Lời dẫn
Trong kẽ hở của hiện thực và mục tiêu

Trung Quốc là một nước lớn nông nghiệp, trong 1,3 tỷ người có 900 triệu nông dân, thế nhưng lâu lắm rồi, tình trạng sinh tồn của nông dân ở nông thôn rốt cuộc ra sao, tuyệt đại đa số người thành thị không rõ. Chỉ mang máng nhớ rằng cuộc cải cách vĩ đại đã từng làm cả thế giới kinh ngạc xảy ra hồi cuối những năm 70 của thế kỷ trước là bắt đầu ở nông thôn, từ khi nông thôn thực hiện chế độ trách nhiệm khoán gắn sản lượng đến gia đình mà tiêu chí là “khoán lớn” đến nay, sản xuất nông nghiệp nhiều năm được mùa, đã nhanh chóng xuất hiện “bán lương thực khó” và mọc lên rất nhiều “hộ vạn nhân dân tệ [1] ”. Một thời gian, dường như nông dân Trung Quốc đã giầu lắm rồi. Thế nhưng sau đó không lâu, cùng với việc không ngừng đi sâu cải cách thành thị, chúng ta rất ít nghe thấy tin tức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc nữa. Thế rồi, sau đó phát hiện được, càng ngày càng có nhiều nông dân, vứt bỏ ruộng đất vốn từng được coi là sinh mệnh, rời xa việc nông quen thuộc và làng xóm thân yêu, cam chịu cảnh vắng vẻ, lăng nhục và kỳ thị để chen nhau vào thành thị các nơi, dấy lên “ngọn trào dân công” hết đợt này đến đợt khác của hàng triệu, hàng triệu nông dân Trung Quốc, trở thành một cảnh kỳ dị trong hơn mười năm cuối cùng của thế kỷ trước.
Những năm này để hết tâm sức vào việc viết báo cáo văn học, chúng tôi thường xuyên có cơ hội đi sâu vào nông thôn các nơi, đồng thời kết bạn được với không ít nông dân, thường nghe họ tán một số việc trong nông thôn. Chúng tôi phát hiện, bức tranh phong tục thôn quê vốn còn giữ lại trong ấn tượng chúng tôi, chẳng qua đều là bài ca chăn nuôi điền viên xa xôi mà hư ảo, hoặc là nói, là một loại hướng về của người thành thị đã quá quen với cuộc sống phù hoa đô thị với chốn thôn quê. Thế nhưng hiện thực sinh hoạt của nông thôn lại không như vậy, hoặc là nói, nông thôn trong con mắt của nông dân không phải như vậy, bọn họ chẳng có thú thanh nhàn như thế đâu, bọn họ sống rất mệt, rất nặng nề.
Một lần để tìm hiểu tình hình ô nhiễm sông Hoài, chúng tôi đã qua một thôn trang trong bình nguyên Hoài Bắc, tỉnh An Huy và phát hiện được nhiều nông hộ ở đây nhà trơ bốn vách, nghèo rớt mùng tơi, điều này làm chúng tôi cảm thấy kinh hãi. Có một gia đình, cả nhà chỉ có 5 NDT bán rau để ăn một cái tết, cuộc sống quẫn bách, thậm chí không bằng mấy năm vừa giải phóng. Có một vị nông dân xòe ngón tay ra tính sổ cho chúng tôi nghe, ông nói, tính tiền giống má, phân bón, tưới tiêu, cày bừa thu hoạch bằng máy và các loại thuế này phí kia, nếu sản lượng một ha lúa mì không đạt 6.750kg, thì năm đó coi như làm không công. Tuy vậy nông thôn Hoài Bắc có thể đạt được sản lượng một ha 6.750kg lúa mì, rõ ràng là không nhiều, thu được 6.000 là đã khá lắm rồi, nói chung chỉ đạt 4.500kg,
như vậy nghĩa là, nếu cuộc sống của nông dân hiện nay chỉ dựa vào làm ruộng thì khó mà tiếp tục được, thế nhưng bọn họ vẫn phải gánh vác các loại thuế, phí nhiều vô kể.
Nhiều nông dân ngậm nước mắt mà nói: “Những cái tốt mà “khoán lớn” để lại cho chúng tôi đủ từng tí, từng tí một bị móc sạch từ lâu rồi!”
