Chương 3

Sự thay đổi hơi giống như nằm mơ đang ở trên một hành tinh khác, chỉ mơ hồ giống với hành tinh chúng ta, sau đó tỉnh dậy trong tình trạng hoa mày chóng mặt, thấy mình đang ở trên chính hành tinh đó. Nó cũng lạ lùng như sự vĩnh cửu, làm anh nghĩ đến thực tại mỗi lúc một trôi giạt ra xa, teo lại cho đến khi chỉ còn một hình ảnh duy nhất thỉnh thoảng bập bềnh trong trí nhớ: con gái anh, con đường đằng trước một nông trại người da đỏ, con chó săn chim của anh. Suốt tháng ở trong phòng, Cochran đã khai quật một cách hệ thống và dốc hết trí nhớ của anh để cuối cùng, khi đã sẵn sàng rời phòng bệnh, anh không nhận ra thế giới như lúc anh để lại. Sự tương đồng không đủ mạnh để kéo anh trở lại và ban đêm khi các hình ảnh lại đến, anh cảm thấy chẳng có gì quyến luyến nên chúng lại vội vã ra đi. Lúc đầu anh tưởng sự chấn thương nghiêm trọng đã làm đầu óc anh hỗn loạn, nhưng anh sớm hờ hững với những lời giải thích của y học. Anh đã khoanh vùng và cô lập nỗi đau đớn không thể xuyên thấu, và nó sẽ giữ cho anh sống. Khi các hình ảnh xuất hiện, anh nhìn thấy nó lần nữa qua màu đo đỏ của mau mập mờ trước mắt, con chó lao vụt qua phòng và rít lên những tiếng chói tai vẫn còn cháy bỏng màng nhĩ, anh có thể nghe thấy rõ ràng như cho đĩa ghi âm vào máy. Cochran chỉ nhớ lờ ờ không hiểu vì sao cánh tay anh đột ngột bị gẫy, quai hàm, xương gò má và xương sườn bẹp dúm dó. Anh chẳng bận tâm đến những thứ ấy, chỉ có điều giọng nói của người khác mà anh có thể tái tạo lại hát hoặc thì thào với anh một cách kỳ quái.
Sau cái đêm dài dằng dặc ấy, đến sáng anh cho Diller biết anh đã tỉnh hoàn toàn, Diller bắt đầu dùng Demerol và không cố khai thác anh. Diller chỉ hỏi có cần báo cho ai không, và nói thêm rằng anh đã qua lúc hiểm nghèo: cánh tay và xương sườn đã được xếp lại chính xác, nhưng một bên mặt anh còn nát bét và anh nên phẫu thuật khi nào về nhà, dù ở bất cứ đâu. Diller lấy cái gương nhỏ trên tường và chỉ cho anh những chỗ sưng phồng và lún, ngoài việc vết thương kéo một mắt anh xuống cho đến lúc bị lác hẳn. Sau đó bác sĩ nói thêm rằng vài hôm nữa sẽ có một cảnh sát liên bang ghé đến nhưng anh đừng nói gì, nên lấy cớ là vẫn bị chấn thương.
Rồi một thanh niên vào định cạo mặt cho anh, nhưng anh từ chối. Anh ta xưng tên là Antonio rồi tiến hành lau rửa vết thương cho Cochran theo cái kiểu suồng sã như chọc tức. Antonio nói nếu anh cần thuốc lá hoặc thứ gì, cứ đưa tiền cho anh ta mà lấy, cho đến khi có tiền của Nhà nước. Antonio cười phá lên và xoay cánh cửa nói rằng họ chưa bao giờ có một bệnh nhân đến mà lại trần truồng lạ lùng đến thế, như thể anh đã bị đánh đập và lột da trong bụi cây vậy. Cochran cho Antonio là quá nhiệt tình, đủ lôi cuốn. Sau đó anh bối rối vì không thể nhớ ra anh có hút thuốc hay không.
- Tôi không thể nhớ mình có hút thuốc không - Anh nói.
- Thế thì đừng hút. Nó làm miệng anh có mùi kinh lắm. Tôi thích uống rượu nhưng chỉ uống lúc không làm việc. Tôi có thể lén cho anh tuý luý nhưng ở đây thì bị cấm - Antonio nháy mắt và bỏ đi.
Lúc Antonio đi rồi, Cochran cố ra khỏi giường và rón rén lê đến bên cửa sổ. Ngực anh nhức nhối và khuôn bó trên cánh tay trái làm anh mất thăng bằng. Đến cửa sổ, anh choáng váng, phải nắm chặt lấy bậu cửa và nhìn chằm chặp xuống bàn chân trần. Anh thích những thứ nhìn thấy ở đằng sau đồn điền: một thế giới xanh tươi, một vườn rau rộng lớn có nhiều luống, giữa các luống có rãnh tưới tiêu, và xa hơn là vài chuồng ngựa với bãi quây gia súc, chứa một con Percheron lớn và ba con ngựa trông tiều tuỵ, mấy con cừu, một chuồng rộng nuôi lợn và vài con dê sữa. Một bà lão già nhất trên đời lướt từ đằng sau bụi cây ra và nhìn chằm chằm vào anh qua cửa sổ, cách chưa đầy ba chục centimét. Anh hoàn toàn bình thản và bà lão cũng thế, rồi bà cười và anh cười đáp lại, sau đó bà ta mất dạng.
Trở lại giường anh thấy đói và kiểm tra nhiều vết kim đâm trên cánh tay phải cho thấy anh đã được nuôi bằng cách truyền dịch. Anh cảm thấy bụng trống rỗng như quả trứng Phục sinh bị rút ruột. Anh ngủ rất sâu nhưng giật nảy mình tỉnh dậy vì mơ thấy đang ngồi trên cát và cười cạnh chiếc ô tô của anh, ngước nhìn một phụ nữ xinh đẹp, trần truồng có khuôn miệng chảy máu khủng khiếp. Anh hét to lên cho đến lúc mắt anh lồi ra và tỉnh hẳn trong căn phòng mờ tối. Diller, Mauro và Antonio chạy đến. Diller vẫn đang nhai thức ăn và xách cái túi.
Cochran thấy mình nói:
- Tôi xin lỗi đã làm phiền mọi người. Chỉ là một giấc mơ thôi.
Diller tiêm cho anh một mũi dưới da và Cochran nói:
- Tôi muốn ăn chút gì đó.
Antonio đi ra và Diller mỉm cười. Người này thật lịch thiệp, ông nghĩ, và trở lại với bữa tối của ông. Mauro trong bộ quần áo làm việc màu xanh nhạt, ria mép và mí mắt trĩu xuống, nhìn anh chăm chú.
- Tôi đã tìm thấy anh và tưởng anh chết rồi - Anh ta nói rồi ngừng lại - Tôi chúc anh an toàn, thoát khỏi tay kẻ thù và cuộc báo oán, nếu đấy là điều anh mong ước.
Antonio bưng một khay đi qua Mauro đang ra cửa. Trên khay để bát súp, một cốc sữa dê và vài cái bánh ngô nhân thịt.
- Anh phải bắt đầu ăn nhẹ. Diện mạo của anh cho thấy anh là người hiểu biết, anh đừng dại mà nghe những lời bịp bợm của anh chàng da đỏ Mauro ấy. Đôi khi tôi cứ nghĩ anh ta và đứa con gái là ma quỷ, dù họ vẫn tử tế. Bao giờ nhận được tiền, anh có thể cho anh ta vài đôla thưởng công đã tìm thấy anh. Có Chúa biết tôi chỉ là một người nghèo và cô đơn, đã hiến mình cho khoa học và anh không cần nghe lời tôi, nhưng nếu anh muốn mượn radio của tôi hoặc cần nhờ tôi viết thư vì tiếng Anh của tôi hoàn hảo, hoặc muốn đọc cho anh nghe thì cứ bảo tôi. Tôi hy vọng có ngày được chuyển đến Los Angeles. Anh từ đâu đến vậy?
- Indiana. Tôi là người Indiana.
Antonio lúng túng một lát rồi tuyên bố chắc chắn:
- Tôi hiểu rõ vùng ấy. Nó ở gần Georgia và đầy rẫy những cuộc xung đột. Tốt nhất là anh nên chuyển đến Los Angeles. Bây giờ thì anh ăn và ngủ đi, nếu mai sẽ bắt đầu đi dạo hoặc thân hình đẹp đẽ của anh sẽ hết vẻ nhếch nhác.
Antonio xếp lại gối sau lưng cho anh và ra ngoài. Cochran ăn vài miếng rồi cảm thấy buồn ngủ rũ, đánh đổ cả bát súp. Cô con gái của Mauro vào bưng khay và lau dọn, thay đồ trải giường. Cochran tỉnh dậy kinh hoàng, tưởng nhìn thấy Miryea là một thiếu nữ.
Anh ngồi trong hàng hiên suốt hai tuần, ngắm làn bụi tháng Tám nâu nâu cuộn lên thành đám quanh những bàn chân đang đi. Râu anh mọc dài, và đến cuối tháng Diller cầm một cái đục và cái vồ đập chỗ bột bó trên cánh tay anh, trông nó ảm đạm và xanh xao. Trời ẩm thấp và xương sườn anh vẫn đau. Anh lễ độ và quá ư xa cách. Viên đại uý Liên bang đã đến và đi, phát cho anh một tờ quảng cáo du lịch, nhỡ anh muốn làm gì đó tuy anh vẫn im lặng, mơ hồ và xa cách. Cuối cùng, anh viết một bức thư cho con gái, anh vẫn thường viết mỗi tuần một lần. Rồi một hôm, anh giải thích cơ cấu bấm giờ trong chiếc Powerwagon của Diller đã hỏng, anh sẽ sửa lại nếu có Mauro giúp. Diller giữ vẻ xa cách lịch sự và suốt bữa tối ông tính cả Cochran trong lời cầu nguyện. Họ nói loanh quanh về lịch sử Mexico và Cozumel là nơi cả hai đã đến thăm. Diller chẳng có gì lo ngại, ông thích sự am hiểu lịch sử của người đàn ông bị tra tấn bằng những ngón đòn ông đã quá quen thuộc. Vả lại, Cochran bắt đầu có ích cho ông, anh dự những buổi lễ trong ngôi nhà thờ bằng xi măng thô ráp, hầu như mọi người đều thân thiện và biết điều, miễn là không động chạm đến ai
Đầu tháng Chín, Cochran bắt đầu làm việc chăm chỉ trong vườn. Anh dọn sạch phân trong chuồng và cưỡi lên lưng rộng của con Percheron vòng quanh thung lũng, con ngựa này hơn xa những con ngựa ốm yếu mà Mauro cưỡi. Mấy năm trước, khi con Percheron từ thành phố quê hương Diller đến hội truyền giáo như một món quà vô dụng, Mauro đã quyết luyện nó thành ngựa cưỡi vì họ không có yên cương và cũng không có ruộng cho nó làm lụng. Nhưng lúc Mauro cưỡi, con ngựa theo lệnh anh ta răm rắp và hiện giờ mỗi khi có việc lên núi là nơi xe tải khó tới, thân hình to lớn của Diller lại cưỡi lên lưng nó. Mauro mến Cochran, anh giúp anh ta giết mổ bò đực non, hai con cừu và một con dê nhỏ, rồi quay rất khéo, đúng lúc cảnh sát liên bang đến lần nữa cùng một quý ông là bạn của Cochran.
