Dịch giả : Không rõ
13. Đại Tướng George Marshall

Quân nhân số một của quân đội Hoa Kỳ trong đại chiến vừa rồi là  đại tướng George C. Marshall, tổng tham mưu trưởng.
Con người quan trọng bậc nhất đó ra sao? Thưa bạn theo tướng J. Franklin Bell, cựu tham mưu trưởng, người cộng tác với ông ở Phi Luật Tân thì ông là thiên tài bậc nhất của Châu Mỹ về võ bị từ hồi Stonewall Jackson tới nay.
Được so sánh với Stonewall Jackson không phải là một vinh dự tầm thường đâu. Trong hồi nội chiến Jackson là nhân vật quan trọng được cả phương Nam sùng bái. Tổng thống Abraham Lincoln van vái Thượng đế cho ông một người chỉ huy quân đội phương Bắc có tài như Jackson. Trận mà Jackson điều khiển trong thung lũng Shenadoad ở Virginie hiện nay còn được đem ra dạy trong các trường võ bị châu Âu và  được coi là một trong những thắng trận rực rỡ nhất cổ kim.
Tướng Pershing, người cầm đầu quân đội Hoa Kỳ trong đại chiến thứ nhất, tuyên bố rằng tướng Marshall là sĩ quan có giá trị nhất của Hoa Kỳ năm 1918, giao cho Marshall chỉ huy những cuộc hành quân của đại đội thứ nhất, và lãnh nhiệm vụ đó, Marshall đã giải được một cách vẻ vang một vấn đề khó khăn nhất về chiến thuật:
"Tướng Pershing muốn dời đổi trên năm trăm ngàn người, ba ngàn đại bác, bốn chục ngàn tấn quân nhu và ba mươi bốn quân y viện từ Saint Michel tới Argonne. Điều đó là phải di chuyển một cách bí mật để tụi do thám và phi cơ địch khỏi biết. Mà tướng Marshall làm được. Trong hai tuần lễ ông cho quân đội đi băng đồng ban đ êm. Quân Đức không nghi ngờ gì cả cho tới khi nửa triệu quân Mỹ đục thủng mặt trận Meuse-Argonne giúp cho đồng minh chiến thắng. Thực hợp lời Abraham Lincoln đã nói trước kia:"Tất cả những hành quân đó đều nhờ thiên tài của mỗi một người".
Tướng Marshall chủ trương sự tôn trọng kỷ luật nhưng bài xích tính vênh váo tàn nhẫn của một số sĩ quan mọi thời.
Khi ông lên chức Tham mưu trưởng, ông làm một cuộc điều tra không tiền trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ. Ông gửi đi một bản kê một trăm mười tám câu hỏi cho ba ngàn lính, bảo họ cứ thành thật đáp, mà giấu tên.
Chẳng hạn:
- Anh có yêu sĩ quan của anh không?
- Nếu có thì anh cho biết tại sao?
- Nếu không thì cũng cho biết tại sao.
- Chúng tôi phải làm cách nào cho các anh thành những binh sĩ giỏi nhất?
- Chúng tôi phải làm cách nào cho quân đội thành một quân đội giỏi nhất?
Cách đó mới mẻ quá đến nổi một số người ngạc nhiên, còn một số khác chế nhạo, khinh bỉ. Nhưng kết quả mỹ mãn. Sự huấn luyện thành ra có tính nhân đạo hơn, và người ta khuyến khích quân lính có sáng kiến hơn. Phương pháp mới đó ảnh hưởng tới khắp các mặt trận.
Tôi chưa được hân hạnh nói chuyện với đại tướng Marshall nhưng đã tiếp chuyện phu nhân. Bà bảo cứ xét bề ngoài cũng thấy ông sanh ra để làm lính, hồi nhỏ còn bận quần cụt mà ông cũng bày trận để chơi, tập cho trẻ hàng xóm diễn binh, cưỡi trên một cây gậy làm ngựa và tấn công lẫn nhau.
Ông muốn vô trường võ bị West-Point nhưng không được vì thân phụ ông là một nggười theo phe dân chủ ở phương Nam, trong một lãnh địa Cộng hòa ở Pennsylvanie. Thành thử ông đ ành ghi tên vào trường võ bị Virginie ở Lexinton, tại đó ông được bạn bè kính mến nhất.
Ông có tinh thần thể thao, không chịu khai tên một người bạn đã muốn ăn hiếp ông, đã suýt làm ông mất mạng trong một cuộc ẩu đả. Thanh niên đó đâm ông bằng gươm, không cố ý làm ông bị thương nặng. Ông nhất định giấu tên người đó. Tất cả bạn bè ông đều tung nón bê rê lên trời, la lớn: "Hoan hô Marshall! Thằng tướng đó can trường! Nó biết chịu đựng!".