Chúng tôi không thể ngờ là, nơi nghèo nhất của tỉnh An Huy lại là ở Giang Nam, lại ở thành phố Hoàng Sơn nổi tiếng trong thiên hạ, là xã Bạch Tế thuộc huyện Hưu Ninh, thành phố Hoàng Sơn, chưa có đường ô tô đi tới và chưa có điện thoại. Ở xứ này, chúng tôi kinh ngạc phát hiện, sản xuất nông nghiệp tại vùng núi lớn ấy vẫn còn dừng lại ở trạng thái nguyên thủy đốt rẫy gieo hạt, người nông dân vất vả suốt năm nhưng thu nhập trung bình chỉ được 700 NDT, thu nhập tháng chỉ có 58 NDT; nơi ở của nhiều nông dân vẫn là những ngôi nhà trát bùn thô, đen tối, ẩm ướt, nhỏ hẹp, cũ nát, có nhà thậm chí không lợp nổi ngói mà như dùng vỏ cây che mái. Bởi vì nghèo, nên một khi có bệnh, nhẹ thì cố chịu, nặng thì đợi chết. Sáu trăm hai mươi hộ trong cả xã, có tới năm trăm mười bốn hộ nghèo, chiếm 82,9%; trong hai ngàn một trăm tám mươi người trong xã, số người nghèo chiếm tới một ngàn bẩy trăm bẩy mươi người, đạt tới 81%. Thế nhưng một xã, trấn nghèo như vậy, mấy năm trước do cán bộ hương thôn thích khoe khoang, nên đã bị bên trên nhận định là đã thoát nghèo, bắt nộp sưu cao thuế nặng, ép buộc đến mức thôn dân thở không nổi; hơn nữa xã trưởng của xã này lại là một quan tham gõ xương hút tủy, mãi đến lúc trước khi chúng tôi tới mới bị pháp luật xử lý. Đồng thời với việc kinh ngạc thấy không có nơi nào là không có kẻ ăn hối lộ phá kỷ cương, chúng tôi còn cảm thấy tắc thở vì những nặng nề của câu chuyện.
Hôm rời Bạch Tế, chúng tôi cố tình chọn đường xuống núi về bên Chiết Giang, trên đường đi đã phát hiện, trấn Trung Châu, huyện Đồn An thuộc thành phố Hàng Châu “thiên đường” thực ra cũng chẳng phải là giàu có gì.
Mùa xuân năm 2000, Lý Xương Bình, bí thư đảng ủy xã Kỳ Bàn, huyện Giám Lợi, tỉnh Hồ Bắc, trong một bức thư gửi lên Quốc Vụ viện đã nói ba câu như thế này: “Nông dân thật khổ, nông thôn thật nghèo, nông nghiệp thật nguy hiểm”. Lời nói đó chí ít đã nói rõ, những cái mà chúng tôi tiếp xúc được ở nông thôn An Huy, ở nhiều địa phương khác cũng tồn tại như vậy. Lý Xương Bình dâng thư về vấn đề liên quan đến “tam nông” rõ ràng đã làm thủ tướng đại quốc xúc động, Chu Dung Cơ đã từng cảm động viết lời phê trả lời: “Nông dân thật khổ, nông thôn thật nghèo, nông nghiệp thật nguy hiểm” tuy không phải là tình hình toàn diện, nhưng vấn đề là ở chỗ chúng ta thường coi một số tình hình tốt là tình hình toàn diện, và lại còn tin một cách sai lầm vào “báo hỉ” của cơ sở, xem thường tính nghiêm trọng của vấn đề”.
Vì thế một vấn đề làm cho chúng ta, những người suốt đời sống ở thành phố nghĩ mãi mà vẫn không hiểu chủ nhiệm văn phòng nông nghiệp huyện xuống chỉ đạo công tác.
Thái Gia Đức giới thiệu: Cái tên “Nông Hưng” xem ra phấn chấn lòng người, nhưng lâu nay nó chẳng qua là một giấc mơ của nông dân. Toàn trấn có 2/5 diện tích là đồi núi, tất cả có 94 quả núi lớn nhỏ, điều kiện sản xuất nông nghiệp rất lạc hậu, cơ bản vẫn là ăn cơm trời. Hai mươi bốn thôn hành chính thì có một nửa số người, đất, gia súc thiếu nước, không điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp, có thể nói không có một ngày ngóc đầu lên được. Ban lãnh đạo trấn điều tra nghiên cứu nhiều lần, cuối cùng làm rõ tư duy phát triển, đó là:
“Thu hẹp lương thực mở rộng kinh doanh, thu hẹp loại thường mở rộng loại chất lượng cao, thu hẹp thuần chủng mở rộng giống lai; điều chỉnh ngành trồng trọt giống tốt, điều chỉnh ngành chăn nuôi, điều chỉnh ngành trồng cây ăn quả, xây dựng ngành chế biến”.
Lưu Đại Sơn hứng thú kể cho chúng tôi nghe người Nông Hưng ngày nay, được sự giúp đỡ của Văn phòng nông nghiệp huyện, họ làm thế nào “chơi” được “đủ mầu sắc” mà trước đây không dám nghĩ tới, làm nên đủ thứ “sản phẩm rừng”: rau tể rừng, rau quyết rừng, rau răng ngựa rừng, rau dền rừng, rau cử mại rừng, còn nuôi cả vịt rừng, thỏ rừng, gà rừng.