Người đó chính là viên phi công hãng Aeromexico, anh ta cười nhẹ nhõm khi nhìn thấy Cochran. Cochran vốn là người lịch sự, nhưng thấy ông bạn thân có thể làm gián đoạn kế hoạch bắt đầu hình thành trong anh lúc chạy và leo núi. Cuộc chạy của anh làm mọi người buồn cười vì tháng Chín vẫn còn nóng, tuy một ông già sắp chết vì ung thư (ông lão lận ma tuý buôn lậu vào trong người) bảo Cochran rằng chạy có thể biến anh thành một con sư tử núi. Cuộc sống sẽ tốt hơn nếu không ai là nạn nhân của ai. Thật là một niềm vui chính đáng nếu được bắn vào kẻ thù của anh.
Cochran và anh bạn ở Aeromexico ngồi trong phòng ăn, im lặng căng thẳng uống cà hê. Antonio nhìn trộm vị khách quan trọng. Vị khách đợi bạn hết cơn im lặng.
- Trông cậu không giống như chơi tennis quá nhiều - Anh ta mỉm cười, nhưng sững lại vì vẻ khó hiểu của Cochran. Anh giở bài khác - Cô ấy mất rồi à?
- Tôi không biết. Có khi thế. Tôi muốn tìm cho ra.
- Cậu sẽ cầm chắc cái chết. Bác sĩ bảo cậu đã suýt chết. Có lẽ tôi hiểu cậu muốn làm gì. Nhưng tôi mong cậu trở về Tucson.
- Không phải lúc này.
Viên phi công thở dài và bối rối nhìn khắp căn phòng. Anh chợt thấy mình viên vông tuy nhận biết nỗi đau đớn và số phận bất hạnh của bạn. Anh đoán Tibey chẳng tử tế gì với Miryea và báo thù là việc không thể tránh khỏi.
- OK. Cậu phải tìm cho ra. Nhưng xin cậu hãy nghe vài lời khuyên đây. Bây giờ trong cậu như một peóne, một peóne lập dị. Cứ để thế này cậu sẽ bị chú ý ngay lập tức. Cậu lấy số tiền tôi mang đến đây, nhỡ lúc cần cho biện pháp mềm hơn.
Antonio mang thêm cà phê và cắt ngang câu chuyện và họ rơi vào im lặng. Lúc Antonio đi rồi, viên phi công nói tiếp rằng anh trai anh ta giữ một chức vụ cao trong chính quyền thành phố Mexico và có thể tin cậy được. Chính vì thế mà anh tìm Cochran bằng được. Tốt nhất là đừng ở hội truyền giáo thêm nữa, vì Tibey có thể thay đổi ý định và có thể dễ dàng lần theo dấu vết anh. Viên phi công dặn một số điểm nhận dạng người anh, ghi tên và số điện thoại của anh ta vào phong bì đựng tiền. Rồi anh kéo một ống quần lên và tụt chiếc giày ống xuống nửa chừng, để lộ một khẩu Beretta nhỏ, cỡ 22 ly để trong bao. Anh đưa cho Cochran.
- Cái này để cho kẻ nào sấn đến đúng tầm. Nếu cậu sống sót lần này, cậu phải sửa sang bộ mặt đi.
Anh đứng dậy và họ ôm lấy nhau. Cochran tiễn bạn ra xe jeep nhưng cổ anh nghẹn tắc và không thể thốt nên lời.
Chiều hôm ấy anh làm hai chiếc phong bì, mỗi cái đựng năm trăm đôla đổi ra peso cho Diller và Mauro, giữ một ngàn đôla cho mình, nhét phần lớn vào sau khẩu súng lục áp vào bắp chân. Diller bị thuyết phục và sửa soạn một túi du lịch đựng quần áo peóne cũ, cuốn kinh thánh bằng tiếng Tây Ban Nha và lọ thuốc giảm đau. Ông xin lỗi vì chỗ quần áo nghèo nàn thực ra là đồ thừa của những người đã chết. Họ nói đùa về việc này, Diller nói ông sẽ buồn nhớ và sẽ đọc kinh cầu nguyện cho anh. Ông không tọc mạch hỏi kế hoạch của Cochran. Ông oang oang ra lệnh dọn một bữa thịnh soạn mừng bệnh nhân của ông đã hồi phục và sắp lên đường, ông ăn nhiều và hết sức ngon miệng.
Trước bữa ăn, Cochran và Mauro ngồi trong hàng hiên ngắm bóng chiều lướt xuống núi. Rất khó làm Mauro chịu nhận một số tiền lớn như thế. Mauro tặng anh con dao cán nạm ngọc, anh ta nói đây là con dao may mắn, sắc như dao cạo và sẽ cắt ngọt "hòn bi" của kẻ nào đã đánh đập và vứt anh cho chết. Cochran nói nếu có ai đến lùng kiếm anh, nhờ Mauro nhắn cho anh qua một quý ông ở thành phố Mexico. Mauro muống cũng thưởng thức món thăn lợn nấu cho ông, như dấu vết duy nhất còn lại của cuộc sống ở Mỹ. Ông thích các món ăn Mexico hơn, và ăn nhiều đến mức trở thành truyền thuyết khắp vùng. Ông không phải là người mộ đạo nhiệt thành, nhưng ông hiểu chính nghề bác sĩ và tài khéo trong y học đã dán cho ông cái nhãn của Chúa Jesus, rất được sùng bái ở vùng núi kiệt quệ này. Ông không về Mỹ trong những chuyến nghỉ phép mỗi năm một tháng nữa. Cái cảnh ba mươi ngày ngồi ở Bắc Dakota và cầu nguyện cho những kẻ ngoại đạo trên toàn thế giới làm ông chán ngắt. Diller khá thích những kẻ ngoại đạo và vẻ đẹp dãi dầu của vùng họ, những nỗi trớ trêu phải chịu đựng và thuyết định mệnh của thời tiền - Cơ đốc. Ông thích ăn thịt gà, thịt lợn, lợn sữa, dê và cừu mà dân chúng đưa đến làm quà khi ông thực hiện được một kỳ công nào đấy trong y học. Thậm chí ông quý cả anh chàng y tá Antonio ẻo lả, lúc nào cũng tìm ra cớ để lái xe đến Nogales hoặc Hermosillo. Một năm trước, cha đạo của hội truyền giáo đã đến thăm và hỏi Diller có phải Antonio là loại "hơi đặc biệt" không. Diller câm tịt, giữ kín tài nấu ăn của Antonio, anh ta biết nấu những món ăn lạ lùng không có trong sách, và hát rất hay những khúc ballad dù cho các giống trong khúc ca có khuynh hướng đổi giới tính.
Diller rên lên khi con gái của Mauro chạy ào vào, kêu tướng lên là có người bị thương ở trên núi. Cô bé lôi cái túi cứu thương ra chiếc Dodged Powerwagon nay dùng làm xe cấp cứu, có tấm vải bạt phủ nóc và lều ở đằng sau. Diller đi sau, mang theo món thịt hầm. Ông khoái món dưa bắp cải ở đáy đĩa đẫm mỡ lợn. Diller đứng lại trên hiên của đồn điền và hít thật sâu mùi không khí ban chiều: mùi phân bón và mùi đinh hương ngọt ngào, những bông hoa nhàu nát đang thối rữa, mùi của những tảng đá và cát quá nóng đang nhạt dần trong đêm. Diller yêu thích thung lũng vì nó có vẻ tối tăm và nhiều bóng râm ngay cả trong lúc nắng rực rỡ.
Tại hiện trường, Mauro cầm đèn pin soi trong lúc Diller lau mỡ lợn trên bàn tay vào quần và cúi xuống thân người, đọc lời cầu nguyện rồi khám kỹ và dự đoán. Ông không tin người đó sẽ sống vì trong hai mươi tư giờ đầu tiên thật bấp bênh, anh ta đã bị mất nước nghiêm trọng. Sọ không bị nứt nhưng tròng mắt đưa qua đưa lại cho thấy bị chấn thương nặng. Diller lấy đèn bỏ túi ra và cúi xuống gần mắt người đàn ông trần truồng xem chỗ sưng phồng thành núm trong nhãn cầu, một chấn thương rất nghiêm trọng. Sau đó ông lướt đôi tay to lớn, thành thạo lên thân người, khẳng định bị gãy xương sườn và cánh tay trái. Diller luồn cánh tay xuống dưới thân người đàn ông và nâng anh ta lên. Mauro cầm túi và chiếu đèn soi đường.
Về đến bệnh viện, Diller làm việc suốt đêm có Mauro phục dịch. Ông muốn Antonio ở đó giúp nhưng anh chàng đã biến mất vì những lý do giả mạo như thường lệ. Diller hơi hoang mang vì người bệnh. Dưới ánh đèn pin, ông thấy một việc đáng thương nữa, nạn nhân đã bị cuộc chiến ma tuý nổ ra gần biên giới hành hạ. Những kẻ tị nạn như thế này đã cung cấp cho Diller vài ca thú vị nhất, xen kẽ với các nạn nhân ung thư của người cao tuổi thông thường, hay trộn Dilaudid mạnh với thuốc để dễ dàng lên thiên đường. Lúc đã lau sạch máu, mới thấy rõ người đàn ông trần truồng này chắc chắn là người nước ngoài: tóc anh ta cắt rất đẹp, răng bọc vàng đắt tiền, móng tay cắt tỉa cẩn thận và làn da rám nắng mặn mà, thân thể lành lặn, cường tráng, mọi vẻ làm anh ta khác hẳn bọn buôn lậu.
