Dịch giả: Tĩnh Hà - Kiều Oanh
Chương 31
Đường đến Watergate

Các băng ghi âm và biên bản công khai cho thấy hai phản ứng khác và phần nào trái ngược nhau của Nhà Trắng khi Hồ sơ Lầu Năm Góc lên trang ngày 13-6-1971. Một mặt, bản thân Nixon tỏ ra lạc quan với các nội dung được công bố, trong đó có những thông tin không mấy tốt đẹp về các Tổng thống tiền nhiệm, người của Đảng Dân chủ. Nhưng đồng thời ông sợ rằng sự việc sẽ là một tiền lệ cho những tiết lộ nay mai về hoạt động và chính sách bí mật ông ta đã và đang áp dụng với Đông Dương. Hai thái độ có phần trái ngược nhau chính là cơ sở dẫn đến những hành động của Tổng thống và người của ông. Nó đưa Nixon đến sự sụp đổ hoàn toàn về chính trị mà người ta vẫn gọi tên là vụ Watergate.
Nixon và Henry Kissinger lần đầu tiên nhắc đến vấn đề trên vào một ngày chủ nhật. Hai thái độ đã được bộc lộ. Gọi điện cho Tổng thống từ California, Kissinger bình luận:
"Theo dư luận(105), sự kiện này có thể sẽ có phần thuận lợi cho ta. Đây sẽ là cơ hội tốt để người ta thấy các chính quyền trước đã đẩy chúng ta đến với Việt Nam như thế nào… Tôi cho là dư luận cũng đã tự phát hiện ra vấn đề rồi, vì… nếu trước đây họ quy kết đây là cuộc chiến tranh của Nixon thì những gì bài báo chỉ ra là, nếu có là cuộc chiến tranh của ai đó thì đấy chính là chiến tranh của Kennedy, là chiến tranh của Johnson… Vì thế nếu phe Dân chủ vẫn luôn phàn nàn rằng… chúng ta sai lầm, thì nay đã rõ ràng … ai phải chịu trách nhiệm trước hết cho mớ hỗn độn này…"
Nó đã là một lời buộc tội chính quyền trước.
Sang ngày hôm sau Tổng thống mới tỏ ra thoải mái hơn với cách giải thích này. Nhưng ngay từ đầu ông đã lo sợ các hồ sơ "Lào và Campuchia"(107) - cụ thể là những đợt ném bom - trọng tâm trong các mục tiêu và chiến lược bí mật của Tổng thống có thể bị lộ ra ngoài từ chính Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng.
Dù sao, Tổng thống cũng sẽ chỉ lo lắng nếu có những tiết lộ về chính quyền của ông. Ngoài ra ông không hề bận tâm tới các tiết lộ về đời những Tổng thống trước. Ông không sợ ảnh hưởng đến khả năng tiếp tục chính sách đối ngoại bí mật của mình. Quá lạc quan Nixon còn trông chờ những tiết lộ mới, chứng minh cho sai lầm của các lãnh đạo của đảng Dân chủ, đặc biệt là Kennedy. Với ông, Ted Kennedy là đối thủ khó chơi nhất trong năm 1972. Ông hy vọng những loạt bài này sẽ còn tiếp tục để gây thêm tai tiếng cho gia đình Kennedy.
Thứ hai, ngày 14-6, khi tờ Thời báo đã đăng được hai kỳ, vào 7 giờ 13 phút tối, Nixon trao đổi với Cố vấn đối nội, John Ehrlichman:
Ehrlichman: Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp (Mitchell) (108) đã gọi đến nhiều lần về những bài báo trên Thời báo New York. Bộ Tư pháp cho rằng nếu Bộ trưởng không cảnh cáo tờ Thời báo, thì ông có thể sẽ phải rút bỏ quyền khởi tố tờ báo này. Ông muốn biết liệu Tổng thống có đồng ý cảnh cáo Thời báo trước khi số báo đầu tiên của họ được tung ra vào ngày mai hay không?
Tổng thống: Hmmm.
Ehrlichman: Tôi thấy có những dấu hiệu không thuận lợi cho vấn đề này nếu tính đến cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội (dự kiến vào thứ tư về dự thảo luật McGovern-Hatfield về cắt giảm ngân sách chiến tranh từ tháng 12-1971).
Tổng thống: Ý cậu là khởi tố tờ Thời báo?
Ehrlichman: Đúng thế.