Chúng tôi đến thăm Dư Thành Yến, hộ chuyên ươm cây giống ở thôn Thượng Đường thị trấn Nông Hưng. Dư Thành Yến tuổi Dậu, sinh năm 1945, nay đã 57 tuổi. Đất nhận khoán của gia đình ông trên sườn núi, bởi vì quá nửa không có nước, trước đây vẫn trồng bông xen kẽ lạc và khoai sọ v.v… mỗi mẫu chỉ thu được vài ba trăm kg, cuộc sống rất khó khăn. Mấy năm trước, theo đề xướng của trấn, ông thận trọng dè dặt ươm trồng cây giống hoa, ban đầu chỉ “vơ bèo, gạt tép làm cò con”. Sau cải cách thuế phí, đảng bộ, chính quyền huyện chọn ra mấy xã, trấn Thượng Phái, Đào Hoa, Sơn Nam và Cây Thị, trong đó có Nông Hưng tập trung phát triển ươm cây cảnh, thành phố còn mời chuyên gia, giáo sư trường đại học nông nghiệp bồi dưỡng miễn phí cho họ. Dư Thành Yến động lòng, dứt khoát đem toàn bộ đất khoán ươm cây cảnh. Kết quả, năm đầu bỡ ngỡ, năm sau thành thạo, anh nông dân chính cống nửa đời người trồng bông, lạc và khoai sọ này hiện nay đã trở thành “người tài ươm cây giống” nổi tiếng gần xa. Ông chỉ rừng cây xanh mượt, phủ kín sườn đồi, nói một cách tự hào: “Kia là một vạn năm nghìn cây long não, trên thị trường rất đắt khách, trồng một cây long não như thế này không có lấy một con ruồi, muỗi; một cây hơn 20 NDT, một vạn năm nghìn cây bán ba bốn mươi vạn không thành vấn đề. Cạnh long não là cây nhựa ruồi, cũng không dưới 2.000 cây”. Ông quay người chỉ về bãi đất rặt một màu tươi rói dưới ánh mặt trời, nói “Kia toàn là tử vi đỏ, 5.000 cây; bên cạnh là ô bá cũng 3.000 cây. Tôi bây giờ kinh doanh hơn 10 mẫu, người khác bỏ đất, bỏ sức, tôi bỏ tiền, bỏ kỹ thuật, nói theo lời của người thành phố, cái “bánh ga tô” của tôi càng ngày càng to, thực ra trong toàn huyện, tôi vẫn chưa được gọi là lớn nhất”.
Khi ông dẫn chúng tôi đi tham quan xung quanh, chiếc máy điện thoại di động trên thắt lưng ông luôn luôn reo lên, không phải để học hỏi kinh nghiệm của ông mà là liên hệ nghiệp vụ, dáng vẻ ung dung tự đắc.
Giá lương thực ngày càng xuống thấp, ngày nay trồng lương thực không thể nào làm cho nông dân trở nên giàu có, nông dân khát khao điều chỉnh cơ cấu cây trồng là điều rất bức thiết, nhưng họ bị rất nhiều nhân tố ràng buộc, không biết thế giới bên ngoài, càng không thể nào hiểu được nhu cầu của thị trường, đại đa số nông dân vẫn không nghĩ được kế gì hơn, điều đó cần một lớp đi đầu, dẫn dắt lớp nông dân xung quanh kịp thời điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp; cũng chính nhờ tốp “người tài ba” vừa có đầu óc kinh tế thị trường, vừa biết làm ruộng khoa học, nhiều vùng mới xuất hiện cục diện sinh động “bát tiên quá hải, trổ hết thần thông”.
Nếu không nhìn thấy tận mắt, chúng tôi đều rất khó tin sự thật như thế này: Ngô Chính Thương, một người trồng cây ở thôn Thần Linh xã Thanh Bình huyện Phì Tây, từ quả nhân sâm lấy ở Sở thực vật Viện khoa học Trung Quốc về trồng, sản lượng mỗi mẫu lại có thể sáng tạo kỷ lục xưa nay chưa từng có - 16 vạn NDT.
Ngô Chính Thương khác với những thanh niên nông thôn bình thường, thích động não, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông về nông thôn, bắt đầu thử trồng nho, sau đó đi xuống Thâm Quyến miền Nam làm công, thời gian rỗi việc, anh đi đây đó khảo sát nông nghiệp có thể làm giàu được không, anh còn đi Hồng Công một chuyến bằng tiền mồ hôi nước mắt vất vả dành dụm của mình để tìm hiểu tình hình thị trường. Sau khi trở lại quê nhà, anh hơn người khác một cái đầu kinh doanh, anh thấy ngày nay làm ruộng theo kiểu bảo thủ như ông cha ta ngày xưa, giỏi lắm cũng chỉ đủ no ấm, muốn lên khá giả thì phải làm ruộng khoa học, đi sâu nghiên cứu các môn học vấn kinh tế thị trường, và nhắm trúng quả nhân sâm.
