có gặp chú này một lần ở đâu...
Anh Mười uống hết chén nước cười nói:
- Ông già quên tôi rồi sao? Đêm đó... cách đây một tháng tôi có tới đây.
- à... à... nhớ rồi, nhớ rồi?
Cha tôi bước tới gần, nói giọng hơi ngượng ngập.
- Đêm đó... chú bỏ quá cho tôi, đừng có giận nghe.
- Tôi còn mang ơn nhà bác nữa, chớ giận gì.
Nói rồi anh Mười Hợi giục đi sớm. Tôi cùng hai đồng chí Trương, Dũng ra xe. Tôi ngoái lại nói với con Thủy:
- Bé Thủy ở nhà với nội nghe?
- Dạ.
Mọi người lên xe. Mười Hợi dặn:
- Đi ngang qua mấy cái lô cốt cứ để tôi nói chuyện với nó.
Ai nấy gật đầu. Anh Mười vung roi. Chiếc xe chở chúng tôi quay lại đường cũ. Trời mát dịu. Xe ngựa quẹo ngang đầu voi. Trong miễu thờ Cá Ông có mấy du kích đang ngồi gác trên bệ đá. Họ giơ cao những chiếc tù và làm bằng những con ốc lớn màu đồng hun mà vẫy chúng tôi. Chiều xuống trên bãi cát mênh mông, vắng lặng. ở tít xa cao, những cái nóc lô cốt đỏ chót trông chỉ bằng ngón chân cái, nhô giữa rặng sao cao vút. Vạn lưới Bãi Sao tụt dần lại, và con đường sỏi độc nhất chạy Hiệp Mỹ trắng xóa đến gần, đến gần... Chốc sau xe đã lên tới đường cái. Bánh xe nghiến sỏi đường rào rạo. Tiếng vó ngựa từ đầu nện lộp bộp xuống cát giờ đổi sang tiếng lốp cốp, lốp cốp... nghe dòn và khô. Anh Mười ngồi phía trước, hai chân chảng hãng đặt trên dạ xe. Anh kẹp roi vào nách, luôn đưa mắt nhìn xa về phía trước. Hôm nay khác hơn những chuyến đưa khách thường, một chấm đen nhỏ hiện rõ ở cuối đường cũng làm anh chú ý. Cũng như tôi, lần đầu anh Mười Hợi nhận nhiệm vụ bí mật đưa cán bộ về. Trông anh có vẻ hồi hộp, nhưng đầy sự hăng hái. Vốn thuộc làu đường đất, biết rõ cách xét hỏi của địch, anh có tự tin và can đảm. Anh đang sung sướng - cái sung sướng của một người đánh xe nghèo ở vùng địch quanh năm bị đè nén, đánh đá, bấy lâu khao khát muốn ra tay.
Tôi ngồi sau, lòng rạo rực. Tôi nhận ra giờ đây tôi không đến nỗi trơ trọi cô đơn. Chung quanh tôi từ ngày này đã bắt đầu có bè bạn, có đồng chí. Cộng thêm nỗi lo lắng đối với công việc đầu tiên, khiến tôi chan hòa một thứ cảm giác hết sức mới mẻ. Tôi đăm đăm nhìn đoạn đường hun hút trước mặt. Sau những ngày mưa, đường sỏi được phẳng phiu rửa sạch. Gió đường mát mẻ lộng vào xe. Sau lưng tôi, hai đồng chí cán bộ mải mê nhìn cảnh vật bên đường, có vẻ như để mường tượng cái chốn họ sắp đến.
- Nghe nói ở Hiệp Mỹ trái cây nhiều lắm phải không chị? Anh Dũng bật người tới hỏi tôi. Tôi đáp: "Dạ, nhiều lắm"! Anh Trương nói:
- Lần này đồng chí Dũng định vào rồi ở luôn đó. Cô Hậu coi ở Hiệp Mỹ có đám nào khá giới thiệu cho đồng chí Dũng một đám.