Sắp rạng đông, Diller mỉm cười thấy mạch đập đã đều và có phản ứng với dung dịch trong tĩnh mạch. Ông thận trọng thăm khám kỹ chỗ xương hàm vỡ vụn, sau này sẽ phải làm phẫu thuật thẩm mỹ nếu anh ta muốn. Mauro lau làn da rám nắng bằng giấm và dùng gạc nóng lau hai tinh hoàn sưng phồng, nói đùa trong lúc làm việc mệt nhọc rằng đây là việc tốt nhất cho Antonio. Bác sĩ không nhịn được cười phá lên, dù đó là việc không thể trong lúc vẫn còn khó khăn như thế này. Bác sĩ hát La Paloma trong lúc băng bó các dẻ sườn, Mauro hoà theo bài hát tuyệt vời bằng cái nhịp trẻ con của anh ta.
Mauro và bác sĩ chuyển người đàn ông vào phòng riêng duy nhất trong bệnh viện rồi ra hành lang, con gái của Mauro dọn cà phê cho họ lúc trời vừa hè sáng. Diller nháy mắt với Mauro, cho anh ta một viên Dexamyl và tự uống một viên. Mauro mỉm cười vì điều bí mật nho nhỏ này; suốt thời gian cấp cứu họ không được ngủ, anh ta thích uống mescal (1) giấu dưới gầm giường của anh ta hơn, dù đã tuyên thệ công khai ở nhà thờ chống lại các loại rượu cồn. Từ lâu rồi, vào năm thứ hai ông ở hội truyền giáo và vợ ông đã bỏ ra đi vĩnh viễn, giải thích trong cơn cuồng loạn rằng bà không thể chịu nổi cuộc sống ở Mexico và bà không còn yêu ông nữa, Diller đã ngồi trên mảnh sân đất suốt đêm và khóc trong lúc người giúp việc hoảng sợ, đứng trong hàng hiên của ấp trại theo dõi ông. Giữa cái đêm lâm ly ấy, Mauro đã mang đến cho Diller cả lít mescal và ông đã uống một cách thèm khát. Diller ngủ suốt một ngày nóng bức trên đất, mọi người lần lượt che mặt cho ông và giữ cho ruồi khỏi bâu. Diller mỉm cười khi nhớ lại nỗi đau ấy.
Lúc này những tia nắng đầu tiên đã nhuốm màu nâu vàng một bên đỉnh núi. Cái mầu riêng biệt ấy làm màu nâu trên sườn núi đầy đá nhạt đi, luôn nhắc ông nhớ đến sườn hươu và sáng nay, sườn hươu lại làm ông nhớ đến những lát thịt hươu. Thịt lợn và dưa bắp cải không còn ngon nữa, ông quyết định bỏ và hoà nhập hoàn toàn với cộng đồng bản xứ. Con gà trống gáy làm ông nghĩ đến món gà quay. Người nấu bếp gọi to và Diller cùng Mauro vào bếp, họ ăn một bát to menudo và bánh ngô. Ông tin như dân Mexico rằng món lòng hầm nhừ rất bổ, dù ông sẽ không tin như thế nếu không thích món này. Ông là người có khẩu vị nhất định. Ông lo những sở thích ấy sẽ giết ông từ từ vì ông đã tăng đến 135kilô, dù ông có bộ khung to lớn và cơ bắp nặng nề. Dexamyl làm máu gõ trống trong tai ông; mang theo sự bất hạnh lan tràn khắp vùng quê, ông thích thú đùa bỡn với thần Chết. Sau bữa sáng, ông vừa đi dạo vừa hát những bài hát ngắn về tình yêu và cái chết. Ông thầm nhận xét rằng bệnh nhân cần có dạ dày thật khoẻ để chịu được nỗi đau khi hết cơn bất tỉnh.
Chiều hôm ấy, Hector, đại uý cảnh sát liên bang khu vực ghé đến lập biên bản về người bị thương. Lúc nửa ngày nhận báo cáo qua điện tín, ông ta vui vẻ ra lệnh cho trợ lý chuẩn bị xe jeep để đi suốt đêm. Đến thăm bác sĩ có nghĩa là được chén lu bù và chơi cờ suốt đêm, bàn luận về nghề làm vườn, về chính trị, về việc nuôi gia súc làm thức ăn, và cuối cùng là có dịp nói về sức khoẻ của ông ta, vì ở độ tuổi năm mươi lăm, Hector mắc chứng nghi bệnh và lo lắng về khả năng giao cấu yếu ớt của mình. Ông ta kính trọng sự mộ đạo sâu sắc của bác sĩ nên chỉ nhắc đến khía cạnh y học của khả năng giao cấu một cách tế nhị, điều ấy làm bác sĩ thú vị và ông khuyên nên giảm uống rượu và hút thuốc lá, năng tập thể dục. Lời trêu chọc cuối cùng là gợi ý có lẽ Hector quên mất conchitas của ông ta vì những mối quan tâm thiêng liêng mất rồi. Gần đây bác sĩ cảm thấy rất hoảng vì đã thèm khát lúc ông chữa cho một cô gái sơn cước hấp dẫn bị bò cạp cắn vào chỗ trên cùng ở bắp đùi. Ông đã cầu nguyện nhiệt thành nhưng có ẻ như nó chẳng giúp gì mấy, ý nghĩ của ông cứ trở lại năm đầu lấy vợ ở Bắc Dakota, ông và người vợ trẻ măng của ông đã làm tình đến kiệt sức.
Khi Hector và trợ lý đến, họ đến ngay chỗ người bị thương nhằm giải quyết cho xong những thủ tục tẻ nhạt, để có thể vui chơi cả buổi tối. Bác sĩ cấm lấy vân tay vào lúc này, ông nói sẽ gửi ngay vân tay khi nào các vết thương khá hơn. Trong vụ này, ông sẽ gửi cả dấu vân tay của chính ông vì không muốn gây rắc rối cho bất cứ ai. Những người Mennonite không bao giờ giở luật ra với nhau và bác sĩ áp dụng nguyên tắc này cả trong lúc hành nghề. Ông chăm sóc cả phần hồn lẫn phần xác và tin rằng các nhà cầm quyền dân sự có đủ thiết bị để tiến hành công việc mà không cần ông trợ giúp. Hector rất mừng vì sẽ có chuyến trở lại để thẩm vấn, còn bác sĩ định sẽ xui bệnh nhân giả vờ mắc chứng quên nếu anh ta muốn thế, hoặc làm bất cứ việc gì miễn là thoát khỏi thói quan liêu và hình phạt nghiêm khắc theo luật dân sự của Mexico. Viên trợ lý lập một biên bản chiếu lệ với thông tin sơ sài của Mauro và sau đó họ đến quán rượu dưới thung lũng để gây ấn tượng với dân địa phương. Hector và bác sĩ ngồi ăn một bữa thịnh soạn, nhiều món, Hector làm ra vẻ mệt nhọc như người đã xong công việc suốt một ngày dài và không muốn nhớ lại.
Ngày thứ ba sau khi tìm thấy người bị thương Diller trở nên ngần ngại. Người đàn ông bị viêm phổi nhẹ và không phản ứng nhau với penicillin, bác sĩ cầu nguyện cho anh ta không bị dị ứng. Diller không muốn làm hại anh ta nếu gửi máy bay lên thẳng đến bệnh viện cấp cao hơn ở Hermosillo. Thêm hai ngày nữa, sốt đã dịu nhưng vẫn hôn mê. Lúc này Diller quyết định để anh ta hôn mê thêm hai ngày nữa mới gọi điện cho Hector. Ông thích kiểu làm việc tay đôi cân xứng và ông tò mò về người bị thương đén mức nóng lòng bịa nhiều lý do để giữ anh ta lại. Đêm trước buổi sáng hạn cuối cùng, ông chú ý thấy Mauro đeu chuỗi vòng cổ bằng răng chó sói đến bên giường bệnh. Không ngờ gì nữa, chuỗi vòng là của mẹ Mauro, bà nuôi gia súc và là người giúp việc, tránh cho bà cái tiếng buôn bán dược thảo và làm nghề phù thuỷ. Diller thường giảng giải về những mối nguy hiểm của thói mê tín dị đoan, nhưng lúc này ông mỉm cười hiểu là một dạng yêu thương. Lúc Diller vặn nhỏ đèn và rời đi, ông không nhận thấy người bị thương đang quan sát qua kẽ hở của một trong những mí mắt không bị bầm tím của anh ta.
Chẳng cần biết quá nhiều về người bị thương đang nheo mắt nhìn vào bóng tối và tiếng kêu vù vù khe khẽ của chiếc quạt trần cánh bằng gỗ sồi. Tên anh ta là Cockran và anh nghe thấy tiếng rền rĩ của chiếc máy phát điện chạy bằng diesel, tiếng vo ve của muỗi duy nhất trong phòng, xa hơn và yếu hơn là tiếng nhạc vọng từ chiếc radio của bác sĩ, buồn bã và trữ tình một cách tàn nhẫn dường như làm đêm tối cũng bầm tím như thân thể anh ta vậy. Nhưng nước mắt anh đã cạn trong mấy ngày nửa thức vừ qua. Như bất cứ sinh vật nào đùa rỡn với cái chết, anh đã cố học được bản chất của sự đe doạ trước mắt. Anh biết lúc này chẳng còn mối đe doạ trực tiếp nữa, lẽ ra thấy nhẹ người anh lại cảm thấy như ngưng đọng, như thể anh ở bên ngoài vạn vật tiếp tục xoay theo những phép tắc mà anh không còn tham dự nữa.