George Marshall đá banh rất tài, làm bạn học phải phục. Trong ba năm đầu, ông cho rằng không có đủ thời giờ chơi môn đó, nhưng đến năm cuối cùng, ông chỉ nghiên cứu thuật chơi trong vài tuần mà bỏ xa các bạn khác trong đội banh của trường.
Mặc dầu ông nhẹ cân, mà ông áp đảo tất cả đối phương và  được lựa vào hội tuyển của phương Nam, thật là một vinh dự lớn cho trường.
Bạn thử nghĩ như vậy có phải là một phép màu không vì mới cách đó mấy tuần, ông chưa hề đụng tới trái banh. Tôi cho rằng trọn lịch sử túc cầu, chưa ai làm được kỳ công như vậy.
Những kết quả của ông ở trường võ bị Virginie và tài chỉ huy của ông đưa ông lên chức đại úy, chức cao nhất dành cho sinh viên và cũng là danh vọng lớn nhất của trường.
Giữ chức tham mưu trưởng một đạo quân lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, đại tướng Marshall phải làm biết bao công việc, lãnh những trách nhiệm lớn lao mà hạng trung nhân tất phải qụy xuống, chứ không sao gánh nổi. Vậy mà ông không bao giờ có vẻ gấp rút lo âu. Tôi hỏi bà Marshall về bí quyết của ông. Bà kể bảy bí quyết nhờ nó ông làm việc nhiều không tưởng tượng được mà không mệt mỏi về thần kinh lẫn thể chất.
Bí quyết thứ nhất là không bao giờ đọc những bản phúc trình lôi thôi mà chỉ đọc những bản gọn gàng tóm tắt.
Bí quyết thứ nhì là ông tập đọc mau, tập trung hết tư tưởng vào một vấn đề mà quyết định mau lẹ. Khi ông ở sở ra, mà tối đó phải hội họp ông thường nằm nghỉ, đọc sách một chút rồi đứng dậy đi thay y phục chỉ trong bốn phút thôi, không hơn một phút.
Bí quyết thứ ba là khi ông đã quyết định một điều gì về quân sự rồi thì không phí thì giờ và tinh lực để đắn đo lý lẽ nữa mà chú ý vào sự thực hành quyết định đó.
Bí quyết thứ tư là ông biết rộng và sâu về những vấn đề quân sự. Vào trong phòng của ông, không bao giờ thấy những cây ghim đầu sơn màu cắm trên các bản đồ. Đại tướng thuộc lòng mỗi sư đoàn hiện ở đâu và có nhiệm vụ gì.
Bí quyết thứ năm: ông bắt đầu làm việc mỗi ngày rất sớm. Ông điểm tâm hồi bảy giờ để bảy giờ rưỡi đã có mặt ở phòng giấy. Có lần ông nói:
- Sau ba giờ chiều thì không một ai có một ý gì mới mẻ nữa.
Bí quyết thứ sáu: bữa trưa ông ngủ một giấc ngắn để lấy lại sức. Cũng như Winston Churchill, ông nằm dài ra, nghỉ ngơi trước khi mệt nhọc. Ông đi bộ về nhà ăn bữa trưa, thường dắt theo một sĩ quan vào hàng tá trở lên để vừa đi vừa bàn về chiến thuật. Ăn xong, ông lên tầng ba, nằm trên một chiếc ghế xích đu ở ngoài hành lang, ngủ năm phút rồi dậy, hoàn toàn tỉnh táo.
Sau cùng bí quyết thứ bảy: Ông làm việc có kết quả vì không bao giờ lo lắng. Bà Marshall bảo:
- Tôi sống chung với nhà tôi mười ba năm rồi, tôi đã thấy nhà tôi nhiều lần bận tâm về nhiều vấn đề, nhưng không khi nào lo lắng đến mất giấc ngủ.
Tôi hỏi bà, ông theo cách nào mà quên những nỗi lo lắng đi được thì bà  đáp rằng ông có thói quen buổi tối, công việc ở sở xong là không tiếp xúc gì với sở và bạn đồng sự nữa, và không khi nào đem việc sở về nhà làm đ êm.
Bà lại nói thêm rằng nhờ nhiều năm theo kỷ luật nhà binh, ông tập được tánh tự chủ. Ông biết rằng nếu lo lắng thì không làm việc được nữa, cho nên ông tự cấm ông lo lắng.