Tôi nghe nói làm thinh cười. Dũng vẫn để người nhoài tới trước, nói:
- Anh có muốn thì nói với chị ấy đổ cho tôi làm gì. Còn tôi, tôi mà cưới vợ nữa à, cưới làm gì.
Anh nói hấp tấp mấy tiếng sau cùng, rồi giơ tay vuốt ngược mái tóc. Anh Trương hỏi:
- Có thật không, đã cam đoan như thế à?
- Tôi đã cam đoan với tôi.
Anh Trương ngưng nói, không đùa nữa. Câu chuyện đến chỗ ấy là thôi. Tôi nhận thấy tuy câu chuyện chỉ là thế, nhưng hình như nó khiến cho người cán bộ trẻ cũng có thể đau lên được. Nguyên do thế nào tôi chưa rõ, nhưng xuyên qua câu chuyện ban trưa và bây giờ rõ rệt là người cán bộ trẻ tên Dũng đã mang trong người nỗi thương tâm về vợ con, day dứt đêm ngày.
Xe chạy khỏi quãng đường trống, đi vào giữa hai hàng sao cao vút. Trời tối sẫm. Khói đốt đồng và bụi mờ hòa lẫn bay lên như sương. Anh Mười Hợi cho xe dừng lại, thắp đèn treo lên ngang chỗ anh ngồi. Tôi bảo hai người.
- Qua khỏi hàng Sao thì tới lô-cốt thứ nhất.
Xe qua khỏi rặng cây, chúng tôi đã bắt đầu nhìn thấy đèn măng-sông ở lô-cốt cây Sao chiếu sáng. Lát sau, xe chúng tôi đến gần lô-cốt. Anh Mười nói:
- Anh em cứ bình tĩnh như thường. Nó hỏi gì cứ để tôi ứng đối với nó.
Liền đó, trên lô cốt vọng xuống một tiếng hỏi to:
- Xe ngựa của ai đó, phải của Mười Tân không?
Anh Mười nhanh nhảu đáp:
- Dạ, tôi ở bãi Sao về, thầy Năm.
- Chở khách nào đó?
- Dạ, mấy người bộ hiền ở bãi Sao đi thị trấn.
- ở trong bãi ra có thứ gì nhậu được không?
Tôi nghe thế, khẽ bảo anh Mười: - Vốc cho nó một ít tôm khô, tôi có đem đây.
Anh Mười vờ lắp bắp:
- Dạ... Không có gì... có một ít tôm khô, mấy thầy có dùng tôi để lại mấy thầy một ít.
Những tên lính trên lô-cốt reo lên. Một đứa bảo:
- Có tôm khô phải không. Hay lắm. Tôi thả cái bơ lon xuống anh đổ vô cho tụi tôi nghe!
- Dạ!
Kế thấy trên lô-cốt lủng lẳng thòng xuống một cái giỏ. Anh Mười xuống xe, bước lại bợ lấy cái giỏ. Tên ngụy ở trên lại nói:
- Đó, cái bơ đó. Có hai đồng bạc trong giỏ trả tiền tôm nữa đó.
- Dạ, có cái ống bơ mà không thấy hai đồng.
- Chết rồi... thôi, chắc tiền lọt rớt mất rồi.
Anh Mười nói:
- Thôi, tôi ủng hộ mấy thầy, khỏi tiền bạc cũng được mà.
Dứt lời anh Mười cầm lấy cái ống bơ đi lại xe. Tôi vốc tôm khô vào bơ. Đầy bơ rồi, anh Mười đem lại đặt vào giỏ. Tên ngụi tóm dây từ từ kéo cái giỏ lên. Sau khi xem thấy đúng là tôm khô rồi, một thằng trên lô-cốt bảo:
- Thôi, đi đi. Ê. Cảm ơn nghe già Mười!
- Dạ, ơn nghĩa gì, một chút tôm khô có đáng bao nhiêu đâu... Thôi, xin chào thầy Năm, thầy Bảy tôi đi.