Tổng thống: Quỷ thần ơi, tôi không muốn truy tố tờ báo. Tôi muốn truy ra tên khốn nào đã cung cấp tài liệu cho bọn họ.
Ehrlichman: Vâng, nếu chúng ta tìm ra kẻ đó.
Tổng thống: Đúng vậy… Tôi muốn rằng, chúng ta có thể kiện tờ Thời báo được chứ?
Ehrlichman: Hiển nhiên là được.
Tổng thống: Hãy đợi nào - đợi đã - có phải ngày mai bọn họ sẽ đăng thêm một câu chuyện?
Ehrlichman: Vâng.
Tổng thống: Tại sao không đợi đến ngày mai?
Ehrlichman: Đề nghị của Bộ trưởng là, ông nghĩ chúng ta nên có một hình thức cảnh cáo trước như thế nào đó với tờ Thời báo và sẽ tiếp tục làm như vậy nếu bọn họ vẫn không dừng lại. Như thế sẽ không mất đi quyền khởi kiện. Nhưng nếu không cảnh cáo trước, chúng ta sẽ bị xỏ mũi - ngồi đây và để bọn họ mặc sức mà không tỏ thái độ phản đối.
Tổng thống: Hãy đợi một ngày nữa. Cho bọn họ thêm một ngày, còn sau đó thì… tôi cũng chưa biết… chưa biết.
Kể cả trong lúc trò chuyện với Ehrlichman và với Mitchell ngay sau đó, dù lúc này đã đồng ý để Bộ trưởng Tư pháp đưa ra một lời cảnh cáo "sơ bộ"(109) cho tờ Thời báo ngay chiều hôm sau, Tổng thống cũng chưa hề nhắc đến lệnh đình chỉ xuất bản từ toà án. Họ mới chỉ nghĩ sẽ truy tố tờ Thời báo và người đứng đằng sau. Nội trong ba ngày đầu tiên, qua tất cả những biên bản ghi âm, chúng ta chưa một lần nào nghe thấy Tổng thống hay các cộng sự Nhà Trắng của ông, thậm chí Kissinger, bày tỏ ý kiến mượn lệnh của toà án để ngăn chặn việc xuất bản. Hình như chỉ Mitchell và Bộ Tư pháp mới ngro và Tổng thống Indonesia Sukamo. Những việc làm trên đều trái với chức năng pháp lý của CIA. Cơ quan này không được phép tham dự vào các mật vụ, hoạt động cảnh sát, hoạt động tình báo trong nước, kể cả hoạt động phản gián. Tất cả đều thuộc thẩm quyền riêng biệt của FBI.
Cơ quan này cũng chưa từng xây dựng một hồ sơ nào như là một bệnh án tâm lý của một công dân Mỹ (vì biết pháp luật không cho phép). Nhưng Giám đốc Richard Helm ra lệnh phải hết sức kín đáo về nhiệm vụ này nên các nhân viên CIA dù cảm thấy bất an vẫn phải hoàn thành yêu cầu của Nhà Trắng.
Khi được Đại bồi thẩm đoàn hỏi về những vi phạm khác trong kế hoạch của Nhà Trắng, Hunt đã nói đến hai bức điện tín làm giả sự liên luỵ của Tổng thống Kennedy vào vụ ám sát Tổng thống Diệm, do Colson thúc giục ông ta. Cố vấn Nhà Trắng Dean, đang mặc cả với công tố viên để được quyền miễn trừ truy tố trách nhiệm chỉ đạo che đậy vụ Watergate và những vi phạm khác của Nhà Trắng. Sau những tiết lộ với các công tố viên ngày 15-4 về vụ trộm tại văn phòng bác sĩ Fielding, Dean nói đến khả năng những bức điện tín đã bị tiêu huỷ. Khi ông ta lục tìm trong két an toàn của Hunt tại Nhà Trắng, chỉ vài ngày sau sự kiện Watergate, ông ta thấy có hai bức điện tín giả mạo cùng những hồ sơ liên quan đến tôi - hai bệnh án do CIA xây dựng và các thông báo Hunt gửi cho Colson báo cáo về hoạt động tại Nhà Trắng của ông ta. (Trong các thông báo này cũng thấy nói đến cuộc điều tra bí mật đối với Ted Kennedy, trong đó Hunt lần đầu dùng đến những tài liệu nguỵ trang do CIA cung cấp).