Đây là một thí dụ về đức tự chủ của ông: Xưa, ông hút mỗi ngày hai ba gói thuốc lá, bảy năm trước, thấy sức làm việc do đó giảm đi, ông quyết định thôi hút. Và ông chừa được liền, từ đó không mó tới một điếu thuốc nữa. Muốn thắng trận thì một tướng lãnh trước hết phải tự thắng mình đã.
Muốn quên lo lắng, đại tướng Marshall dùng thì giờ rảnh một cách tích cực hoặc hữu ích như bơi thuyền, cưỡi ngựa, đi coi hát bóng, nói chuyện với vợ. Ông vặn máy thâu thanh, bắt những bản nhạc êm đềm rồi nằm đọc sách ba giờ mỗi tối.
Tài xế của ông thường lại thư viện công cộng đem về mỗi lần độ hai chục cuốn mà viên quản thủ đã lựa sẵn cho ông trong loại sử ký, tiểu sử, thời sự. Ông đọc nhanh kinh hồn, một cuốn hai trăm trang nghiến ngấu trong ba giờ là hết.
Ông đọc khi nào buồn ngủ thì thôi, nửa đ êm, nếu thức giấc ông vặn đ èn lên đọc tiếp cho tới khi ngủ lại.
Hai danh nhân trong lịch sử đã có ảnh hưởng lớn nhất đến ông là Benjamin Franklin và Robert E. Lee. Ông đã đặc biệt nghiên cứu chiến thuật của Lee, người mà ông rất phục tư cách. Một cuốn sách nữa mà ông đọc đi đọc lại là cuốn tự thuật của Benjamin Franklin một tác phẩm cổ điển của văn học Hoa Kỳ.

Truyện 40 Gương Thành Công 1. Somerset Maugham 2. Glenn L. Martin 3. S. Parkes Cadman 4. Đại Tướng Montgomery 5. John D. Rockefeller 6. Albert Einstein 7. Upton Sinclair 8. Edward Bok 9. Evangeline Booth 10. Theodore Roosevelt 11. Đề Đốc C. W. Nimitz !!!4572_12.htm!!! Đã xem 932934 lần. --!!tach_noi_dung!!--

Dịch giả : Không rõ
12. Sinclair Lewis

--!!tach_noi_dung!!--
Tôi gặp Sinclair Lewis lần đầu cách đây cũng hơi lâu. Hồi đó, ông ấy, tôi và năm sáu người bạn nữa thường mướn một tàu nhỏ chạy máy ở Free Post (Long Island) rồi cho mở máy chạy xình xịch tới một nơi cách xa ít cây số để câu cá thu. Tôi phục ông ta sát đất vì ông ta không bao giờ say sóng. Hễ biển động, sóng nổi là tôi phải chui xuống khoang tàu liền, còn ông vẫn thản nhiên ngồi câu, trơ trơ như một người ngư phủ trên bức họa.
Bây giờ tôi cũng phục ông sát đất nữa, nhưng không phải vì tài ngồi câu cá khi biển động (tài đó, nay tôi cũng đã tập được rồi) mà vì tài ông tuôn lên giấy những truyện rất hay, thao thao bất tuyệt. Và nếu bạn không phục ông, thì xin bạn cứ thử đi!
Sinclair Lewis đã nhắm trúng đích lần đầu vào năm 1920. Trước năm đó, ông đã viết được sáu cuốn mà không gây được tiếng vang nào trên văn đàn. Tiểu thuyết thứ bảy của ông là Main Street tung ra đời như cơn giông. Các hội phụ nữ mạt sát nó, các nhà thuyết pháp tố cáo nó, các tờ báo chỉ trích nó. Nó gây một cuộc bút chiến thực sự ở Châu Mỹ, và những tiếng vang của nó truyền ra sáu ngàn cây số.
Tiểu thuyết đó làm cho ông thành một minh tinh bậc nhất trên văn đàn.
Và nhà phê bình bảo: "Cuốn đó hay thật, nhưng anh chàng láu cá đó không viết được cuốn thứ nhì như vậy đâu". Không viết được cuốn thứ nhì nữa?
Thật sự thì anh chàng trai trẻ ở Sank Centre, xứ Minnesota đó, từ hồi ấy đã "tung" ra nữa tá tiểu thuyết vào hạng bán chạy nhất. Nhưng tôi đã nói sai, ông không "tung" tiểu thuyết ra đâu. Ông cặm cụi viết nó, sửa đi sửa lại hoài.
Ông thảo một cái đại cương là sáu vạn tiếng, tức khoảng 250 trang giấy như trang này, cho cuốn Arrowsmith của ông nghĩa là mới có cái đại cương mà tiểu thuyết đó đã dài gấp rưỡi những tiểu thuyết trung bình rồi. Có lần ông bỏ ra mười hai tháng để viết một tiểu thuyết về tư bản và lao động, viết xong ông xé hết liệng vào sọt rác.