Cái quả gọi là quả nhân sâm này, cỡ như quả lê, trong lòng trắng có màu tím, nhìn bề ngoài rất giống quả tim con người, vốn sản xuất ở Nam Mỹ. Anh nhập quả nhân sâm này, một lúc trồng hơn hai mẫu. Sau khi thu hoạch quả về, anh không vội xử lý mà đem cất nó trong nhà lạnh, chọn mấy quả gửi đến Viện khoa học sự sống trường đại học An Huy kiểm nghiệm, kết quả kiểm nghiệm làm anh mừng vui ra mặt, thì ra cái quả này không chỉ nhìn bề ngoài hấp dẫn lại còn chứa rất nhiều loại vitamine, có thể tăng sức miễn dịch của con người, thậm chí có tác dụng chống ung thư. Vì thế anh đặt cho quả nhân sâm này cái tên “quả tiên trần gian”, nhờ người thiết kế một hộp bao bì Tôn đại thánh tay bê quả nhân sâm, và trong hộp lót một khăn mu-soa hoặc miếng vải tơ tằm, thế là gắn quả nhân sâm của anh với câu chuyện Tôn Ngộ Không ăn trộm quả nhân sâm trong hồi thứ 24 “Tây Du Ký”, làm cho sản phẩm này “hàng hiếm giá cao”. Sau đó anh gửi quả nhân sâm đến “Hội chợ triển lãm” ở Thâm Quyến, một ông chủ xịn ở Hồng Công mua với giá 200 NDT một kg, làm cho quả nhân sâm này càng nổi tiếng. Chờ làm xong những việc trên đây, Ngô Chính Thương mới đến thị trường nhân tài đã tính sẵn trong bụng từ lâu, mời mấy sinh viên biết kinh dđã đột ngột hiện ra: những thay đổi to lớn của Trung Quốc hiện nay, những biến đổi lớn khiến ai cũng thấy xảy ra hơn hai mươi năm trước mà người được hưởng lợi là trăm triệu nông dân dẫn đầu phong khí cải cách Trung Quốc, sao bây giờ lại luân lạc vào hoàn cảnh khó khăn đến thế này?
Không thể phủ nhận, ngày nay chúng ta đã bước vào một thời đại mới chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc, thế mà, đối với nông dân tầng lớp dưới, đặc biệt là sự lãng quên trạng thái sinh tồn của 900 triệu nông dân, lại là một sự kiện mà một số người trong thời đại chúng ta bây giờ thực hiện triệt để nhất.
Vì thế có thể nhận định thế này, cái mà chúng ta đối mặt, quyết không chỉ là vấn đề nông nghiệp đơn thuần, hoặc là vấn đề kinh tế đơn giản mà là vấn đề xã hội lớn nhất mà đảng cầm quyền phải đối mặt trong thời kỳ mới. Đúng là chúng ta không lý do để ở tại những thành phố đang biến đổi từng ngày hiện nay mà quên đi nông thôn rộng lớn; không có sự giàu có đầy đủ thực sự của 900 triệu nông dân anh em, mọi con số thống kê kinh tế lạc quan đều mất hết ý nghĩa!
Dwight Perkins, nhà kinh tế học trường đại học Harvard - Mỹ, đã nói một câu, đến nay vẫn đáng để chúng ta suy ngẫm: “Đối với những nhà cải cách tương lai mà nói, những kinh nghiệm chính trị Trung Quốc đã trải qua rất dễ thấy, nhưng lại thường bị lãng quên - trong tiến trình cải cách phải có người được hưởng lợi ích rõ ràng”. Hồi mới cải cách ở thế kỷ trước, người được hưởng lợi ngoài nông dân “làm khoán lớn” ra, còn có hộ công thương cá thể và những người khai hoang ở Thâm Quyến. Thế nhưng khi trọng tâm cải cách chuyển vào thành phố, những người hưởng lợi đã là tầng lớp nhà doanh nghiệp mới trỗi dậy, những quan chức chính quyền thông qua những “hoạt động” mà giàu lên nhanh chóng và tầng lớp người miễn cưỡng được gọi là tầng lớp trung lưu thành phố, còn 900 triệu nông dân - với tư cách là nhóm người lớn nhất của xã hội chúng ta, không những không là người được hưởng lợi, mà còn tăng sản lượng không tăng thu nhập, một số nơi còn xuất hiện cục diện “nay không bằng xưa”.
Chúng ta thường kiêu ngạo tuyên bố, chỉ với 7% diện tích trồng trọt của thế giới đã nuôi sống 21% dân số thế giới. Nông dân chúng ta đã cung cấp lương thực đầy đủ cho 1.300 triệu người, điều này không thể không là một công hiến vĩ đại có tính thế giới, thế nhưng chúng ta lại thường rất ít khi nghĩ đến, nông dân của chúng ta chiếm 40% nông dân thế giới mới nuôi nổi 20% dân số thế giới. Con số đó chỉ có thể thuyết minh, nông nghiệp nước ta hiện nay còn tương đối lạc hậu, đời sống của tuyệt đại đa số nông dân còn rất thấp.