Ehrlichman gợi ý Dean tiêu huỷ tất cả những tài liệu này vì chúng sẽ trở nên đặc biệt nhạy cảm (và có thể liên luỵ đến các nhân viên Nhà Trắng, kể cả ông ta) trong một năm bầu cử như năm nay. Đối với các đồ vật lớn hơn tìm thấy trong két an toàn như chiếc cặp đựng đạo cụ nghe lén, Dean có thể phi tang trên đường ông ta trở về nhà đi qua cầu. Dean lại không chịu làm hai việc này, vì hai lý do: Việc đó phạm pháp và đã có rất nhiều người thấy ông ta sở hữu chúng. Ông cho là vì Ehrlichman cũng đi qua con cầu đó trên đường trở về nên Ehrlichman có thể tự mình ném chiếc cặp nếu ông thấy hợp lý. Cuối cùng hai người nhất trí với nhau là nếu cần ai đó tiêu huỷ những vật chứng thì người đó nên là quyền Giám đốc FBI, L. Patrick Gray, một người rất trung thành với Nixon.
Theo lời Gray, họ mời ông tới văn phòng của Ehrlichman rồi trao cho ông hai chiếc phong bì dán kín lấy ra từ két an toàn của Hunt (có những hồ sơ như trên). Dean mô tả đây là những hồ sơ "cực kỳ nhạy cảm và vô cùng bí mật" nằm trong két của Hunt, có thể trở thành những "quả bom tấn chính trị" nhưng không liên quan gì đến vụ Watergate. Ông ta nói: "Không thể đưa chúng vào hồ sơ của FBI và cũng không được phép để chúng lộ ra ngoài. Đây, anh cầm lấy đi". Sau này Gray khai nhận là từ những cảnh báo này Dean, người thay mặt Tổng thống và có sự hiện diện người trợ lý của Ngài, ông suy luận nhiệm vụ của mình là tiêu huỷ các hồ sơ này. Và ông ta đã làm như thế. Nhưng lời khai của Gray lại không nhất quán. Khi thì ông ta nói rằng đã tiêu huỷ chúng tại văn phòng và quẳng vào trong thùng đựng rác đã cháy, lúc lại nói rằng ông ta cất ở nhà rồi đợi mãi sau này mới đốt chúng cùng mớ giấy gói quà Giáng sinh.
Những điều này chỉ nổi lên qua các cuộc thảo luận tại phòng xử án của chúng tôi, giữa quan toà, công tố viên và các luật sư bào chữa, bởi vì các tài liệu liên quan đến tôi đã bị ông giám đốc FBI tiêu huỷ. Giờ đây không thể biết nội dung thực sự hay các liên hệ của chúng với sự kiện khác. Cùng với những tiết lộ ngày 15-4, Dean cũng nói đến những trao đổi này của ông ta với Gray. Sau khi đã thừa nhận trước Quyền Bộ trưởng Tư pháp Kleindienst việc làm của mình, Gray bị buộc thôi chức Quyền Giám đốc FBI. Và ông ta đã từ chức hôm 27-4, là ngày thẩm phán Byrne tiết lộ vụ trộm tại nhà Fielding. Tin tức đưa đi về lý do từ chức của Gray chính là những phanh phui đầu tiên về hành động cản trở công lý có Nhà Trắng hậu thuẫn.
Nhiều người khác cũng nhanh chóng theo chân Gray. Đặc biệt, ngày 27-4, thẩm phán Byrne yêu cầu bên công tố trả lời tại sao lá thư của Silbert về vụ đột nhập văn phòng Fielding đề ngày 16-4, mất mười ngày mới đến được phòng xử án của ông. Hoá ra đích thân Tổng thống đã yêu cầu trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Petersen trì hoãn việc này với lý do bức thư là vấn đề thuộc về "an ninh quốc gia và dựa trên đánh giá của bản thân ông rằng vụ trộm chẳng qua chỉ là "cái giếng cạn", không phát hiện thêm thông tin nào có thể ảnh hưởng tới phiên toà của chúng tôi. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp là phải làm ngược lại.
Cả Petersen và bộ trưởng Kleindienst đều hiểu thẩm phán chính là người quyết định. Khi phiên toà của chúng tôi tiếp tục diễn ra và không có bức thư, hai người càng lúc càng lo lắng có thể vì thế mà họ, Tổng thống sẽ bị kết tội cản trở công lý.
