Nguyễn Văn Của phỏng dịch
Chương 16
Tàu Duncan xuất hiện

Một tảng đá đơn độc dài ba mươi bộ, bề ngang chừng mười lăm bộ, chỉ hơi nhú khỏi mặt nước mười bộ – đấy là những gì còn lại của hòn đảo đã bị đại dương nuốt chửng – mảnh vụn duy nhất của dãy núi đã tàng ẩn trong mình Lâu đài Đá hoa cương… Cả đảo Lincoln chỉ còn nguyên vẹn một tảng đá hẹp mà giờ đây được dùng làm nơi nương tựa cho sáu người ngụ cư và con chó Top của họ.
Trong thảm hoạ vừa qua tất cả thú vật bốn chân, chim chóc và các loài động vật khác trên đảo đều bị thiêu thành tro – số thì bị đè bẹp, số khác thì bị chết đuối. Than ôi, cả chú Jup bất hạnh cũng không thoát, có lẽ nó bị ngã xuống một khe nứt trên mặt đất!
Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Harbert, Pencroff, Nab và Ayrton còn sống được chỉ là họ đang ngồi với nhau trong lều thì bị một làn sóng không khí hất họ rơi xuống biển đúng lúc tứ phía bị những mảnh vỡ củ đảo rơi xuống như mưa. Khi họ ngoi được lên mặt nước cách bờ nửa cabeltov và nhìn quanh thì chỉ thấy có một tảng đá này và bơi đến, leo lên.
Họ đã sống trên tảng đá trần trụi ấy chín ngày rồi! Một chút lương thực nào đấy được lấy từ kho của Lâu đài Đá hoa cương ngay trước lúc xảy ra thảm hoạ, một ít nước mưa đọng lại trong trũng đá – đấy là tất cả những gì mà những người bất hạnh có được. Con tàu của họ, niềm hi vọng cuối cùng của họ, đã bị vỡ tan tành. Họ bị mất hết khả năng thoát khỏi tảng đá này. Họ bị lạnh và giờ đây không thể kiếm được lửa nữa. Số phận đã định sẵn cho họ cái chết.
Đến ngày thứ chín, 18 tháng ba, lương thực chỉ còn cho hai ngày, mặc dù họ đã cắt bớt khẩu phần đến mức thấp nhất. Tất cả kiến thức của họ, tất cả trí tuệ của họ đều không thể giúp ích gì trong tình trạng nguy khốn như thế này. Số phận của những người ấy hoàn toàn tùy thuộc mệnh trời.
Cyrus Smith giữ được bình tĩnh, Gédéon Spilett hơi tỏ ra lo lắng, còn Pencroff thì tức giận ngầm, cứ đi lui đi tới trên tảng đá. Harbert không rời viên kỹ sư, nhìn ông với ánh mắt như chờ đợi ở người bạn của mình sự giúp đỡ. Nab và Ayrton thì đành phận.
Năm ngày nữa trôi qua. Cyrus Smith và những người bạn bất hạnh của ông chỉ còn thoi thóp, bởi vì họ ăn chỉ để cần chừng khỏi bị chết đói mà thôi. Mọi người đều đã yếu sức đến mức tột cùng rồi. Harbert và Nab bắt đầu mê sảng. Họ không còn hi vọng được cứu thoát. Trên tảng đá này, cái chết khủng khiếp vì đói và khát, đang tấn công họ!
Không còn ai có thể đứng vững được và họ nằm bất động hầu như không thở nữa, không nhận biết chuyện gì xảy ra chung quanh mình. Chỉ có Ayrton thỉnh thoảng khó khăn lắm mới ngóc đầu dậy và đưa mắt nhìn ra biển khơi hoang vắng với vẻ thất vọng!
Nhưng sáng 24 tháng ba, Ayrton đã giơ cả hai tay, chỉ về một cái chấm nhỏ trong không gian vô tận của đại dương và quỳ dậy, sau đó đứng lên và vươn thẳng người ra. Anh vẫy vẫy tay như thể làm tín hiệu…
- Duncan! – anh ta khẽ nói.
- Duncan! – Cyrus Smith nhắc lại. Và giơ tay lên ông hô to: - Ôi thượng đế toàn năng! Nghĩa là, ý người như thế đó! Họ đã kịp thời cứu chúng con!
Thực vậy, Duncan đã cứu họ, chiếc tàu buồm của huân tước Glenarvan giờ đây do Robert, con trai của thuyền trưởng Grant, lái, con tàu được phái đi tìm Ayrton, đưa anh ta trở về Tổ quốc sau mười hai năm sống cô đơn trên hòn đảo hoang Tabor và đã chuộc tội lỗi của mình! Thế là những người ngụ cư đã được cứu thoát, con tàu đã chuẩn bị đưa họ về nhà.