Anh vừa bị đánh, vượt xa mọi ý định báo thù. Anh coi sự trừng phạt như một sợi chỉ dài kéo ngược từ hiện tại, từ căn phòng này đến gần ngày anh ra đời. Chắc là do tác dụng của thuốc an thần, đầu óc anh có một sự lạ lùng mới mẻ làm anh nhớ mọi sự như những chấm li ti dọc theo sợi dây đến cái hiện tại khó mà chịu nổi. Anh không thể ngăn được thứ gì, lồng ngực anh không thể thoát khỏi những dải băng. Anh đau quá không thể ngủ được và ngày mai anh sẽ phải cho bác sĩ biết anh đã tỉnh, để giảm bớt nỗi đau. Anh vui vui vì tính kín đáo, vì ý chí quyết sống vượt qua mọi thứ của anh mà anh hiểu rất rõ. Anh đã trải qua nỗi ân hận lúc để lại vết nhơ từ đoạn đời này sang đoạn đời khác. Anh đã chán sự tiếc thương và sức lực duy nhất còn lại đêm ấy là để mường tượng mọi chuyện đã xảy ra như thế nào, như thế là may lắm rồi.
Đó là đêm dài nhất của anh, và sự sống kích động nó na ná như luồng gió khắc nghiệt, lạnh lẽo, thông thống thổi qua bóng tối căn phòng: đầu tiên là viên bác sĩ lẩm bẩm cầu nguyện, trước lúc đó có một bà lão treo chuỗi vòng vào cột giường và đặt bàn tay lên mắt anh, rồi đến một thanh niên với động tác của một vũ công kéo tuột tấm vải che để nhìn anh. Sau đó là một khoảng không dài, tăm tối chẳng có gì xen ngang, một cánh cửa chớp lách cách, trên đó anh nhìn thấy cái yếm thịt màu đỏ son trên cổ con chim ó và nghe thấy âm thanh trong yết hầu phát ra từ cặp mắt vàng khè của con sói lúc con ó vỗ cánh bay lên trời và con sói nhìn chằm chặp vào anh, cả hai không thể hiểu nhau ngoài những cử chỉ đơn giản và hơi thở của anh rít lên qua những chiếc răng vỡ. Trước đó, chiếc ô tô xả khí và nảy lên, còn anh nằm trong thùng xe máu chảy đầm đìa, cố nén ho để khạc máu khỏi cổ họng và việc đó rất đau đớn, gần như quá sức. Sau đó anh bị ném mạnh qua không khí, rơi qua bụi cây, ngực anh đập vào một tảng đá, rồi lăn tròn và đầu anh đập vào cái gì đó.
Chẳng cần biết quá nhiều về người bị thương tàn tệ đến thế, vỹ của nàng. Dù vậy, nàng vẫn là gái làng chơi được ưa thích nhất trong nhà, phần lớn vì ai cũng biết chuyện và bọn đàn ông hiểu sự bất trung của đàn bà, cả thực sự thực lẫn tưởng tượng, và thân hình thon gầy, xanh xao của nàng trên tấm khăn trải giường vấy bẩn kinh thích thú tính của bọn chúng lên đến cùng cực. Song đến cuối tháng, mụ chủ chứa tham lam đã cắt khoản ma tuý của nàng, làm nàng phục hồi ý thức và đã rút khéo con dao trong túi một tên đàn ông rồi đâm vào cổ hắn lúc hắn đang hành hạ nàng. Tên đó là đốc công trong một đồn điền lớn và việc bất ngờ xảy ra đã gây nên chuyện tai tiếng ầm ĩ. Tibey mủi lòng và cho Miryea vào một dưỡng trí viện, do các bà xơ cai quản đám đàn bà và các cô gái mất trí. Hàng năm Tibey sẽ quyên góp một khoản tiền lớn với điều kiện nàng cứ bị giữ ở đấy. Dạo này, Tibey trở lại nông trại nhỏ của anh ta gần Tepehuanes, phía bắc Durango. Trĩu nặng cảm giác thương thân, anh ta phá trinh một số cô gái péone trong những cơn cuồng dâm, xen kẽ với những thời kỳ trầm cảm nặng nề, anh ta muốn đến nhà thổ, rồi sau đó lại đến tu viện và cố đòi lại niềm hạnh phúc đã từng có thời là của anh ta, cái hạnh phúc sao mà ngắn ngủi đến thế.
Mauro thức giấc trước rạng đông, mặc quần áo rồi chậm chạp xuống sườn núi đến hội truyền giáo. Anh ta sẽ lái xe đưa người bạn và ân nhân bí ẩn của anh ta, người không ai biết tên trừ các cảnh sát liên bang, đến Hermosillo để lên xe buýt hoặc máy bay, anh ta cũng không rõ nữa. Lúc Mauro đến phòng Cochran liền với chuồng cừu, Cochran đã ăn mặc chỉnh tề, hành lý xong xuôi và đang ngồi ở mép giường như trong trạng thái thôi miên. Mauro ngồi xuống ghế và khoanh tay nghĩ ngợi; anh ta hiểu tính nghiêm trọng trong nhiệm vụ của người này, anh ta muốn đi cùng để bảo vệ vì người bạn mới này có vẻ là người mơ mộng, khó mà giải quyết được những việc giết chóc khắc nghiệt. Cánh cửa bật mở, Cochran đứng phắt dậy, giơ con dao quà tặng ra nhưng chỉ là mẹ của Mauro mang cà phê và pan dulce cho họ. Cochran xin lỗi vì sự đón tiếp của anh và nói anh không nhận ra tiếng bước chân của người đã làm cho Mauro hạnh phúc, một người ghi nhớ tiếng bước chân không thể là người quá mơ mộng được.
Mất nửa ngày, chiếc Powerwagon già nua mới đưa họ đến Hermosillo. Ra đến đường cái, Cochran sửng sốt thấy những chiếc ô tô đầu tiên sau hai tháng, và chùn lại khi thấy một chiếc ô tô mới mang biển Indiana phóng nhanh qua. Chiếc xe tải quá ồn nên không nói chuyện được và Cochran nghĩ vẩn vơ rằng anh sẽ chẳng thích ngồi cạnh Mauro như một con chó vùng Alaska, chẳng bao giờ sủa trước khi cắn. Mauro vừa im lìm vừa nguy hiểm. Cochran đủ thông minh để hiểu rõ rằng sự đơn giản và quả quyết kia nằm ngoài tầm của một người đàn ông văn minh thực sự. Chí ít thì anh cũng chưa gặp người nào như thế trong đời và đâm ngờ không biết có người nào không. Một Chủ nhật lúc cưỡi con Percheron lên căn nhà nhỏ bằng gạch sống của Mauro, anh cảm thấy bắt đầu hiểu người này; trên tủ đựng quần áo có ban thờ người vợ quá cố của Mauro, bên dưới tấm ảnh cưới màu sắc loè loẹt là một đống những tấm da sư tử, một cây thánh giá bằng bạc giữa một đống sọ sư tử đã đã chuội trắng và một sọ sói rừng, có một bình cắm hoa tươi, con gái Mauro thay hoa hàng ngày, rõ là tưởng nhớ mẹ nó. Bình hoa đặt trên một cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Tây Ban Nha mà Diller cho, chưa dùng tới bao giờ. Mauro không thể đọc được.
Lúc này trong chiếc xe tải, Cochran đủ sáng suốt để hiểu anh đã đúng về việc định làm: anh có ít ý nghĩ, chỉ một mục đích; ý nghĩ của anh ít đến mức không cản trở gì đến nhiệm vụ rất rõ ràng của anh: giết Tibey và đưa Miryea trở về nếu nàng còn sống. Đầu óc anh trống rỗng đến mức thế gian như bắt đầu theo một cách kỳ cục, làm anh hài lòng vì chẳng có gì quấy rầy vẻ đẹp của thung lũng hoặc sự xấu xa ghê tởm của cuộc đời tạm bợ anh đang bước vào.
Lúc họ đến ngoại ô Hermosillo, anh bảo Mauro anh muốn ăn chút gì rồi tìm chỗ bắt xe buýt nhưng không vào trong thành phố, vì có cơ bị nhận ra. Sự tin cậy bứt rứt của Mauro vào người bạn càng vững chắc thêm.
Ở tận đầu kia của Hermosillo, họ tìm được một quán ăn bên đường, bãi đầy xe làm bến đỗ cho các xe buýt chạy về hướng nam. Trong sân cạnh bãi đỗ xe, họ giúp một người Texas đang dắt một con ngựa giống bất kham. Cochran nhận ra anh chàng Texas này là kỵ sĩ loại một nhưng anh ta ho dữ dội và có vẻ ốm yếu. Mauro làm quen với người Texas nọ trong lúc Cochran vỗ về con ngựa và đưa nó trở vào xe moóc. Người Texas bắt đầu rủa bằng tiếng Tây Ban Nha lúc anh ta đi lảo đảo, rồi dựa vào chiếc xe tải.
- Cái con chó đẻ này làm tôi khốn khổ nhưng mẹ kiếp, tôi nói với các anh là không được bình tĩnh lắm, hoặc tôi quẳng nó đi hay táng cho nó một cú đá cho cái của bú c... đắt tiền ấy, vì nó đã được mua được bán hay là tôi cho nó phát đạn vào giữa hai con mắt khốn nạn của nó. Nhưng tôi muốn sửa sang hình dáng nó cho tử tế, nên tôi sẽ cho nó uống thuốc kích thích để họ tưởng là vớ được một thằng đĩ đực ra trò, rồi tôi sẽ xéo ra khỏi cái đất nước khốn khiếp này, nó chỉ cho tôi những thứ cứt đái lúc tôi vượt qua cái biên giới khốn nạn ấy
Rồi anh ta chìa tay ra bắt tay Mauro và Cochran, rồi họ nói chuyện về những rắc rối trong việc chuyên chở ngựa giống. Cochran hiểu cái ra hiệu kỳ quặc của Mauro cho thấy anh chàng này thật ngây thơ. Anh chàng Texas liếc nhìn ngờ vực khi Cochran nói tiếng Anh thật hoàn hảo.
- Này ông bạn tôi tưởng ông là một campesino chính cống, anh hiểu không, một peóne ấy mà. Anh cũng bị những chuyện rắc rối ở đây phải không? Đi ăn với tôi đi. Chúng ta hãy uống vài cốc.