Ngày 25-4, Kleindienst nói với Nixon rằng thông báo của Silbert "phải" được chuyển đến cho vị thẩm phán ở Los Angeles. Khi đó thẩm phán sẽ có quyền công bố các thông tin đó qua camera (tức là giữ bí mật trước dư luận và báo chí) và có phiên điều trần kín, xác định những thông tin đó có ảnh hưởng đến phiên toà hay không. Ông cũng có thể yêu cầu các luật sư của Ellsberg không phát biểu công khai về các thông tin hoặc về thủ tục điều trần kín. Nixon nói rằng nếu quan toà nhận được những thông tin này, ông cần phải biết rằng vụ đột nhập là "một cuộc điều tra an ninh quốc gia cực kỳ nhạy cảm". Một giờ sau, Kleindienst báo cáo lại với Nixon là các công tố viên hy vọng sẽ thuyết phục được thẩm phán tạm thời không công khai và hoãn các phiên điều trần đến khi kết thúc vụ án của chúng tôi. Sẽ chỉ tiếp tục nếu có một phán quyết có tội. Nixon đáp lại: "Tốt thôi. Tôi phải nói thêm điều này(149). Tôi không biết anh sẽ trao bức thư này bằng cách nào, nhưng thẩm phán cần biết rằng đây là một cuộc điều tra an ninh quốc gia cực kỳ quan trọng. Thực sự thế, anh biết, tôi biết". Tổng thống lặp lại là ông muốn rằng các công tố viên cũng hiểu điều này. Ông nói tiếp: "Được rồi. Thế nhé, ngủ ngon, chàng trai(150)…"
Kleindienst: Khoan đã, thưa Tổng thống.
Tổng thống: Chúc anh may mắn. Quỷ quái thật. Người ta bảo sẽ luận tội Tổng thống. Thế mà, bọn họ lại nhằm vào Agnew. Cái quái gì thế nhỉ? (Cười) Ổn cả chứ? Ổn cả chứ?
Kleindienst: Sẽ không có chuyện như thế đâu.
Tổng thống: Được rồi, chàng trai. Sẽ tốt thôi…
Đây có thể là lần đầu khả năng Tổng thống bị luận tội được đề cập tới trong các băng ghi âm. Trong ngày 26, Tổng thống đã gọi điện rất nhiều lần cho Kleindienst để hỏi về quyết định của toà. Ngày 27, Petersen báo cáo tối hôm trước thẩm phán Byrne đã đọc tường trình của công tố viên và "hình như cho rằng những thông tin ông có được từ trước tới giờ đã là đầy đủ. Nhưng ông đổi thái độ chỉ qua một đêm"(151).
Thực ra, do công tố viên phản đối, thẩm phán Byrne đã để cho tôi quyết định. Chiều ngày 26-4, ông cho mời vào phòng xử án tất cả các bị cáo và luật sư bào chữa. Với David R. Nissen, ông nói rằng ông đã đọc hết những nội dung trong phong thư dán kín Nissen trao cho ông và đi đến kết luận ông không nên giữ cho riêng mình những thông tin đó. Ông hỏi Nissen xem anh ta đồng ý chuyển cho bên bị cáo hay không. Nissen trả lời phải hỏi ý kiến cấp trên ở Bộ Tư pháp và đến sáng hôm sau, câu trả lời là không nên. Lúc đấy Byrne mới yêu cầu Tony, tôi và các luật sư của cả hai bên tiến lại gần chỗ ông, tránh để các nhà báo nghe thấy và yêu cầu Nissen phải giao tài liệu đó cho bên bị cáo ông nói rằng chúng tôi có quyền được biết thông tin này và có quyền yêu cầu một cuộc điều trần tương ứng.
Tôi còn nhớ khá rõ giờ phút ấy, đặc biệt bởi vì đó là lần đầu tiên trong vòng hai năm xét xử, ngài thẩm phán nhìn trực diện và trao đổi trực tiếp với tôi. Trước đây, tất cả các thông điệp tới bên bị cáo dcu được chuyển qua các luật sư. Tôi không nhớ là từ trước tới nay có lần nào ông nhìn thẳng vào mắt tôi hay không.
Ông nói với tôi là: "Ông Ellsberg, tôi có lẽ không cần phải công khai thông tin này. Chúng tôi có thể giữ kín nếu ông muốn". Tôi hiểu điều ông ta nói có nghĩa là tôi không muốn để mọi người biết mình đang được điều trị tâm thần (tạp chí Times đã tiết lộ thông tin này cho mọi người, trong đó có Hunt từ hai năm trước).
Tôi đáp lại: "Ngài đang đùa hay sao? Đưa nó ra đây đi!"