Liên Hiệp Quốc đã phát biểu “Báo cáo phát triển của nhân loại”, báo cáo này đã căn cứ vào chỉ số phát triển cao thấp của 162 quốc gia và vùng lãnh thổ để sắp xếp thứ tự, Trung Quốc được xếp thứ 81. Con số thứ tự này rất đáng để người ta ủ rũ. Trải qua cải cách thành công hơn hai mươi năm, tổng giá trị sản phẩm quốc dân của Trung Quốc đã được nâng cao với mức độ lớn, đồng thời với sự lớn mạnh vượt bậc ấy, vào lúc đã sáng tạo được những kỳ tích về tăng trưởng kinh tế của thế giới hiện nay; ông Klein, người được giải Nobel về kinh tế đã coi trọng vấn đề nông nghiệp của nước ta, đã từng nói với những người Trung Quốc đến phỏng vấn: kinh tế Trung Quốc có hai vấn đề: một là nông nghiệp, hai là dân số; Dương Chấn Ninh, người được giải Nobel về vật lý, cũng đã nói một câu giống như vậy: sự việc khó khăn nhất của Trung Quốc hiện nay là thu nhập quốc dân bình quân đầu người quá thấp.
Một sự thực không cần tranh cãi là, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân của Trung Quốc đã trở thành nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự nghiệp phát triển hiện đại hóa của nước ta, nó quan hệ tới số phận của cả đất nước chúng ta, quan hệ tới việc liệu chúng ta có thể duy trì được trình độ hiện đại hóa hiện có của chúng ta hay không, mà thành quả cải cách chúng thông qua hơn hai mươi năm nỗ lực phấn đấu không dễ gì mới sáng tạo được có khả năng bị mất đi một sớm một chiều.
Với tư cách là nhà văn viết báo cáo văn học, bài viết của chúng tôi phải từng giờ từng phút đối thoại với cuộc sống hiện thực. Đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng như vậy, nhà văn không nên vắng chỗ. Vì thế, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 2000, chúng tôi xuất phát từ Hợp Phì, theo kiểu cuốn chiếu đi khắp vùng nông thôn rộng lớn hơn 50 huyện, thị thuộc tỉnh An Huy, sau đó đã cố gắng gặp gỡ phỏng vấn một loạt lớn chuyên gia và nhân vật chính trị quan trọng có nghiên cứu và có thực tiễn về công tác “tam nông” từ trung ương đến địa phương, làm một cuộc điều tra gian khổ dài tới hai năm.
Chúng tôi không bao giờ nghi ngờ, bộ mặt nông thôn tỉnh An Huy có tính đại biểu giàu có nhất trong mười hai tỉnh nông nghiệp lớn của cả nước; nếu nói về cải cách nông thôn, thì trong các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc của cả nước, An Huy càng có ý nghĩa điển hình. Bởi vì được gọi ba cuộc cải cách lớn của Trung Quốc mới; cải cách ruộng đất, “khoán lớn” và cải cách thuế, phí nông thôn thì hai cái sau đều bắt nguồn ở An Huy. Chu Dung Cơ không chỉ đã từng một lần nói rằng: “Trong vấn đề nông nghiệp, khi Trung Quốc muốn đưa ra quyết sách trọng đại đối với nông nghiệp, tôi thường đến An Huy điều tra nghiên cứu. Có thể nói, nhiều kinh nghiệm thành công của chúng ta đều đến từ An Huy, An Huy đã có cống hiến rất lớn cho nông nghiệp của Trung Quốc”. Ôn Gia Bảo cũng nói từ lâu là: “Có vụ việc liên quan đến vấn đề chính sách nông thôn, tôi liền nghĩ đến việc tới An Huy nghe ý kiến mọi người, bởi vì ở đây có nhiều đồng chí quen thuộc tình hình lại dám phát biểu ý kiến. Mỗi lần tôi đến đều rất có thu hoạch”. Vì vậy, chúng tôi đi vào nông thôn rộng lớn của An Huy, thực ra cũng là tiếp cận nông dân Trung Quốc.
Chúng tôi vốn là thế hệ sau của nông dân, hơn nữa đều đã trải qua những năm tháng tuổi thơ trong trắng ở nông thôn, hôm nay, khi chúng tôi bôn ba qua những đồng ruộng đã biến thành xa lạ, chúng tôi vẫn nghĩ là trở về với vòng tay mẹ, nỗi xúc động trong lòng n đây Trung Quốc bắt đầu cơn sốt du lịch, anh nảy ra ý nghĩ lạ lùng, phải xây dựng một công viên nông dân lớn nhất Trung Quốc ở vùng đất đầm lầy hồ ao này, lấy phát triển ngành du lịch thúc đẩy một loạt ngành sản xuất có liên quan ăn uống, vận tải và dịch vụ v.v... phát triển để kiếm tiền của người thành phố. Anh không chỉ dám nghĩ, mà còn dám làm. Anh đích thân chạy lên huyện, thành phố vay tiền, còn tổ chức một đội thi công giỏi tay nghề, trước hết đắp một con đê quanh hồ, trồng cây liễu rủ, xây lên một thôn nghỉ ngơi xinh đẹp, sau đó theo tư liệu tranh ảnh thu thập được, bên cạnh hồ nước xây nên tòa nhà trắng của Mỹ, cối xay gió Hà Lan, khải hoàn môn nước Pháp, nhà thờ nông thôn Đức, miếu thờ thần Dớt Hy Lạp, tất nhiên vẫn có Trường Thành, Bạch tháp ở công viên Bắc Hải và đường hành lang trong Di Hòa viên Trung Quốc.