Họ đi vào quán ăn. Mauro uống bia và nói đến lúc anh ta phải đi vì đường về xa lắm. Anh chàng Texas cứ nài Mauro ở lại nhưng thật tệ nếu bỏ nhiệm vụ, vì không thể vắng xe cứu thương qua đêm. Cochran ra ngoài để kín đáo chào biệt - tiếng ồn ào trong quán làm anh bực bội - còn Mauro có vẻ lúng túng. Anh ta đưa cho Cochran một cái túi nhỏ.
- Mẹ tôi bảo anh đeo cái này. Bà nói nó sẽ giúp anh tiêu diệt kẻ thù. Tôi biết anh là dân trí thức nhưng đeo vào trong áo sơ mi không sao đâu.
Cochran mở cái túi. Đó là một chuỗi vòng bằng răng chó sói. Thâm tâm anh không mảy may tin vào những chuyện mê tín dị đoan, nhưng anh cảm kích vì hành động này.
- Anh nói giúp với bà là tôi rất sung sướng đeo chuỗi vòng này. Tôi chắc nó sẽ giúp tôi.
Trở vào quán, anh chàng Texas đang với những kẻ mê bia. Đồ ăn mang tới nhưng gã Texas chỉ nhìn chế giễu. Anh ta nói huyên thuyên về việc kiếm ngựa giống ở Arizona để bán ở Torreón. Anh ta được mười phần trăm nhờ mánh lới giao dịch giữa người gây giống và người bán ngựa.
- Nói thật với pardo, tôi chán cái mánh kiếm tiền khốn khiếp này rồi. Tôi có cả một bầy ngựa cái trong một trại chăn nuôi nhỏ ở Van Horn, nhưng vợ tôi đã bỏ tôi thế là tôi tiêu hết đàn ngựa cái đẹp đẽ ấy vào những bữa chè chén tuý luý và đàn bà. Hôm nào anh phải ghé lại vì lúc nào cũng có hai con hươu trong tủ lạnh và mấy cô ả dễ thương ghé qua. Mà này, trông anh đạo mạo thế anh có phải là kẻ nghiện ma tuý không đấy?
- Không. Tôi đang chạy trốn IRS - Cochran thích câu bịa của mình.
- Mẹ chúng nó. Đừng trả một xu. Tôi làm việc vì tiền và chúng nó không biết tôi còn sống, anh bạn ạ. Nếu chúng vào bãi của anh chỉ để săn bọn đồng tính - Anh ta ngừng lại và uống một ngụm lớn. Anh khai báo, thế là anh vào tù và cái bọn rồ dại ấy có trách nhiệm đè anh ra mà "tỉn". Chẳng bao giờ chúng để cho anh sống sót. Mà anh định đi đâu vậy?
- Xuống Durango, tôi nghĩ thế...
- Cứt, sao anh không nói. Anh đến gần chỗ tôi đấy. Cho anh đi nhờ miễn phí. Anh không muốn đi xe buýt cũng phải, ở đấy ai cũng tè lên ghế.
Anh chàng Texas gọi một cốc và Cochran chợt muốn nhảy điệu simmi, anh sung sướng vì được lái xe là việc anh rất cừ. Trông anh chàng Texas khoảng ngoài năm mươi tuổi nhưng khó mà nói chắc, rõ ràng anh ta sống vất vả. Anh ta có vẻ vênh vang tự mãn với cái thắt lưng bằng vỏ ốc và đôi giày ống bằng da trăn mác Tony Lama. Anh ta nháy mắt và kéo ve áo khoác vải bò lên, để lộ một khẩu 44 xanh lạnh lẽo.
- Thằng nào mon men đến cũng có thể mất chim. Tôi có thể bắn bay chim của một thằng đang chạy cách trăm mét, có khi hơn.
Cochran ăn ngon lành nhưng tự hạn chế chỉ uống hai cốc bia, anh nghĩ đến làn sóng tình cảm uỷ mị do uống với Mauro. Anh ngước lên khi nghe thấy một giọng nói oang oang bên cửa và tim anh nảy lên, anh rùng mình và toàn thân lạnh toát, ẩm ướt. Đó chính là tên khổng lồ trong đêm ở căn nhà gỗ, ăn mặc lịch sự đi cùng hai tên vệ sĩ lôi thôi lếch thếch. Cochran theo dõi lúc cái nhìn của tên đó quét khắp quán ăn, lướt qua anh nhưng hắn không nhận ra.
- Anh nhìn thấy ma hay sao thế? - Anh chàng Texas nhìn Cochran rồi nhìn tên khổng lồ trở lại phòng vệ sinh nam giới trong lúc mấy tên vệ sĩ ngồi ở bàn và bắt đầu tán tỉnh cô hầu.
- Thằng chó đẻ khổng lồ.
- Xin anh ra xe đi. Lát nữa tôi sẽ ra với anh - Giọng Cochran lạnh lùng và bình tĩnh, gã Texas gật đầu tỉnh táo, đứng lên và thảy một trăm peso lên bàn.
- Tôi đợi đấy, anh bạn. Cẩn thận nhé.
Cochran đi nhanh vào phòng vệ sinh nam, mắt nhìn xuống và đi nghiêng ngả như một peóne say rượu. Đến bên cửa, anh giấu con dao của Mauro trong lòng bàn tay và thở mạnh. Tên đàn ông to lớn đang đứng soi gương chải tóc và liếc nhìn Cochran có vẻ là một tên nghèo khổ. Cochran vã nước lên mặt, té cả vào tên khổng lồ, hắn quay sang ngay lập tức định nện cho cái thằng peóne ngu ngốc. Cochran khom người như nhận đòn và đưa lưỡi dao ngược lên, anh cầm cán dao bằng cả hai tay, rạch một nhát mạnh hết sức từ tinh hoàn của hắn ngược lên xương ức, rồi xoay con dao và ấn qua cổ tên đàn ông mở phanh đến tận xương cổ. Lúc tên khổng lồ lảo đảo anh đá mạnh, mở cửa một phòng vệ sinh và đẩy hắn đổ sầm lên ghế. Cochran liếc vào gương lau sạch máu, cười ngạo nghễ rồi bỏ đi không vội vã.
Anh chàng Texas đã đưa cái xe tải cùng moóc chứa ngựa ra trước quán rượu và mỉm cười lúc Cochran bước ra, đu đưa cái túi du lịch của Diller vẻ nhút nhát.
- Tôi lúc nào cũng thích người chiến thắng - Gã Texas nói lúc Cochran lên xe.
- Dù người đó không thân thiết - Anh dựa lưng vào ghế và chọn các băng lúc anh chàng Texas cho xe lượn vào đường cái. Anh ta muốn đến Culicán ban đêm nhưng ở Ciudad Obregón có nhà thổ tốt nhất trên thế giới, và anh ta thấy ngứa ngáy phủ tạng.
Đến giữa buổi chiều, Cochran lái thay trong lúc người Texas ngủ, còn anh đã chợp mắt ba giờ liền sau bữa trưa. Anh đỗ ở Los Mochis nạp gas và anh chàng Texas tỉnh giấc, ho dữ dội và há hốc miệng để thở. Anh ta kéo toang cái túi, dốc ra năm, sáu viên thuốc rồi uống bằng một chai bia trong thùng lạnh. Anh ta ôm đầu một lúc lâu và Cochran hoảng hốt lúc đưa xe trở lại đường cái. Anh lo bị truy đuổi, vì biết cảnh sát địa phương sẽ cho vụ giết người là vụ báo thù của một băng nhóm ma tuý và một chiếc xe tải biển số Texas chở ngựa giống là một triển vọng bất ngờ. Anh chàng Texas ngửa người trên ghế cố hít thở sâu và mỉm cười:
- Lạy Chúa tôi, anh đã lái qua Ciudad Obregón và tôi đã nghĩ đến việc dừng lại vì một bộ mông ngon lành. Anh sẽ chẳng bao giờ biết đây là lần cuối cùng và biết đâu tôi chẳng bị treo lủng lẳng lên một sợi dây ngắn ngủi. - Anh ta ngừng lời, lắng nghe băng Willie Nelsson trong máy - Tôi nghe thằng cha ấy hát từ nhiều năm trước ở San Antonio, trông hắn như một thằng hippi ti tiện, nhưng lại hát cực hay.
- Tôi mong là anh thấy dễ chịu.
- Anh bạn ơi, nếu tôi có thể cho anh một danh sách những việc sai lầm thì đó là việc cằn nhằn một người nào đó. Ở bệnh viện VA (1), vì tôi là một cựu chiến binh có thiện ý nên người ta bảo không hiểu vì sao anh còn sống và tôi nói tôi quá ốm để chết từ nhiều năm rồi. Tôi sắp chết, thật đấy. Họ muốn cái thân xác tôi, còn tôi thì nói tôi ỉa vào các anh, tôi mong sẽ được chôn cạnh mẹ tôi ở Van Horn.
Đêm hôm ấy họ nghỉ lại một khách sạn ven biển, bên ngoài Mazatlán.
Khách sạn đắt vừa phải và anh chàng Texas cho Cochran mượn ít quần áo ấm, anh ta nói sẽ đi xa về phương nam nên k biệt cũng được yên ổn. Trước khi gặp Miryea, anh đã có cuộc tình ngắn ngủi với một cô gái ở Corpus Christi, vừa tốt nghiệp Wellesley, nhưng sự huyền bí sớm tan biến vì ác ý, anh nhận ra rằng anh đã "trói" mình vào chuyện yêu đương này chỉ để khỏi buồn chán. Anh đã mất hai năm cố thu xếp cuộc sống dân sự, và hiểu rằng chẳng bao giờ anh giải quyết mọi việc một cách chính xác như trong hải quân, anh luôn có chuyện này nọ với người mẹ hay cáu, và anh là đứa con nuôi mồ côi mà bà đối đãi chẳng khác gì anh hành nghề vậy. Cô gái Texas ấy xinh đẹp, chân dài và sáng dạ nhưng quá trẻ và gàn gàn: cô như một ngôi nhà muốn được người ta lui tới, còn Miryea dù chỉ lớn hơn cô vài tuổi lại là ngôi nhà năng được lui tới. Anh chơi tennis ở nhà Tibey đã hơn ba tháng, song Miryea nhận ra anh chỉ vì tình cờ. Hôm ấy, sau bữa tối ở nhà Tibey, mọi người uống quá nhiều rượu vang, nàng bắt gặp anh đang ngắm nhìn những quyển sách trong thư viện của nàng, trong lúc những người đàn ông khác lao vào cá cược rất cao cho ván bi-a, còn cánh đàn bà đang trò chuyện về những Givenchys mới và vì sao Halston lại trở thành uỷ mị.