Đây là những lời nói đầu tiên của tôi trực tiếp với quan toà kể từ sau tuyên bố tôi vô tội. Rất nhanh chúng tôi thấy cảnh các nhà báo đổ xô đến bên máy điện thoại.
Cứ thế phiên toà tiếp tục. Gần như mỗi ngày lại có thêm một điều ngạc nhiên thú vị, như sự ra đi của Haldeman, Ehrlichman, Kleindienst và Dean vào tối 30-4 và Gray, Quyền Giám đốc FBI ngày 27. Như lời Kissinger viết trong hồi ký, ông ta không thể tránh cái cảm giác Tổng thống "không còn kiểm soát được tình hình nữa". Nhưng không chỉ có Nixon. Trước đó cùng ngày, luật sư của tôi, Charlie Nesson nhận điện thoại của Mort Halperin đang ở Washington. Halperin cho hay trên số báo buổi sáng của tờ Ngôi sao Washington có tin thẩm phán Byrne trước đó vài tuần đã gặp Tổng thống và Ehrlichman tại khu Tây Nhà Trắng ở San Clemente. Tại đây ông được đề nghị chức vụ giám đốc FBI.
Vì Nesson đã báo trước với thẩm phán là ông có thể sẽ đề cập đến bài báo này tại phiên toà, thẩm phán đọc vội vàng một tuyên bố sơ sài, nhận có cuộc gặp nhưng không nhận đã thảo luận về vụ án và cho biết ông đã nói với Ehrlichman sẽ không có công việc nào cả chừng nào vụ án chưa kết thúc. Ngày 30-4, luật sư của chúng tôi yêu cầu ngay lập tức trong ngày hôm sau John Dean và Patrick Gray cùng Hunt và Liddy phải tường trình tại toà về vụ đột nhập vào nhà Fielding. Patrick khai nhận đã tiêu huỷ các tài liệu liên quan đến vụ án của tôi, còn tạp chí Tuần tin tức cho Dean là người đã thông tin cho Silbert. Tuy nhiên, hôm sau, các luật sư bào chữa chuyển sang kiến nghị toà án huỷ bỏ cáo trạng của chúng tôi. Leonard Boudin xoáy vào báo cáo của FBI về Ehrlichman mà chúng tôi mới nhận được sáng hôm đó. Leonard Weinglass, luật sư bào chữa cho Tony Russo phân tích rằng vào lúc "Ehrlichman gặp mặt quý toà này ngày 5-4," hẳn ông ta đã biết "ông ta đang là một phần trong cuộc điều tra về vụ đột nhập này" và "quý toà đang xét xử một vụ án có bị can Ellsberg… Câu hỏi đặt ra là ông Ehrlichman có tính toán gì trong đầu khi gặp quý toà". Ông bình luận hành vi của Ehrlichman "sẽ khiến đề tài kẻ trộm tìm thấy những gì trong văn phòng của Fielding trở nên ít nghĩa lý".
Thẩm phán đã bác kiến nghị huỷ bỏ cáo trạng nhưng lại nói yêu cầu này có thể được xem xét sau. Ông đặc biệt bác bỏ một lý do bãi nại có liên quan đến đề nghị của Ehrlichman và khẳng định ông không vì lời đề nghị đó mà dao động. Ông cũng nói cuộc gặp với Tổng thống chỉ rất ngắn ngủi và vụ án này cũng không được đem ra thảo luận với Nixon hay Ehrlichman.
Một vài ngày sau trong tháng năm, lại vẫn là các nhà báo chứ không phải thẩm phán Byrne tiết lộ rằng ông đã gọi điện cho Ehrlichman yêu cầu một cuộc gặp khác ngày 7-5 tại Santa Monica. Ngài thẩm phán thừa nhận cuộc gặp đã diễn ra nhưng theo lời ông, chỉ để nhắc lại với Ehrlichman ông sẽ không để tâm tới công việc này chừng nào phiên toà chưa kết thúc Ehrlichman phản pháo rằng thẩm phán Byrne, trái lại, tỏ ra khá quan tâm tới công việc trong cả hai lần gặp gỡ. Ông còn bình luận về cách điều hành FBI! Đây là lời bình luận của Weinglass trước một phóng viên: "Trong những ngày diễn ra phiên toà, nếu chúng ta có ai lại đi mời ông Byrne làm việc, chắc sẽ bị tống vào tù".