- Thuyền trưởng Robert, – Cyrus Smith hỏi – khi ông rời khỏi đảo Tabor, không tìm thấy Ayrton ở đó, ai đã gợi ý cho ông đi thêm một trăm hải lý về phía đông bắc?
- Tôi biết về nó qua bức thư mà các ông đã để lại trên đảo Tabor.
- Qua bức thư? – Gédéon Spilett sửng sốt hỏi lại.
- Tất nhiên, qua bức thư. Nó đây. – Robert Grant trả lời và chìa tờ giấy ra, trong đó cho biết vĩ tuyến và kinh tuyến của đảo Lincoln: “Ayrton và năm người ngụ cư Mỹ hiện đang ở đó”.
- Đúng là thuyền trưởng Nemo đã viết! – Cyrus Smith nói, sau khi đọc bức thư và tin chắc rằng nó được viết bằng đúng nét chữ trên bức thư mà họ đã thấy ở khu chăn nuôi.
- Ồ, hóa ra là thế đấy! – Pencroff kêu lên – Vậy nghĩa là ông ấy đã lấy tàu của chúng ta và một mình liều mạng lái nó sang đảo Tabor!
- Các bạn của tôi, – Cyrus Smith xúc động sâu sắc nói – thuyền trưởng Nemo thực sự là ân nhân của chúng ta. Xin chúa trời nhân từ hãy thu nhận linh hồn ông vào lòng mình!”
Khi Cyrus Smith nói những lời ấy tất cả đều bỏ mũ ra và khẽ nhắc tên của thuyền trưởng một cách thành kính.
Đúng lúc ấy Ayrton bước lại gần viên kỹ sư và hỏi:
- Chúng ta để cái tráp vào đâu ạ?
Anh ta đã liều thân cứu được cái tráp ấy trong lúc thảm hoạ xảy ra và bây giờ trao nó cho viên kỹ sư.
- Ayrton! Ayrton! – Cyrus Smith xúc động kêu lên và quay về phía Robert Grant, ông nói thêm: - Thưa ông Grant, ông đã để lại trên đảo Tabor một tên tội phạm, còn bây giờ đây, trước mặt ông là một con người lương thiện, và tôi tự hào được vinh dự được bắt tay con người ấy!
Khi đó mọi người đã kể cho Robert Grant nghe lịch sử kì lạ của tình hữu ái giữa thuyền trưởng Nemo và những người khai khẩn đảo Lincoln.
Sau hai tuần lễ, những người ngụ cư đã về đến Mỹ và sung sướng thấy rằng trên quê hương họ hòa bình đã lập lại, cuộc nội chiến đã kết thúc, sự nghiệp chính nghĩa đã thắng.
Một phần lớn những của cắp mọi xó xỉnh. Trong nhà không có ai hết. Mọi đồ vật đều nguyên chỗ cũ như đã được xép đặt trước đây.
- Xem kìa! Có thư! – Harbert kêu lên, chỉ vào một tờ giấy trên bàn. Bức thư được viết bằng tiếng Anh:
“Các bạn hãy đi theo dọc đường dây điện mới”.
- Lên đường! – Cyrus Smith kêu lên; ông hiểu rằng bức điện khẩn đã được đánh đi không phải từ khu chăn nuôi, mà là từ nơi ở bí ẩn của người lạ mặt, và một đường dây điện bổ sung nào đấy dẫn đi từ đường dây cũ đã nối liền nơi đó với Lâu đài Đá hoa cương.
Nab mang theo cây đèn mới thắp và mọi người ra khỏi khu chăn nuôi. Ngoài sân, họ không thấy dấu hiệu nào của đường dây điện báo cả. Khi ra khỏi cổng Cyrus Smith đã chạy lại cột điện gần nhất. Dưới ánh chớp, ông nhìn thấy một đường dây điện mới được thòng từ ống sứ cách điện xuống đất.
- Đây rồi! – viên kỹ sư nói.
Sợi dây được rải lên mặt đất, bọc lớp cách điện như cáp ngầm nên bảo đảm dẫn điện tốt. Căn cứ vào hướng đi của dây thì nó xuyên qua rừng và các nhánh núi, đến phần phía tây của đảo.
- Hãy bán sát đường dây cáp! – Cyrus Smith nói.
Viên kỹ sư túm lấy sợi cáp và thấy nó đi xuống nước.