Sau nhiều chuyến du lịch ở Guatánamo, lần đầu tiên anh làm hướng dẫn và chuyến du lịch sau đó ở Torrejón anh đã nói tiếng Tây Ban Nha trôi chảy. Anh không chịu làm kẻ ngu, ngay từ hồi niên thiếu ở Indiana anh đã tháo rời một chiếc Ford V-8 xem nó hoạt động ra sao, và gia nhập Hải quân chỉ vì muốn làm việc với các động cơ phản lực. Anh luôn ngạc nhiên sao dân chúng lại đánh giá thấp sự hiểu biết về máy bay khu trục đến thế. Anh lao vào học tiếng Tây Ban Nha cẩn thận và có phương pháp. Miền Trung Tây đã nổi tiếng về loại thanh niên nông dân độc thân muốn hiểu biết mọi thứ, và ở Guantánamo, anh rất ngạc nhiên thấy người ta nói được nhiều thứ tiếng khác nhau, một câu hỏi không kèm phần hấp dẫn. Những anh chàng nông dân ấy rất biết nhìn xa trông rộng, Cockran thích sự sáng tạo trong ngôn ngữ và học tiếng Tây Ban Nha như một cuộc thử nghiệm, tìm tòi như một nhà thông thái ngốc nghếch, quen với lịch Tàu mà vẫn khư khư giữ tiểu thuyết và thơ. Không người nào trong số bạn bè dám hỏi vì sao anh là người đứng đầu thật tự nhiên và là người giỏi nhất trong mọi việc anh chọn làm, dù là đáng pool (3), bơi với một ống thở và chơi tennis, luôn giữ vai độc tôn trong những chuyện nhảm nhí như một thứ bẩm sinh và anh say mê hơn, táo bạo hơn mọi người, đến mức đáng ghen tỵ.
Lúc con người xinh đẹp này đến gần, anh đang cầm một quyển sách, tuyển tập Lorca mà anh rất quen in trên giấy vỏ hành (4), bìa bọc da ở Barcelona. Anh đã hoàn toàn nhầm lẫn vì thái độ hờ hững của nàng suốt ba tháng qua. Sự thể đã vượt xa ý định đánh "một cú" vào khu vực căng thẳng dành riêng, thành thử lúc nhìn thấy nàng anh mất hết vẻ duyên dáng, thoải mái và chủ động của mình. Anh cảm thấy nàng chỉ cần liếc mắt là anh đã bị gục ngã và hôm trước trong lúc đang bơi, anh đã phải uống một cốc mới dám nhìn nàng cắn miếng bánh mì kẹp trước khi nàng quyết định ngủ trưa, và Tibey đã nhún vai, một cử chỉ phổ biến tỏ thái độ không hiểu. Anh nghĩ với tư cách là bạn của Tibey, nàng cho anh là một kẻ làm ăn to đầu mà dại và anh đã khéo léo làm mọi thứ để xua tan ý nghĩ của nàng. Lúc nàng áp sát vào anh bên giá sách, anh nhận ra đây là lần đầu tiên anh nói chuyện với nàng chỉ có một mình. Nàng gõ nhẹ vào quyển sách trong tay anh và đọc tên sách. Nàng mỉm cười và trích dẫn Lorca (5) "Quiero dormir el sueno Deckẻ las mansanas, alearme tumulto de los cênterios...." (Tôi muốn ngủ một giấc diệu huyền, xa cách sự hỗn độn của các nghĩa trang...). Anh tưởng như chưa bao giờ nghe thấy lời nào đẹp hơn và nhìn đăm đăm lên trần nhà, đỏ mặt như một cậu học sinh thật thà, anh cũng trích dẫn bài thơ ấy đáp lại:
"Tu vientre es una lucha de raicer
y tus labios una alba sin nàngntro
Bajo las rosas tibias Decker la cama
los muertos gimen esperando turno"
("Bụng em là chiến trường của mọi gốc rễ
Môi em là ánh bình minh mờ tỏ
Dưới những bông hồng ấm áp trên giường
Người chết rên rỉ, đợi đến lượt").
Nàng nhìn anh đăm đăm trong giây lát và thái dương anh đập loạn xạ. Nàng đỏ bừng mặt và ngoảnh nhìn đi, còn anh muốn nói một câu ngốc nghếch nào đó cho đỡ căng thẳng nhưng không thể tìm ra lời. Nàng hếch cằm như đang nhìn một vật xa xăm và lúc nhìn vào cổ nàng, anh tưởng như thấy mùi thơm hoà trộn giữa cỏ ba lá và quả cam. Anh đánh rơi quyển sách xuống sàn và nàng cười phá lên rồi bỏ đi. Anh nốc hết một ly đầy brandy, rượu cứ dâng lên trong cổ làm anh trào nước mắt.
( 1 ) Mennonite: thành viên của giáo phái Cơ đốc, xuất hiện ở Friesland vào thế kỷ 16, giữ nguyên tắc tương tự như tín đồ Anabaptist, phản đối việc tắm rửa cho trẻ sơ sinh, tuyên thệ, tham gia quân ngũ và nắm giữ cơ quan dân sự. Trong các thế kỷ sau đó, nhiều người di cư sang châu Âu, Nga rồi đến Bắc và Nam Mỹ để tìm kiếm tự do về chính trị. (2 ) Mescal: loại rượu không màu của người da đỏ Mexico chưng cất từ lá cây thùa
( 3 ) pool (pun): một lối chơi bi-a có 16 viên tròn trên bàn, tương tự lối đánh 21 viên.
( 4 ) Giấy vỏ hành: một loại giấy mỏng, mặt láng
( 5 ) Federico Garcia Lorca (1899-1936): nhà thơ và nhà viết kịch Tây Ban Nha

Ăn tối xong, anh chàng Texas mời Cochran cùng đến một nhà thổ nhưng anh khước từ và nói anh sẽ cho ngựa ăn, uống cô và dẫn chúng đi dạo.
- Tôi đã chú ý thấy hôm nay là một ngày trọng đại của anh, chơi bời tí chút sẽ làm đầu óc anh xả láng.
- Không. Hôm nay tôi đã giết một kẻ tôi căm hận và tôi không muốn lẫn lộn niềm vui. Tôi muốn nằm trên giường và ngẫm nghĩ xem thú vị đến đâu.
Anh chàng Texas gật đầu và châm một điếu xì gà. Anh ta chẳng phải là người ngốc.
- Tôi nghĩ là anh có lý do của anh. Nhiều năm trước, tôi đã giết ngoéo một thằng ngủ với vợ tôi. Mất một năm mới làm được việc đó nhưng tôi mỉm cười nghĩ đến cái giày ống rỗng tuếch của thằng khốn đó
Anh chàng Texas thoả thuận với một người hầu gọi hộ chiếc taxi. Cochran trở về phòng, soi gương và ngắm kỹ mình. Anh rửa vết máu khô trên con dao của Mauro trong chậu, rồi sờ chuỗi vòng cổ lạ lùng. Anh huýt sáo một điệu dân ca và một nhịp cao vút lên run run đập vào tận cùng não anh. Anh biết anh chỉ mới vừa bắt đầu và không thể thiếu thận trọng, nếu không anh sẽ chết trong lúc gắng sức. Về mặt ham hiểu biết, anh là một trong những phi công mà khoảng cách đến mặt đất chưa lần nào xoá sạch nỗi sợ cái chết: trí tưởng tượng của anh quá lớn. Anh ra ngoài vừa dẫn ngựa đi dạo vừa rầu rĩ nghĩ đến anh chàng Texas đang loạng choạng, bấp bênh ven bờ cái chết, anh ta biết thế và đang cố sống gấp.
Anh thức giấc ngay sau rạng đông và hoảng sợ thấy anh chàng Texas không về. Anh tìm thấy anh ta trong chiếc xe tải, mặt xám ngoét, vạt trước áo sơ mi bết máu và những thứ nôn mửa. Cochran kiểm tra vết thương nhưng không thấy, và mạch đập loạn nhịp. Anh dẫn ngựa đi trong giây lát và băn khoăn không biết nên làm gì. Trở lại chiếc xe, anh chàng Texas hé mắt nhìn anh và đòi bia. Anh lấy một chai bia khỏi nước âm ấm trong thùng lạnh và nhìn gã Texas uống thuốc.
- Anh đến bác sĩ đi, anh bạn.
Anh chàng Texas gật đầu và thiếp đi. Cochran tìm ra đường 40 đến Durango và Torreón, rồi đỗ lại uống cà phê để suy nghĩ cho thấu đáo. Anh biết một kẻ láu cá sẽ bảo bỏ quách anh chàng kia mà làm việc mình. Nhưng anh không đành lòng làm thế, đằng nào cũng mất thêm một ngày rồi. Anh trở lại xe tải và lúc này mắt người Texas đã mở:
- Tôi có thể thấy anh đang nghĩ ngợi. Cái lão già trời đánh này sắp chết trong tay ta sao? Mình sẽ làm gì vì lợi ích của Chúa và làm gì với con người chết dẫm này? Đừng lo, anh chỉ cần giúp tôi giao con ngựa này và tôi sẽ đền đáp anh xứng đáng. Tối qua tôi đã nói với bà chủ rồi, có lẽ đây là lần cuối cùng của tôi và bà ấy đã làm một việc tốt lành - Anh ta lẩm bẩm những câu này trong lúc Cochran vừa bối rối nhìn ra ngoài cửa xe vừa chăm chú lái xe theo con đường núi gấp khúc đến Durango, vì anh chàng Texas lại rơi vào giấc ngủ say sưa.