Tên của Byrne đã được nhắc đến trong các băng ghi âm Nhà Trắng từ cuối tháng ba trong những cuộc thảo luận về các ứng viên cho chức vụ này. Khi ấy Hunt đã bị cáo buộc tham gia vụ trộm tại khách sạn Watergate và đang sắp sửa điều trần trước Đại bồi thẩm đoàn. (Đương nhiên việc này chưa đến tai Byrne). Dù sao ông ta cũng được hưởng quyền miễn trừ truy tố.
Dù đã quyết định chi tiền để Hunt tiếp tục im lặng (sẽ được nói đến sau), Tổng thống vẫn sợ rằng tin tức về vụ Fielding có thể đang lan truyền tới phòng xử án của tôi. Ở đó ngài thẩm phán sẽ cân nhắc có nên truyền đạt thông tin đó cho bị cáo và dư luận hay không. Tin tức báo chí đưa ngày 27-4 dẫn lời các quan chức cấp cao giấu tên trong Bộ Tư pháp khá tức giận với việc làm này của ông. Sau này có người phỏng đoán đây là động cơ các quan chức này tiết lộ câu chuyện về thẩm phán cho tờ Ngôi sao.
Vì sao tội cản trở công lý có phần đóng góp của Nixon? Từ các băng ghi âm và tổng hợp các chứng cứ có thể suy đoán rằng Nixon tự để mình dính líu tới kế hoạch che đậy của Nhà Trắng và hành động cản trở công lý vì cùng một lý do. Kể cả việc ông chi tiền cho các bị cáo khai man và giữ im lặng trước toà ngay từ những ngày đầu họ bị bắt giữ tại khách sạn. Tổng thống không cần phải loại bỏ những mối liên hệ trực tiếp của ông với bản thân vụ Watergate. Không ai trong số những người đã bị bắt, cả Hunt và Liddy, có thể ám chỉ đến Tổng thống hay một ai khác trong Nhà Trắng. Đáng ra mà nói, cho đến tận hôm nay vẫn chưa xuất hiện một bằng chứng hay lời khai nhận nào chứng tỏ Nixon hoặc các quan chức Nhà Trắng đã biết trước về vụ đột nhập ở Watergate ngày 17-7-1972.
Nixon bắt đầu có những can thiệp từ ngày 23-7. Lý do của việc này là không để Howard Hunt khui ra vụ Fielding và hành động phi pháp của nhóm "Thợ sửa ống nước". Mãi sau này tôi mới biết, hoá ra việc đột nhập văn phòng bác sỹ trong tháng 9-1971, dù được biết đến nhiều nhất, không là hành động cuối cùng và nghiêm trọng nhất trong số những hành động phi pháp này. Tám tháng sau, ngày 3-5-1972, nhận được lệnh của Colson qua Hunt và Liddy, Nhà Trắng bí mật đưa mười hai người Mỹ gốc Cuba, "tài sản" của CIA, từ Miann sang Washington. Nhiệm vụ của họ là phá rối cuộc biểu tình có tôi và nhiều người khác đứng phát biểu trên lối vào điện Capitol và gây thương tích cho tôi.
Cuộc biểu tình như đã mô tả, diễn ra năm ngày sau khi Hải Phòng bị ném bom và tài liệu NSSM-1 được thượng nghị sỹ Gravel trao cho các báo. Không rõ kế hoạch làm tôi bị thương có mục đích gì. Tuy nhiên, băng ghi âm Phòng Bầu Dục ngày 2-5 cho thấy Nixon đã biết tôi sẽ lựa chọn thời điểm này công bố NSSM-l. Có lẽ ông đã nghĩ đến nguy cơ tôi sẽ tiết lộ dù là tài liệu nào lấy từ NSC. Nick Akerman, luật sư của Đội chuyện trách khởi tố đặc biệt Watergate (WSPTF) đang tiến hành điều tra tình huống này (anh đã có hơn một trăm cuộc phỏng vấn). Akerman cho hay là một số người từ Miami đã nhận được lệnh "vô hiệu hoá (tôi) hoàn toàn". Mỗi người lại có cách nghĩ khác nhau về nhiệm vụ của họ. Tất cả đều kể lại là Hunt và Liddy đã chỉ cho họ xem một tấm hình của tôi (và của Bill Kunstler cũng có mặt tại cuộc biểu tình) và nói rằng đây là "mục tiêu" của họ. Như tạp chí Times đã đưa tin, nhiều người khai với FBI hoặc WSPTF rằng "Chúng tôi phải coi người này là "kẻ phản bộỉ" và phải táng vào giữa mặt hắn ta.". Bernard Barker là người đứng ra cùng với Eugenio Martinez tuyển dụng nhóm này. Anh ta trả lời phỏng vấn nhà báo Lloyd Shearer rằng mệnh lệnh anh nhận được là "đập què cả hai chân (của tôi). Tuy nhiên cuộc biểu tình diễn ra rất hoà bình khiến bọn họ không thể hành động. Thay vào đó một số còn tấn công các thanh niên đứng ở vòng ngoài và bị cảnh sát dẫn đi: Rồi người ta giao họ cho hai người có giấy uỷ quyền của chính phủ. Ngay tối hôm đó một số đi cùng Hunt và Liddy nhận diện "mục tiêu tiếp theo của họ", văn phòng tại khách sạn Watergate của Uỷ ban Quốc gia Đảng Dân chủ.