Có một ngôi làng nghỉ ngơi đầy thú vui hoang dã, còn trang điểm sáng tạo độc đáo phong cảnh các nơi trên thế giới, ngày nghỉ người thành phố đến tham quan đông nghịt.
Có thu nhập du lịch tăng lên từng ngày, Trương Gia Vượng quyết tâm lớn hơn, sau đó anh lại tiếp tục xây một vườn động vật và một bể bơi lớn bên hồ ba vạn mét vuông, lần lượt đặt thêm rất nhiều thiết bị vui chơi giải trí cao cấp đồng bộ như bánh xe chọc trời, tàu hải tặc và cả ghế bay hào hoa v.v... mà nhiều thành phố lớn cũng rất ít được nhìn thấy. Cứ như vậy, theo vật đổi sao dời, “Khu phong cảnh Bát Lý Hà” làm người ta khó tin xuất hiện lộng lẫy bên bờ sông Hoài và vinh dự được mang tên “500 môi trường toàn cầu tốt nhất” cho Liên Hợp Quốc công nhận.
Đầm lầy nước đọng hoang dã ngày xưa, ngày nay đã trở thành “phong thủy bảo địa” giàu nhất một vùng. Nông dân Bát Lý Hà đời đời làm ruộng, nhờ thay “trồng” “phong cảnh điền viên hiện đại hóa” đã bước lên đời sống khá giả.
Huyện Kim Trại khu Biệt Đại Sơn là “huyện tướng quân” có tiếng, lại là huyện nghèo nổi tiếng, hai năm nay họ ra sức phát triển dâu tằm và hạt dẻ, nông dân vùng căn cứ cũ bắt đầu đi lên đường thoát nghèo; nông dân huyện Đương Đồ lợi dụng ruộng lúa, đầm nước nuôi cua, quy mô từng năm mở rộng, dần dần đi đến kết quả; ba huyện Oa Dương, Mông Thành và Lợi Tân nhờ hô hào phát triển sự nghiệp nuôi bò đã trở thành “tam giác vàng nuôi bò” nổi tiếng của nước ta; thành phố Hào Châu, quê hương của thần y Hoa Đà chịu khó kinh doanh cây thuốc, càng nổi tiếng trong và ngoài nước...
Cũng có những người trồng lúa giống trở thành “triệu phú”. Ở thôn hậu Trần xã Hoàng Loan huyện Phụng Dương, chúng tôi đã gặp Trần Hưng Hán được Vương Quang Vũ, cựu Bí thư tỉnh ủy gọi là “Trần triệu phú”. Trần Hưng Hán cho rằng, làm nông dân thì phải biết làm ruộng, không biết làm nông thì sao gọi là nông dân được? Hiện nay anh đã nhận khoán 1.200 mẫu đất canh tác của nông dân lân cận bên bờ sông Hoài của Hoàng Lan, để thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, anh lần lượt mua máy cày, máy gieo hạt, máy gặt đập liên hợp, máy kéo công suất lớn, và cả “xe bốn bánh” và ô tô nông cụ. Anh còn đắp đê làm kè xây dựng trạm bơm nước, bảo đảm hai vụ hè thu hạn úng đều thu hoạch tốt. Năm tốt nhất, anh thu được 625 tấn thóc, 340 tấn lúa mì, được đảng bộ, chính quyền thành phố Từ Châu tặng danh hiệu “Trạng nguyên trồng lương thực”.
“Ai bảo trồng lương thực không thể làm giàu?”
Trần Hưng Hán tự hào chỉ lên tầng hai của nhà anh nói, “Trồng lương thực không chỉ có một mình tôi giàu, bà con phụ lão của cả vùng này cũng đều giàu. Tầng hai này của tôi đã tiếp khách của hai mươi tám nước đến thăm Trung Quốc. Thủ tướng Chu Dung Cơ cũng đã làm khách ở đây!”
Anh quả là rất điển hình. Vì xuất thân nghèo khổ, sáu tuổi bắt đầu đi ăn xin cho đến năm 1949 mới được giải phóng vươn mình. Nhưng từ sau khi giữ chức Chủ nhiệm hợp tác xã cao cấp, hơn 20 năm nay anh bị bốn lần khai trừ ra khỏi đảng: năm 1957, anh bắt đầu khai hoang trồng cải, đúng lúc đang chống phái “hữu”, mặc dù cải trồng ra đều bán cho mọi người ăn, cấp trên lại nói anh “làm chủ nghĩa tư bản”, bị khai trừ ra khỏi đảng; năm 1960, anh hướng dẫn mọi người đan sọt, dệt chiếu để giúp mọi người vượt qua nạn đói, xã lại trị anh “đầu cơ trục lợi”, lại khai trừ đảng vừa mới phục hồi; năm 1973 vì mấy câu “nói xấu” công xã nhân dân “một lớn hai chung”, ngoài khai trừ đảng, còn bị ngồi nhà lao một năm ba tháng; năm 1980, mọi người đều đang thực hiện “khoán lớn”, anh cho rằng lúc này có thể ra tay làm ăn lớn, yên tâm mạnh dạn vận động bốn huyện Huyện Tứ, Tứ Hồng, Ngũ Hà, Phụng Dương xung quanh tổ chức cho dân công bốn huyện hai tỉnh An Huy và Giang Tô đan dệt, không ngờ, một lần nữa xúc phạm chính sách lúc bấy giờ - vì Mác đã nói, thuê quá tám nhân công tức là tư bản - anh ta lại nghiễm nhiên thuê trên 200 nhân công! Xã thấy vấn đề của anh quá nghiêm trọng, lại một lần nữa khai trừ khỏi đảng.