- Được rồi, cứ đi đi già Mười!
Anh Mười Hợi trở lại leo lên xe. Anh lập tức vụt roi.
Con ngựa kéo xe phóng nhanh qua bót. Đi một đỗi, tất cả chúng tôi đều cười rộ. Đồng chí Trương cười lâu hơn hết. Anh nói:
- Tôi ở địch hậu đã lâu, mà chưa gặp lính ngụy nào như tụi ở đây. Thiệt lạ đời. Nè, không biết ai dạy tụi nó kiểu đòi tiền mãi lộ kỳ cục vậy kìa!
- Nó truyền bá cho nhau.
- "Cái này nó mới bày ra, không biết học được của bót nào, trước thì xuống chận xin tiền thôi chớ không có lối đó".
Dũng khều vai Mười Hợi:
- Anh Mười, khi nãy nó kêu anh là già Mười anh nghe không?
- Có nghe. ối, có phải thân mật gì với mình đâu. Hễ có ăn thì nó kêu già, kêu bồ. Già Mười, bồ Mười. Bữa nào tôi chạy xe không đặng khá, nó hỏi xin tôi cà nhầy thì nó kêu tôi là thằng ngựa ô. Tụi lính chết bầm hơi đâu mà nói.
Mọi người lại cười phá lên. Không khí trên xe dẫy đầy vui vẻ. Non nửa tiếng đồng hồ sau, xe ngựa tới lô cốt Đầu Cầu. Chuyện qua lô-cốt cũng xảy ra tương tự như thế. Lần này lính trong cốt đánh bài sát phạt nhau ầm ĩ. Khoảng tám giờ tối thì xe về tới Hiệp Mỹ.
Chúng tôi vào nhà anh Mười. Chị Mười Tân gặp tôi thì mừng quýnh. Chị bế con ra khoe với tôi. Thằng bé tuy lúc sanh gay go, nhưng bây giờ rất cứng cáp.
Đêm đó bố trí hai đồng chí Dũng, Trương xong, tôi ngủ lại. Tới khuya tôi thức dậy sửa soạn về. Chị Mười đã thức trước tôi, hì hục nấu cơm sớm cho tôi ăn. Cơm nước xong, tôi dặn anh Mười:
- Anh Mười, giờ tôi giao hai đồng chí đó cho anh. Anh nhớ cẩn thận, mấy ngày đầu đừng để họ đi đâu nghe. Cứ để họ ở dưới hầm. Anh nói chuyện lại cho chị Mười rõ với.
- Tôi đã dặn vợ tôi rồi!
- Thôi, tôi về. Có chuyện gì thì cho tôi hay nghe anh Mười.
- Dạ!
Tôi đội khăn lên đầu định đi. Chợt trong buồng Dũng trở dậy hỏi sẽ:
- Chị Hậu về đó à?
- Dạ, hai anh ở lại mạnh khỏe nghe!
- Chắc chắn là mạnh khỏe rồi. Chị về cho tôi nhắn với bác Bảy, Tết này chúng tôi sẽ về ăn Tết với bác. Tết về chắc bé Thủy lớn dữ rồi. Thôi, chị đi đi kẻo sáng.
Tôi chào Dũng quay ra cửa. Tôi cảm thấy kính mến hai đồng chí công tác. Nơi họ, tôi nhận ra sự quyết tâm, lòng thành thực và cả vết thương đau nhói day dứt tinh thần họ. Chuyến đi đường ngắn ngủi và phút từ giã ngắn ngủi đó làm tôi thấy nao nao.
="">
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
    !!!331_8.htm!!!ến tàu đêm
    !!!331_5.htm!!!!!!331_9.htm!!! Đã xem 20505 lần.


    Nguồn: Hùng
    Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
    vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

    Truyện Một chuyện chép ở bệnh viện ---~~~cungtacgia~~~---

    39 Tác phẩm