Viên kỹ sư cúi xuống, thấy một vật đen bập bềnh trên mặt nước liền kéo vào. Đó là chiếc thuyền được buộc vào một vách đá bên trong hang. Thuyền được đóng bằng những tấm tôn ghép chặt với nhau. Trên sàn thuyền, dưới các băng ghế ngồi có hai mái chèo.
- Lên thuyền! – Cyrus Smith nói.
Một giây sau, mọi người đã ngồi quanh thuyền. Nab và Ayrton ngồi chèo, Pencroff lái. Cyrus Smith đặt đèn lên sống mũi thuyền soi đường. Họ đang bơi dưới vòm hang thấp, bỗng thấy vòm hang cao lên và rộng ra; chung quanh tối như bưng, dưới ánh sáng yếu ớt của cây đèn không thể nào xác định được hang này lớn chừng nào. Con thuyền bơi theo đường dây cáp. Cách cửa hang độ nửa dặm thì Cyrus Smith ra lệnh:
- Dừng lại!
Con thuyền dừng lại và trước mắt các du khách rất đỗi ngạc nhiên loé lên ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp cái hang thiên nhiên ăn sâu trong lòng đảo. Ánh sáng ấy tất nhiên do nguồn điện cung cấp. Điện đã thay mặt trời chiếu sáng khắp nơi trong cái hang này.
Ở giữa hồ có vật gì đó dài, nhô lên khỏi mặt nước đã đóng băng và bất động. Vật ấy giống như một động vật ở biển thuộc họ cá voi, dài khoảng hai trăm năm mươi bộ và nhô cao trên mặt hồ chừng mười đến mười hai bộ.
Theo lệnh của viên kỹ sư, con thuyền bơi đến gần cái công trình kì lạ đang nổi trên mặt nước. Các tay chèo cập vào bên trái bức tường hình tròn của công trình, từ trong đó một chùm ánh sáng chói lòa toả sáng qua lớp kính dày.
Cyrus Smith và những người cùng đi trèo lên sàn. Trên ấy, một cái lỗ nhỏ gọi là cái cửa mở ra. Tất cả ùa vào đó.
Phía bên dưới cầu thang là một hành lang sáng rực ánh điện. Cuối cầu thang, các khách lạ nhìn thấy một cánh cửa ra vào. Cyrus Smith mở toang cửa. Đi vội qua một căn phòng được trang trí sang trọng, họ bước vào một thư viện kế bên. Nơi đây, trên trần ánh sáng toả chiếu rực rỡ. Ở cuối thư viện hoá ra còn có một cửa nữa. Viên kỹ sư mở luôn cánh cửa ấy. Và khi đó họ nhìn thấy một căn phòng rộng rãi, giống như một nhà bảo tàng. Trên chiếc đi văng lộng lẫy có một người đang nằm, hình như không nhận thấy sự xuất hiện của họ.
Cyrus Smith bước lên phía ấy và trước sự kinh ngạc của những người cùng đi, ông dõng dạc nói:
- Thưa thuyền trưởng Nemo, ngài đã gọi chúng tôi? Vậy chúng tôi đã có mặt.
Khi nghe những lời ấy, người đang nằm trên đi văng nhổm dậy, và ánh sáng chiếu rọi vào khuôn mặt của ông. Mái đầu ông tuyệt đẹp, vầng trán cao, cái nhìn kiêu hãnh, bộ râu bạc phơ, mái tóc dày được trải hất ra sau.
- Tôi không có tên, thưa ngài!
- Tôi biết tên ngài! – Cyrus Smith đáp.
Thuyền trưởng Nemo nhìn viên kỹ sư đăm đăm với ánh mắt rực lửa, như muốn tiêu diệt ông ta. Sau đó, ông ngã phịch xuống đi văng, thuyền trưởng thì thào:
- Rốt cuộc thì đằng nào cũng vậy thôi. Tôi sắp chết rồi.
Cyrus Smith bước lại gần thuyền trưởng Nemo hơn, còn Gédéon Spilett thì nắm tay thuyền trưởng.
Thuyền trưởng Nemo khẽ đưa tay ra hiệu mời chàng nhà báo và viên kỹ sư ngồi xuống.
Mọi người nhìn thuyền trưởng với niềm xúc động chân thành. Đây chính là ông, người mà họ gọi là “vị thần của đảo”, con người hùng mạnh, đã nhiều lần can thiệp và trở thành vị cứu tinh, ân nhân mà họ chịu ơn.
Thuyền trưởng lại nằm xuống đi văng và chống khuỷu tay chăm chú nhìn Cyrus Smith ngồi cạnh ông.