Tuy vậy sau bữa ăn trưa ở Durango, chàng Texas khoẻ hơn lên và họ lên đường đến Torreón. Cái điều hoà nhiệt độ bị hỏng và trong xe nóng như một cơn ác mộng. Anh ta nói huyên thuyên về việc kinh doanh ngựa trong khi Cochran tự lự nghĩ ngợi về Durango. Có lúc anh đã nghĩ đến việc thoát khỏi cái vỏ khách du lịch, Mexico có nhiều thứ trở nên khó hiểu, gần như phong kiến, khó lòng chuyển đến mà không bị chú ý. Anh rất cần nghĩ ra một vỏ bọc và làm lái buôn ngựa không ổn. Anh có thể sử dụng mối quan hệ với chính quyền thành phố Mexico của bạn anh, mặc dù anh không muốn. Anh phải đủ khéo léo để đến với Miryea mà không bị giết. Giữa đường đến Torreón anh giật mình thấy anh chàng Texas túm lấy cánh tay anh:
- Cái thằng cha to con ấy đập vào mắt anh phải không? Hay còn làm gì hơn? - Lúc này anh ta bừng bừng giận dữ và nắm chặt bàn tay nhiều lần - Anh không phải nói gì hết. Nói thật với anh tôi là kẻ bỏ đi, nhưng đây là một đất nước đẹp đẽ và tôi chẳng bao giờ muốn chêt ở nơi nào xấu xí. Tôi đã mơ ước được chết ở Big Timber, Montana. Chỉ cần để tôi dưới một tảng đá cho ra trò vì tôi không muốn lũ chim ó xâu xé tôi mà thôi.
Giây lát sau họ đến một đồn điền tráng lệ có cổng kép, có lính gác, một trại tập trung rào dây thép gai, nhiều khuôn viên ngay hàng thẳng lối, bể bơi, sân tennis, vòng đua ngựa, một toà nhà sang trọng và nhiều chuồng ngựa. Họ uống sherry (2) trong lúc đợi baróne tới. Anh chàng Texas nhận một hộp xì gà mở sẵn đựng tiền và đóng ngay lại không cần đếm.
- Tôi cho rằng tôi sẽ về đến nhà mà không dùng đến số tiền này - Anh ta nói bằng tiếng Tây Ban Nha, kiểu cách ngạc nhiên.
Baróne cười và nói bằng thứ tiếng Anh đặc giọng Oxford:
- Tôi rất thông cảm với nỗi lo của anh - Ông ta đưa cho anh ta tấm thiếp - Chỉ cần nhắc lại tên cho bất cứ ai làm phiền anh. Chúng sẽ chạy như thỏ.
Họ được dẫn tới nhà khách cạnh dãy chuồng ngựa, được dọn ăn và một chai Scotch. Ban đêm, chàng Texas kể chuyện về mẹ rồi đi vòng quanh, hết cười lại khóc và uống rượu. Quá ba giờ sáng anh ta chết và Cochran điều chỉnh anh ta theo tư thế ngồi để cái xác chết cứng ăn khít với ghế trên xe.
Lúc rạng sáng, Cochran khuân chàng Texas vào trong xe tải và kéo cặp kính Stetson che mắt anh ta. Anh vẫy tay chào những người lính gác trên đường ra cổng kép và chôn người Texas cách đường cái mấy dặm, dưới tảng đá lớn như anh ta mong muốn. Có ba con bò nhìn thoáng qua vẻ tò mò. Cochran lái thẳng qua thành phố Mexico, thỉnh thoảng chợp mắt một lúc. Trên đường về qua Durango, anh huýt sáo bài hát ngắn của Miryea để lấy sức mạnh. Lúc này anh là người khó mà đánh gục, anh đang trên đường đi tới. Có lẻ nào đó đã lấy mất tinh thần của anh và anh nghĩ phải giành lại bằng được. Anh ở thành phố Mexico hai mươi tư giờ và bỏ chiếc xe tải cùng xe moóc ở bãi đỗ xe của sân bay. Anh mặc bộ quần áo đẹp nhất của anh chàng Mexico để trong xe moóc và đi taxi đến Camino Real, hộp xì gà cắp dưới cánh tay.
Nữ tu viện mà Miryea bị giam giữ như một nhà tù cách Durango bảy dặm, là nhà nghỉ nông thôn của quý tộc thế kỷ mười tám, hiện đã suy sụp đôi chút ở ngoài rìa nhưng nhìn từ xa vẫn đẹp, làm anh nhớ tới Normandy. Sau quá trình giải độc, chữa cho nàng khỏi cơn nghiện cưỡng bách suốt một tháng ở nhà thổ, nàng được ra khỏi phòng và đi lang thang trong sân với các bệnh nhân khác được coi là cư xử tốt, dù hưởng tự do tối thiểu. Nàng bị coi là một tu nữ thô kệch, có ria mép canh gác cẩn thận. Không sao có dịp tiếp xúc với một tù nhân đem lại lợi nhuận như thế. Mẹ bề trên trưởng viện đặc biệt ghê tởm Miryea; làm sao một phụ nữ dòng dõi quý phái và được giáo dục tử tế như thế lại nghiện ma tuý và là một gái điếm điên rồ trong một nhà thổ rẻ tiền nhất, bộ mặt bị một tên ma cô nào đó huỷ hoại. Bức thư do tài xế của Senor Mendez đưa trình là một lời yêu cầu xé lòng, xin cứu rỗi tâm hồn tội lỗi của người đàn bà khốn khổ. Nhưng mẹ bề trên bản chất tốt bụng nếu được hối lộ một món tiền nhỏ, và sau một tháng đã cho phép Miryea đặt mua ít sách từ thành phố Mexico, dù mẹ kiểm tra thư từ rất kỹ càng. Các cô gái chỉ nhỉnh hơn trẻ con một chút bị chứng loạn thầnkinh được những người thân khác chăm chút, chỉ có ba cô bé mắc chứng tự kỷ là hoàn toàn lẻ loi trong bóng tối câm lặng, vì chúng chẳng phản ứng lại với ai. Miryea quyết định phải có trách nhiệm đặc biệt với chúng, nàng tìm đọc sách để tìm hiểu bệnh này. Nàng ngồi suốt nhiều ngày trong mảnh sân ngập nắng với ba đứa trẻ, giúp chúng mặc áo quần và cho chúng ăn, ru chúng ngủ và sử dụng khiếu dí dỏm đặc biệt của nàng để cố gợi nên một phản ứng nào đó. Nàng lo lắng chà xát vết sẹo trên môi đã lành thành một sợi mảnh những mô cứng. Nàng hơi khó chịu, vì ý nghĩ của nàng hay trở lại những mùa hè thơ ấu ở Cozumel. Nàng và chị gái suốt ngày bơi, hái hoa, nhặt vỏ ốc và lúc gia đình không có khách, lại cùng cha đi chơi Vịnh trên chiếc thuyền câu cá lớn của ông. Cha nàng đã mất từ nhiều năm trước, nếu không chắc chắn ông sẽ tới giúp nàng. Một trong những phó thuyền trưởng đã làm tình với chị nàng lúc chị nàng mới mười ba tuổi, và cha nàng đã dìm anh ta chết đuối trong một chuyến đi biển dài đánh cá cờ. Nàng không dám mong người yêu của nàng sẽ tới cứu nàng, dù nàng không chịu tin anh đã chết. Một ngày nào đó nàng sẽ ra khỏi nơi đây và giải toả điều tổn hại to lớn nàng đã gây ra cho anh, biết đâu anh sẽ không ghê tởm những vết sẹo này, họ sẽ lại là một cặp yêu nhau, song chỉ sợ là chuyện quá hão huyền. Những lúc mơ màng nàng thường mất hết liên hệ và khi tỉnh lại, nàng ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống, nàng chắp hai bàn tay vào nhau và nhìn quanh phòng hoặc mảnh sân với vẻ tò mò, hoảng sợ thật sự. Khi nỗi hoảng sợ trở nên đặc biệt kinh khủng, nàng cố tìm mọi cách thoát ra mà không nổi, nàng thường tìm một chỗ, ngồi khóc nức nở cho đến lúc đủ bình tĩnh trở lại nhiệm vụ của nàng. Người khác nhìn nàng không thể thấy dấu hiệu nhìn thấy hoặc nghe thấy, giống như những con cún mù và điếc.
Trở lại nông trại bên ngoài Tepehuanes, Baldassaro Tibey rầu rĩ nhìn mùa thu đã hết. Từ phòng ăn sáng, anh ta có thể nhìn thấy Cordillera của Sierra Madré nhưng những ngọn núi đem lại cho anh ta nhiều ý nghĩ xấu xa về người cha Tibey coi là quý phái hơn anh ta nhiều. Ông đã từng là bạn thân của Eufemio Zapata, anh trai của Emiliano và là trung uý trong cuộc Cách mạng. Ông mất khi Tibey lên mười vì vết tích của nhiều vết thương, vì nhiều năm cưỡi ngựa, uống rượu và chiến đấu gian khổ. Nhiều ông già ở Culiacán vẫn kể về ông và bất chấp sự giàu có của Tibey, họ không cho anh ta một chút vinh dự dù chỉ là mơ hồ. Tibey vốn là người sắc sảo song lại có tính duy tâm, hồi trẻ anh thường mơ thành người lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa phi lý nào đó. Mặc dù phát đạt, Tibey giống như nạn nhân của những giấc mơ anh ta đã xây đắp từ năm mười chín tuổi, cái tuổi mà tất cả chúng ta đều vô lý đến cực điểm. Mười chín là lứa tuổi của người lính bộ binh hoàn hảo, có thể chết mà không kêu ca, trái tim rực lửa yêu nước. Mười chín là lứa tuổi mà tâm trí của một nhà thơ non trẻ trong căn phòng đi thuê bay vút lên cao nhất, vui sướng đón nhận những khổ sở và coi là hiện thân của thần thánh. Mười chín tuổi là năm cuối cùng của một phụ nữ trẻ lấy chồng chỉ vì tình yêu. Vân vân. Những giấc mơ săn đuổi tâm hồn, và bốn chục năm sau Tibey vẫn cảm thấy bị dồn vào thế bí. Anh ta rất khó ngủ, trở nên lơ đễnh và hốc hác. Tibey đi máy bay lên thẳng cùng viên quản lý nông trại bắn đến ba tá sói đồng cỏ quấy phá đàn cừu, trong lúc thừa biết có khi chỉ là một con sói già lụ khụ phá phách. Miryea đã buộc anh ta hứa không bắn loại sói này, nàng đưa cho anh một quyển sách và anh ta đọc vì tò mò. Tibey đã hứa. Anh ta như một đứa trẻ trong tay nàng. Nàng là sự giải thoát duy nhất khỏi những thứ anh ta có trên đời. Nàng kéo anh ta trở lại tuổi mười chín. Giờ đây, cả hai đang trong những cơn ác mộng và nhiều lúc thức dậy, Tibey vẫn cảm thấy trong bàn tay khoảnh khắc lưỡi dao cạo rạch qua môi nàng và chạm phải răng nàng.