Ông viết truyện Main Street ba lần. Ông đã mất đúng mười bảy năm mới hoàn thành nó.
Một lần ông bảo tôi rằng nếu ông không viết văn thì ông sẽ dạy tiếng Hy Lạp hay khoa triết lý ở trường đại học Oxford, hoặc vô rừng sâu sống đời một bác tiều phu.
Ông thích mỗi năm sống sáu tháng ở Nữu Ước, và sáu tháng ở một nơi cô tịch trong dãy núi Vermont. Ông có một cái trại trồng cây đường, ông trồng rau lấy để ăn. Và chỉ khi nào ông cần hớt tóc thì ông mới ra chợ.
Tôi hỏi ông: "Được nổi danh như vậy, anh thích không?". Ông đáp:"Bực lắm, anh ơi". Ông bảo nếu phải đáp hết thảy những bức thư người ta gửi tới cho ông, thì không bao giờ còn có thể viết thêm được một cuốn nào nữa, chẳng những vậy, mà không còn cả thì giờ để ngủ. Cho nên ông liệng hầu hết những thư đó vào lò lửa rồi nhìn chúng cháy.
Ông ghét những kẻ đi "săn" chữ ký, ít khi đi ăn cơm khách, và lánh cả những tiệc trà của nhóm văn nhân.
Khi tôi gợi chuyện, hỏi ông về những chiến đấu đầu tiên của ông, ông nói:"Ôi, tôi não lòng khi nghe các ông nhà văn luôn luôn nói về những chiến đấu đầu tiên của mình. Cái tai hại của phần đông các ông ấy là không có dịp chiến đấu nhiều. Họ vào nghề có khó nhọc gì hơn các ông nha sĩ, nha y, luật sư trẻ tuổi đâu mà họ lại hay nói về quãng đời khó khăn họ đã trãi qua".
Tôi bèn nhắc lại cái hồi ông dậy sớm hai giờ trước bữa điểm tâm, xuống bếp đun nước pha cà phê rồi viết ngay ở trong bếp. Tôi nhắc cho ông rằng có lần ông đã phải đi vay ba chục đồng Anh kim, phải làm bếp lấy, luôn sáu tháng viết ngày viết đ êm, mà viết xong đem bán chỉ có nửa Anh kim. Nhưng ông bảo như vậy có khó nhọc gì đâu, chẳng qua ông chỉ học cái nghề của ông thôi, mà nghĩ lại, không có thời nào ông vui sướng bằng thời đó.
Tôi hỏi tác phẩm ông đã bán được bao nhiêu cuốn rồi, ông đáp không biết. Tôi xin được biết một số phỏng chừng. Ông đáp: "Thực tình, tôi không biết chút xíu gì việc đó".
Tôi hỏi cuốn Main Street đem cho ông được bao nhiêu tiền. Ông cũng chịu, không đáp được vì ông không bận tâm về vấn đề tiền bạc, nhờ một luật sư lo hết cho ông rồi, mà ông cũng chẳng cần biết kiếm được bao nhiêu tiền nữa.
Ông đã trải qua mọi cảnh ngộ. Thân phụ ông là một y sĩ ở miền quê Minnesota và khi đi mổ xẻ bệnh nhân, thường dắt ông theo để ông phụ lực, chụp thuốc mê giúp. Có lần ông làm việc trong chiếc tàu chở gia súc trên Đại Tây Dương, có lần ông xuống xứ Panama để tìm việc làm. Ông đã làm thơ cho trẻ em đọc, đã bán cốt truyện cho Jach London, đã giúp việc trong tòa soạn một tờ báo cho người điếc.
Tôi hỏi ông:
- Anh bị ba tờ báo mà anh giúp việc đầu tiên đuổi anh ra, phải không?
Ông đáp:
- Sai. Bốn tờ đã đuổi tôi ra, chứ không phải ba.
Một hôm, có người kêu điện thoại, gọi lơ lớ như người Thụy Điển cho ông hay rằng ông được phần thưởng Nobel về văn chương. Ông quen nhiều người Thụy Điển ở Minnesota, và tưởng có ông bạn tác quái nào, giả giọng lơ lớ để đùa cợt ông, và ông bắt đầu nói đùa lại.
Nhưng ít phút sau, ông chưng hửng ra khi biết rằng tin đó đúng, rằng quả thực ông đã được phần thưởng lớn nhất trên văn đàn thế giới!
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Vietshare
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 30 tháng 12 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!--