- Vậy là, thưa ngài, ngài biết cái tên mà tôi đang mang? – thuyền trưởng Nemo hỏi.
- Tôi biết! – Cyrus Smith đáp – Tôi còn biết cả chiếc tàu ngầm tuyệt diệu tên gì nữa.
- Nautilus! – thuyền trưởng mỉm cười.
- Vâng, Nautilus.
- Thế ngài có biết không? Ngài có biết tôi là ai không?
- Biết.
- Vậy, nhưng đã ba mươi năm nay tôi không có chút liên hệ nào với thế giới con người. Ai đã tiết lộ bí mật của tôi thế nhỉ?
- Một người nào đó đã không bị ràng buộc trách nhiệm đối với ngài, thưa thuyền trưởng Nemo!
- Phải chăng đó là người Pháp đã tình cờ lọt lên tàu của tôi mười sáu năm trước?
- Chính ông ta.
- Nghĩa là người ấy và hai người cùng đi đã không bị chết ở Malstrim, khi Nautilus bị kẹt ở đó?
- Không, họ đã không chết. Và thế là đã ra đời một cuốn sách với tựa đề “Hai vạn dặm dưới đáy biển”, trong đó có kể về lịch sử cuộc đời ngài.
- Lịch sử của mấy tháng trong đời tôi, thưa ngài! – thuyđổi, và đó thật sự là hòn đảo của các bạn.
- Kế hoạch của chúng tôi là thế này, thưa thuyền trưởng! – Cyrus Smith nói ngay – Chúng tôi tặng hòn đảo cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
- Các ngài nghĩ về đất nước của các ngài, – thuyền trưởng trả lời – Các ngài đã lao động vì sự phồn vinh của đất nước. Và các ngài đúng. Tổ quốc là trên hết! Tất nhiên. Cần phải trở về Tổ quốc khi chết làm sao được nằm trên quê cha, đất tổ! Thế mà tôi thì lại chết ở xa tất cả những gì mà tôi yêu, tôi quý!
- Có lẽ ngài nên chuyển cho ai đó lời di chúc của ngài? – viên kỹ sư nói – Có thể, ngài gởi một di vật gì đó để kỉ niệm cho bạn bè? Chắc ngài còn bạn bè ở Ấn Độ.
- Không, thưa ngài Smith. Tôi không còn bạn bè nữa! Tôi là người cuối cùng trong dòng họ của tôi… Còn những ai biết tôi thì cho rằng tôi đã chết từ lâu. Ở đây tôi sẽ được an giấc ngàn thu, miễn là… – thuyền trưởng Nemo ấp úng, và bỏ lửng câu nói trên, ông tiếp lời: - Thưa ngài Smith, tôi muốn được nói chuyện riêng với ngài.
Tôn trọng ý muốn của người đang hấp hối, các bạn của viên kỹ sư ra khỏi phòng.
Thuyền trưởng Nemo nói chuyện tay đôi với Cyrus Smith mấy phút về việc gì đấy, sau đó kỹ sư gọi các bạn mình lại, nhưng không nói gì với họ về điều mà người hấp hối cho ông biết…
Đêm đến, trạng thái của người bệnh hầu như không có sự biến chuyển gì. Những người ngụ cư không phút nào rời Nautilus. Chẳng bao lâu, sau lúc nửa đêm, thuyền trưởng Nemo tập trung sinh lực cuối cùng, đưa tay lên để chéo trước ngực với một vẻ khó nhọc, dường như ông muốn chết ở một tư thế bình thản như vậy.
Gần hai giờ sáng, toàn bộ sự sống của ông tập trung trong ánh mắt nhìn chăm chú. Hai con ngươi của ông ngời lên những ánh lửa sự sống lần cuối cùng. Rồi ông thì thào: “Thượng đế và Tổ quốc!” và lặng lẽ qua đời.
Những người ngụ cư đã làm theo những điều thuyền trưởng Nemo yêu cầu. Họ khoá chặt cửa tàu để không giọt nước nào thấm vào. Sau đó, họ tháo hai vòi nước lớn ở đuôi tàu, nước chảy qua các buồng, Nautilus chìm dần và biến khỏi mặt nước phẳng lặng.
Cyrus Smith và các bạn của ông đã rời khỏi Nautilus, mang theo món quà tặng duy nhất mà ân nhân quá cố của họ đã để lại: Cái tráp nhỏ đựng những của cải giá trị cao.