Ở Camino Real, Cochran được biết rằng chẳng có gì giá trị ngoài một dãy phòng anh thuê. Anh nói giọng Texas màu mè, hợp với trang phục của anh. Anh bỗng muốn ra khỏi hành lang này khi nhớ đến bữa tiệc sau khi thắng trong cuộc đấu tennis với Tibey. Anh gọi mang bữa tối và một chai vang lên phòng, cảm thấy mệt mỏi thấm thía và bồn chồn lo sợ. Anh tắm thật nhanh, lấy hộp xì gà đựng tiền nhét vào trong người. Ăn xong anh sẽ đếm số tiền để không phải băn khoăn nghĩ ngợi làm gì, và sẽ có ngày lần ra dấu vết những người thừa kế của anh chàng Texas ở Van Horn, có khi trang trải cho người nhân giống ngựa, nhưng anh còn ngờ lắm. Anh gọi điện cho anh trai của người bạn phi công ở Aeromexico. Người đó thân ái chào mừng anh đến thành phố Mexico, bảo nói qua điện thoại không tiện và dặn anh đừng rời phòng, anh ta sẽ đến khoảng giữa buổi sáng xem có giúp được gì không. Cochran ngủ ngon lành, khẩu 44 xanh lạnh lẽo của người Texas để dưới gối.
Đến rạng đông,anh gọi cà phê và ngồi ngoài ban công nhìn xuống khu vườn, mơ màng cho đến lúc người đầu tiên là bác làm vườn đến, anh mới trở vào phòng để nghiền ngẫm kế hoạch báo thù và tồn tại, hai bản năng hiếm khi kết hợp với nhau mà vẫn giữ được an toàn.
Lúc người đàn ông đến, ngay từ ban đầu Cochran đã không ưa sự ngọt ngào trong bộ complê xám nhạt kẻ sọc hồng, cái vỏ ngoài sơn phết khéo léo đến thế trên mặt một chính trị gia. Anh ta có vẻ lo lắng và đề nghị Cochran nói tiếng Castilia mà anh ta cũng thông thạo. Cảm thấy vừa ý, người đó nói không thể giúp gì cho Cochran về chuyện Tibey ngoài việc giới thiệu cho anh nhận dạng và sự giúp đỡ của một người anh có thể tin cậy, một người bạn lâu năm có tên tuổi là Durango. Người đó giải thích rằng họ đã làm nhiều phim ở Durango, thường là phim cao bồi của Mỹ và Mexico, nên Cochran có thể đi lại thoải mái dưới danh nghĩa là chủ một nhà máy dệt từ Barcelona đang quan tâm đến kinh doanh bất động sản và phim ảnh. Anh ta mở cặp và đưa cho Cochran mấy cái thư giới thiệu đầy sức thuyết phục và tiền, song Cochran từ chối, anh nói anh đã có khá nhiều tiền. Cả một khẩu 38 ly của Cảnh sát đặc biệt mà em trai anh nhờ chuyển. Cochran cười và nói anh đã vũ trang đầy đủ. Người đó trở nên nghiêm trang và đưa cho Cochran một xấp tài liệu về Tibey, anh từ chối và nói anh đã có đủ.
- Anh nên hiểu Senor Mendez là thứ anh gọi là kẻ rửa tiền; tôi muốn nói hắn rất có uy thế chính trị và hiện nay tiền của hắn là sạch sẽ. Anh sẽ chết một cách chắc chắn và em trai tôi, người mà tôi yêu thương rất lo cho anh. Kể cả bộ quần áo lố bịch này nữa, tôi biết chắc dễ chết hơn là sống. Bạn tôi ở Durango chưa thấy dấu vết gì của người phụ nữ ấy nhưng vẫn đang tích cực tìm kiếm.
Lúc này Cochran thấy thích người đàn ông và cố đoan chắc với anh ta, nhưng anh ta nhấp từng ngụm một và nhìn lảng đi. Anh ta nói đã nhận được tin nhắn của một người là Mauro ở hội truyền giáo, người đã tiễn Cochran đến. Hermosillo và ngay sau khi họ ra đi lúc rạng đông, một tên khổng lồ và hai tên tay sai đã đến, trông đằng đằng sát khí.
- Tôi đã moi ruột thằng khốn ấy như một con lợn béo ị - Cochran nói và cười gượng.
Người đàn ông gật đầu như được an ủi. Trước khi ra về, anh ta đề nghị Cochran huỷ số điện thoại của anh ta sau khi nhớ kỹ. Anh ta có em trai, nhưng cũng có vợ con và một tương lai đầy triển vọng.
Cochran mất cả buổi chiều đi may cắt quần áo cho giống một thương nhân ở Barcelona. Anh bỏ ra vài ngàn đô la và nhét hộp tiền vào bên trong tivi. Anh mua mấy bộ complê và các thứ phụ kiện, chải tóc, tỉa râu và cắt sửa móng tay cho đúng kiêể, rồi đặt một chỗ trong chuyến bay sớm mai đến Durango. Anh luyện giọng như người nước ngoài nói tiếng Anh, thỉnh thoảng lại bỏ quên mạo từ. Anh gửi cho con gái một bức thư dài, nhắc lại anh mong sẽ sớm về nhà, và gần đây anh hơi buồn vì con chó săn chim Doll của anh đã bị ô tô chẹt chết. Sẩm tối, anh gói ghém hành lý vào một bộ vali mới, đắt tiền. Anh ăn qua loa và nằm trần truồng trên giường trong bóng tối, lắng nghe một bản giao hưởng của Bach trên đài.
Anh nằm đó thao thức, nhớ đến một buổi tối, anh đã cãi nhau một trận nho nhỏ với Miryea trong căn hộ về một vấn đề văn chương ngốc nghếch, ai giết ai trong Pascual Duarte, một loại sách hành động, và tối hôm đó trong lúc anh nói ba hoa đã len vào một vẻ trơ tráo nhất định. Anh biết anh tranh cãi chẳng qua vì hormone khuấy động cân não và cả "cái ấy" của anh mà thôi. Anh là người nói hay, nhưng nàng cứ ráo riết truy nã tính ương ngạnh của anh không thương tiếc, nhắc anh rằng ngôn ngữ là thứ có ích cho trái tim chứ không phải là cái dùi cui để sử dụng. Anh úp gối lên mặt vì ngượng ngập và hét lên rằng ơn Chúa, xin hãy tha cho cái bệnh to mồm của tôi đi. Anh nghe thấy nàng cười và dưới bóng của chiếc gối, anh cảm thấy miệng nàng đang mơn trớn anh. Anh đẩy nhẹ gối lên phía trên mắt nhìn thấy đầu gối nàng và bất chợt có một cảm giác rõ ràng, liên hệ đến nhiều thứ vì anh chưa bao giờ nhìn vào đầu gối một người đàn bà. Anh ngước mắt nhìn lên cho đến lúc thấy toàn thân Miryea, và trong giây lát dường như lần đầu tiên thấy vẻ ngỡ ngàng của nàng. Anh lặp lại cảnh mộng mới lạ này, lướt cái nhìn từ những ngón chân cong cong đến mái tóc đen bóng đổ dài trên bụng nàng. Tình yêu của anh dành cho nàng vừa toàn vẹn, vừa mãnh liệt không chịu nổi. Sau này anh kể lại chuyện ấy và nàng có vẻ hiểu tường tận. Tâm trạng anh nhẹ nhõm như thể lần đầu tiên anh lĩnh hội được cuộc sống thực tế ở ngoài con người anh: nó an ủi anh lạ lùng, làm anh ngủ dễ dàng vì không còn quan tâm đến có ngủ được hay không nữa. Anh nhanh chóng miệt mài nghiên cứu, cố hoà hợp kinh nghiệm với cấu trúc ngôn ngữ, như thể cuộc đời là một tấm gương đặc biệt ô trọc và tình yêu không thể diễn đạt bằng lời đã tẩy rửa tấm gương ấy, làm cho cuộc sống không những chịu được mà còn sống chung với sự háo hức, với nghị lực, với sự ngóng chờ, niềm vui sướng, không phụ thuộc vào số mệnh.
Anh ngủ yên suốt buổi sáng cho đến giờ lên đường, nhưng chỉ bình tĩnh khi thuê được chiếc Beechcraft, anh ăn sáng và lên taxi ra máy bay. Đó là buổi sáng đẹp nắng, trong sáng và ban đêm có mưa ngắn kèm thêm gió nhẹ thổi từ phương Bắc, xua tan không khí bẩn thỉu hàng ngày của thành phố Mexico thành sạch sẽ và trong trẻo. Đứng trên lớp nhựa đường, anh ngưỡng mộ ngắm nhìn những ngọn núi ở phương nam, quên hẳn hiện tại đang phải chịu. Người phi công tỏ ra cung kính và họ bay vào luồng gió ngược lồng lộng và thấp để nhìn khắp vùng. Họ bay qua Celaya, Aguascalientes, trên những phế tích Quenmada và Frensnillo, trên biên giới Zacatecas và tỉnh Durango và thủ phủ của nó có cùng tên. Họ lượn chiếc máy bay nghỉ ở Guadalajara ít phút. Một người đàn ông tên là Amador đang đợi anh.
Chú thích
( 1 ) Mescal: loại rượu không màu ở Mexico, chưng cất từ lá cây thùa
( 2 ) sherry: loại rượu màu vàng hoặc nâu, có nguồn gốc từ Tây Ban Nha.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Chipms
Nguồn: Chipms
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 8 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Báo thù Huyền Thoại Mùa Thu