Chỉ vài tuần sau sự kiện này, những ai đã từng góp mặt trong trong hai hành vi phi pháp của Nhà Trắng - đột nhập văn phòng của Fielding và phá rối cuộc biểu tình ngày 3-5 đều bị bắt do liên quan đến vụ Watergate. Nixon phải tự đứng ra chỉ đạo bưng bít những tội lỗi này, nếu không những người bị bắt có thể dẫn công tố viên đến các hành vi trước đó có thể liên quan trực tiếp tới Phòng Bầu Dục. Vì những việc làm này của Hunt và Liddy đều diễn ra khi họ còn tham gia Chiến dịch tái cử Tổng thống (trừ sự việc ngày 3-4) nên người chịu trách nhiệm cao nhất chỉ là John Mitchell. Trước đó ông ta đã rời chính quyền để chỉ đạo chiến dịch tranh cử. Ngay đến Hunt, Liddy và McCord cũng không hay biết gì về một cấp nào đó cao hơn Mitchell dính líu tới vụ Watergate, đừng nói tới mấy người Cuba bị bắt tại khách sạn kia. Nhưng rõ ràng là cuối cùng thì từ năm 1971 và trong tháng 5-1972, Hunt và Liddy đã làm việc cho ông chủ Phòng Bầu Dục và trực tiếp dưới quyền Ehrlichman và Colson, các trợ tá của Tổng thống. Mối đe doạ chỉ hiển hiện từ lúc những người kia bị bắt tại khách sạn.
Bọn họ có thể chỉ đường cho các công tố viên tìm đến Hunt và Liddy. Bọn họ cũng có thể bị cưỡng bức hoặc sẽ tự nguyện cung khai các tội lỗi của Nhà Trắng do họ thực hiện. Mối lo lớn nhất dồn vào Hunt, còn Liddy, theo Tổng thống, trung thành với những qui tắc im lặng theo kiểu Mafia, "điên rồ"(152) nhưng chắc chắn.
Sáu ngày sau khi có những vụ bắt giữ đầu tiên, ngày 23-7-1972, theo đề nghị của Mitchell và Dean, Nixon đã chỉ đạo Haldeman và Ehrlichman dùng CIA gây áp lực để FBI chấm dứt cuộc điều tra ở Hunt và Liddy. Ông chỉ muốn giới hạn truy tố những ai đã bị bắt tại trận. Vì Hunt và Liddy không ở trong số đó nên hai người này sẽ không thể bị áp lực tiết lộ những vi phạm khác của Nhà Trắng. Nhưng sau cùng Uỷ ban luận tội Tổng thống của Quốc hộỉ trong tháng 8-1974 đã có cuốn băng ghi âm kế hoạch cản trở cuộc điều tra của FBI sau mười ba tháng Nixon nỗ lực che giấu. "Khẩu súng còn ám khói" đó khiến cả những ai trung thành nhất với Nixon không thể không ủng hộ luận tội Tổng thống và buộc tội ông và dẫn ông đến chỗ từ chức. Quay trở lại với mối đe doạ Nixon đang chống đỡ. Băng ghi âm cuộc nói chuyện với John Dean ngày 21-5-1973 được coi là "vết ung nhọt trong đời Tổng thống"(153) đã làm sáng tỏ đe doạ này. Dean cho biết Hunt đang đòi được 200 nghìn đôla "chi phí"(154) và trắng trợn doạ nạt nếu không nhận được tiền sẽ khui ra "những việc xấu xa(155) hắn ta đã làm cho Nhà Trắng". Nixon hỏi và Dean khẳng định là Hunt ám chỉ "Ellsberg" và "Kennedy". Gạt đi sự phản đối của Dean, Nixon nhấn mạnh phải giao tiền cho Hunt, ngay lập tức không còn lựa chọn nào khác. Tối hôm đó, 75 nghìn đô la được rút ra từ quỹ vận động tranh cử trao cho luein, hoặc Halperin hoặc Gelb. Cả ba tên này đều có liên hệ với cánh báo chí".