Những người ngụ cư còn nhìn thấy hồi lâu con tàu ở sâu dưới biển qua tầng nước dày. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn điện mạnh, làn nước biển lấp lánh một màu trong xanh, trong khi cái hang động lấy lại hình ảnh một hầm mộ đen ngòm. Nhưng cuối cùng, quầng sáng rực rỡ của tàu cũng mờ dần, và Nautilus trở thành chiếc quan tài của thuyền trưởng Nemo nằm bất động dưới đáy biển.

°

° °

Ngày đầu năm mới, năm 1869, được đánh dấu bằng một trận bão khủng khiếp. Sét đã nhiều lần đánh xuống đảo Lincoln. Một số cây cổ thụ bị đổ. Phải chăng tự nhiên đã thiết lập mối liên hệ trực tiếp giữa những cơn giông, bão với hiện tượng quái gở đang phát sinh trong lòng đất? Phải chăng những trận giông, bão này là sự phản ánh của những chuyển dịch đã xảy ra trong các tầng sâu của đảo Lincoln?

Ngày 3 tháng giêng, Harbert dậy từ lúc hừng sáng, chú đã lên cao nguyên Tầm nhìn để thắng xe cho một con la kéo, bỗng chú thấy trên miệng núi Franklin một cột khói lớn phun thẳng. Harbert vội vàng báo cho những người khai khẩn khác biết. Họ cũng đã lên ngay cao nguyên và bắt đầu chăm chú nhìn về hướng núi.
- Ừ nhỉ! – Pencroff kêu lên – Lần này thì không phải là đơn giản là hơi nước nữa rồi! Tuồng như chàng dũng sĩ của chúng ta không những thở, mà lại còn hút thuốc nữa!
Cyrus Smith chăm chú quan sát những cụm khói từ miệng Franklin phun ra. Rồi ông bước đến chỗ các bạn mình và nói:
- Các bạn của tôi, quả thật trong lòng hòn đảo đang xảy ra những biến động rất đáng lo ngại. Chúng ta sẽ không dối mình trước tình hình đó. Cái khối chất lỏng trong núi lửa không những đang ở trạng thái sôi, mà chúng đã bùng cháy, và có thể trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ bị phún xuất đe doạ.
- Kệ nó, thưa ngài Cyrus! – Pencroff kêu lên – Chúng ta hoan nghênh hiện tượng này. Biết đâu, bỗng nhiên núi lửa lại phun cho chúng ta những loại quặng hữu ích và quý hiếm thì sao. Ngài đừng lo, chúng ta sẽ biết tận dụng tấm lòng tử tế của nó.
Nhưng, Cyrus Smith lắc đầu không tán thành cách khôi hài của Pencroff. Nét mặt ông bộc lộ rằng cá nhân ông không hi vọng sự tốt lành nào ở quá trình chuyển biến nhanh đến như thế của núi lửa.
- Tôi cảm thấy, – bỗng Ayrton nói (anh ta đã nằm, ghé tai xuống đất nghe ngóng), – tôi nghe có tiếng ầm ầm giống như có tiếng sấm rền vậy.
Những người ngụ cư chăm chú lắng nghe và phải thừa nhận Ayrton nói đúng. Tiếng ầm ầm có lúc kèm theo tiếng ồn ào dưới đất lúc mạnh lên, lúc lắng xuống – có cảm giác như trong lòng đất đang bị một cơn lốc dữ dội hoành hành. Tuy nhiên vẫn chưa nghe thấy những âm thanh điển hình của hiện tượng phún xuất phát nổ.
Đến tối, sau khi ăn xong, Cyrus Smith cùng Gédéon Spilett và Harbert đi lên cao nguyên Tầm nhìn. Bóng tối đã bao phủ mặt đất, nhưng lại thuận lợi cho nhiệm vụ của họ là xác định xem lẫn trong hơi và khói bao trùm quanh miệng, núi lửa đã phun ra những hạt nham thạch bị nóng chảy chưa.
- Miệng núi Franklin ngập lửa kìa? – Harbert chạy vượt lên mọi người, đến cao nguyên Tầm nhìn trước tiên, bỗng kêu lên.
- Các bạn có cảm thấy đất rung chuyển không? – Cyrus Smith hỏi.
- Thấy, - Gédéon Spilett trả lời – nhưng đó chưa phải là động đất thật sự.
- Tôi cũng không bảo là chúng ta đang bị hiện tượng động đất đe doạ – Cyrus Smith nhanh nhẹn đáp lại, – cầu trời tránh cho chúng ta cái tai hoạ ấy.
Gédéon Spilett không hỏi gặng nữa… và lát sau, bất chấp tiếng ầm ầm dưới đất mỗi lúc một to hơn và vang vọng khắp đảo, các cư dân trong Lâu đà
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---