Bà con trong xã nói đùa với Trần Hưng Hán: “Đặng Tiểu Bình không quá ba lần lên ba lần xuống, nhưng anh bốn lần chìm bốn lần nổi!”
Trần Hưng Hán chỉ cười hóm hỉnh. Cuộc đời dù lắm gian truân, nhưng lòng say mê của anh không thay đổi. Khi anh được sửa sai hoàn toàn, phục hồi lại đảng tịch, trở về cương vị Bí thư chi bộ đảng thôn Hậu Trần lần nữa, lại xả thân dắt dẫn mọi người đi lên con đường làm giàu.
Ngày 11 tháng 3 năm 2001, vào một buổi sáng ánh nắng chói chang, chúng tôi vào thôn Hậu Trần. Lúc này anh không chỉ nhận khoán đất canh tác mênh mông, mà còn xây dựng một nhà máy chế biến lương thực, sản lượng mỗi ngày 50 tấn gạo tinh và một xưởng làm gạch mỗi năm sản xuất 1,5 triệu viên gạch. Đồng thời đang lên kế hoạch nuôi 1.000 con bò, 1.000 con dê và 10 vạn con gia cầm.
Bò nhiều, dê nhiều, gia cầm nhiều, làm ruộng không lo thiếu phân; lương thực từ ruộng lúa thu về tự mình có thể chế biến, sản xuất nông nghiệp đi vào tuần hoàn lành tính, vì thế cuộc sống của người làm nông tốt đẹp lên.
Nghe “Trần triệu phú” bốn lần mất đảng tịch kể chuyện của chính anh, chúng tôi như nghe một bộ sử phấn đấu khiến người ta xiết bao cảm động của nông dân Trung Quốc hơn 50 năm qua.
Rõ ràng là, từ trên con người “Trần triệu phú”, anh hùng lao động toàn quốc, chúng tôi đã nhìn thấy chính sách làm giàu cho dân của đảng ngày nay đã đi sâu vào lòng người, lại rất được lòng người tất nhiên, không giấu giếm gì, nông thôn rộng lớn An Huy hiện nay tuy đã tiến hành thí điểm cải cách thuế phí, nhưng vẫn như nông thôn rộng lớn Trung Quốc, nhân tố giảm thu vẫn quá nhiều, còn nhân tố tăng thu quá ít, biện pháp tăng thu trông thấy trước mắt đã thiếu và càng thiếu, kinh tế thị trường vẫn còn rất xa lạ với rất nhiều, rất nhiều nông dân, đồng thời còn có quá nhiều “cạm bẫy”. Những điển hình như Ngô Chính Thương trồng quả nhân sâm, Dư Thành Yến hộ chuyên ươm cây giống và Trần Hưng Hán trạng nguyên sản xuất lương thực vẫn chỉ là số ít; ngay cả những người như Ngô Chính Thương, Dư Thành Yến và Trần Hưng Hán một con số chưa nhiều, đứng trước tình hình thị trường thiên biến vạn hóa cũng không thể là “tướng quân luôn luôn thắng trận”. Hiện nay, một số chính quyền địa phương khá tỉnh táo, đã bắt đầu nhận thức được điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp là một quá trình diễn biến lâu dài. Nông thôn rộng lớn từ sản lượng cao chuyển sang hiệu quả cao, không những cần có sự ủng hộ của môi trường khách quan và chính sách vĩ mô, mà càng cần có sự phối hợp về mọi phương diện. Phải nói rằng, đứng ở góc độ một huyện một xã, cho đến một thành phố, một tỉnh để nhìn, điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp lần này trong thời gian ngắn có thể tăng thêm thu nhập cho nông dân, nhưng xét trên phạm vi toàn quốc, có lẽ không hẳn là chính sách giải quyết triệt để. Đạo lý ở đây về mặt kinh tế học gọi là “sai lầm tổng hợp”, tức là “lý tính cá nhân dẫn đến phí lý tính tập thể”, có lẽ nói theo lời của nhân dân thì rõ ràng hơn: anh chỉnh, tôi chỉnh, anh ấy chỉnh, chỉnh đi chỉnh lại, sản phẩm của mọi người đều không bán được. Bởi vì dưới gầm trời này, thể chế giống nhau, môi trường sống giống nhau, kinh tế nông thôn giữa các khu vực khác nhau dù cho có khác biệt và ưu thế của riêng mình, nhưng làm thế nào có thể thoát khỏi cảnh ngộ của “xu hướng giống nhau” này. Nói cho cùng, lần điều chỉnh này vẫn dừng lại trên mảnh đất cũ, dừng lại trên con đường làm giàu lấy nông làm gốc. Hơn nữa, giá trị sản xuất đơn vị của sức lao động nông nghiệp bị tài nguyên ruộng đất cực kỳ có hạn hạn chế, và điều có thể khẳng định là theo đà năng suất lao động thành phố không ngừng nâng cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn vẫn tiếp tục mở rộng, cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp có điều chỉnh như thế nào, sản lượng đơn vị của nó cũng rất có hạn, sự thật cơ bản dân số nông nghiệp chiếm đại đa số trong tổng dân số vẫn không có gì thay đổi, tổng giá trị sản xuất mà nó làm ra chiếm tỷ lệ trong nền kinh tế quốc dân trên tổng thể vẫn ngày càng thấp, trong tình hình đó, mong muốn nông dân giàu có, sung túc nhờ điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp hoàn toàn là điều không thể được. Huống hồ, do khống chế chính sách có tính cưỡng chế của nhà nước, tước đoạt có tính thị trường và hạn chế mang tính kỹ thuật, nông nghiệp của chúng ta đã không phải là một loại sản nghiệp. Kinh tế nông nghiệp hiện nay chẳng qua là thể hiện một bố cục “hàng tăng tiền giảm” (nông sản phẩm đang tăng lên nhưng nông nghiệp, lại giảm bớt thu nhập có tính tổng thể).
Vì vậy, nếu nói điều chỉnh cơ cấu, cái cần điều chỉnh không phải là cơ cấu của nội bộ nông nghiệp, nó còn nên bao gồm xây dựng thành phố thị trấn, giáo dục bắt buộc, xí nghiệp hương, trấn, sản nghiệp phi nông nghiệp, cơ cấu lực lượng lao động, nguồn vốn, tiền tệ và phương thức kinh doanh v.v... đặc biệt là, cần giải quyết về căn bản cục diện bất công thành thị và nông thôn ngăn cách, đối lập, chia rẽ lâu nay. Trung Quốc cần tiến hành một cuộc cách mạng chế độ, giải phóng nông dân, di chuyển nông dân, giảm bớt nông dân, để cho càng nhiều nông dân Trung Quốc nhìn thấy được hy vọng vào thành phố, và cuối cùng để cho họ từ giã làng quê bưng bít ăn đời ở kiếp của họ, để họ hòa vào trong dòng lũ đô thị hóa.
Con đường phía trước còn rất dài, rất dài.
55. Đằng sau sự huy hoàng và giàu có
An Huy là một tỉnh lớn nông nghiệp, cũng là tỉnh lớn tài nguyên lực lượng lao động. Năm 2000, Trung ương bố trí tỉnh An Huy bắt đầu thí điểm cải cách thuế phí nông thôn, lực lượng lao động dư thừa trong nông thôn toàn tỉnh trên 10 triệu người, chiếm 40% tổng số lực lượng lao động nông thôn. Có thể khẳng định cùng với việc mở rộng mức độ điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông thôn, tỷ lệ này sẽ mở rộng thêm.
Làm thế nào để khai thác tài nguyên lực lượng lao động nông thôn, xúc tiến chuyển dịch lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn, không chỉ có ý nghĩa xứng đáng trong vấn đề giảm nhẹ đóng góp của nông dân, mà càng là vấn đề lớn có tính chiến lược thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp, liên quan đến hiện đại hóa Trung Quốc. Bởi vì, tiến trình hiện đại hóa của Trung Quốc không thể vứt bỏ nông dân; không có hiện đại hóa của nông dân thì không có hiện đại hóa của Trung Quốc.
Làm ruộng đã xuất hiện thua lỗ có tính kinh doanh, đóng góp của nông dân lại làm cho hiệu quả làm nông xuống thấp thêm, mô thức làm ruộng manh mún của một nông hộ đang mất đi sức hấp dẫn đối với nông dân; khoảng cách quá lớn giữa thành thị và nông thôn càng làm cho rất nhiều nông dân coi mảnh đất sinh sống bao đời của họ là một “gánh nặng”, vì thế một đại quân nông dân số lượng kinh người, rầm rập bỏ cửa bỏ nhà, phá vỡ các bức tường đồng vách sắt do con người dựng nên, đổ vào thành phố.
Đi vào thành phố, nhưng tuyệt đại đa số người trong họ lại chỉ có thể sống gửi dưới mái che của thành phố. “Bảo hiểm thu nhập thấp”, “bảo hiểm y tế”, trợ cấp nhà ở của thành phố và mạng lưới ấm áp tình người của các loại phúc lợi xã hội vẫn để họ đứng ngoài.
Chế độ hộ khẩu không thể vượt được, đã định trước họ chỉ có thể trở thành “con chim di cư” của thành phố.
Một thống kê của Cục Thống kê nhà nước cho thấy, nhân khẩu l
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---