Hai hôm sau, ngày 17-6, Nixon không còn giữ được bình tĩnh nữa khi Haldeman nhắc đến tôi, ông ta hỏi ngay:
"Tại sao FBI(120) chưa tóm lấy nó rồi tống vào quan tài? Đó là bước tiếp theo đúng không?"
Buổi sáng hôm đó chúng tôi đã trên đường trốn chạy.
Điều đặc biệt cấp bách với chính quyền này là ngăn chặn những người khác làm theo tiền lệ của tôi. Vì Nixon và Kissinger và tôi, chúng tôi đều có chung suy nghĩ. Chúng tôi biết phải giữ kín chính sách Việt Nam thực sự nếu muốn nó khả thi.
Cả hai người đều cảm thấy sự nhạy cảm khi có người nghi ngờ và tranh cãi về chính sách của họ. Tuy nhiên, khác với tôi, họ lại không cho những gì mình đang làm là ngớ ngẩn, liều lĩnh, vô vọng và sai lầm. Nhưng đồng thời hai người cũng hiểu rằng người khác sẽ nghĩ như vậy nếu nhờ vào những lài liệu mới được tiết lộ, chính sách của họ không còn được giữ bí mật và bị dư luận Mỹ hiểu lầm.
Cũng trong cuộc đàm thoại đầu tiên liên quan đến tờ Thời báo vào chủ nhật, ngày 13-6-1971, Tổng thống đặc biệt lo sợ các cuộc ném bom lên đất Campuchia đầu năm 1969 có mật danh "Thực đơn", một loạt các cuộc tấn công lúc đầu được đặt tên là "Điểm tâm", "Bữa trưa" và "Bữa tối", có thể bị tiết lộ.
Tương tự, ngày thứ ba, 15-6, Kissinger thúc giục Tổng thống đưa ra truy tố những kẻ phải chịu trách nhiệm: "Tổng thống, ngài phải thật mạnh tay(121) bởi vì nếu đã có những thứ này trên Thời báo New York, sang năm ngài sẽ gặp tình cảnh tương tự. Hồ sơ của chính quyền này sẽ lại bị tuồn ra ngoài trong thời gian tranh cử (năm 1972). Tôi muốn nói những người này…"
Nixon đáp lại: "Tôi hiểu, họ sẽ lấy được toàn bộ hồ sơ về các chiến dịch Thực đơn".
Tôi cho rằng hai người này, cũng như tất cả những người khác đều hiểu các tài liệu gốc có ý nghĩa thế nào với các tiết lộ của báo chí. Trong tháng 3-1969, William Beecher đăng một câu chuyện tỉ mỉ trên tờ Thời báo về các đợt ném bom bí mật lên đất Campuchia. Chính quyền đã tức giận đến nỗi quyết định chỉ đạo FBI bí mật tiến hành nghe trộm (đương nhiên là bất hợp pháp) một loạt các nhân viên NSC và các nhà báo để truy ra nguồn cung cho tờ báo. Nhưng câu chuyện này vì thiếu tài liệu gốc làm bằng chứng, chẳng qua cũng chỉ là vụ việc trong ngày và sau khi Lầu Năm Góc thẳng thừng bác bỏ, đã hoàn toàn bị lãng quên. Khả năng những tài liệu khác bị lôi ra ánh sáng sau tiền lệ của Hồ sơ Lầư Năm Góc, cho dù chậm hai hay ba năm sau nữa, lại là một vấn đề khác.
Có những lý do đặc biệt cho tính nhạy cảm của chiến dịch tấn công Campuchia mang tên Thực đơn(122). Câu chuyện Beecher kể ra đã làm ê mặt Nhà Trắng vì những chi tiết về một chiến dịch mà Nhà Trắng đã muốn giấu kín với Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird và Bộ trưởng Ngoại giao William Rogers. Cả hai người đều phản đối mạnh mẽ việc mở rộng chiến tranh. Nhắc tới chính sách về Việt Nam, Nixon và Kissinger đều coi bọn họ gần như kẻ thù. Hai ông luôn mong giấu kín họ càng nhiều và càng lâu càng tất, vì ngại sự phản đối quyết liệt, hoặc thậm chí trong trường hợp của Laird, ông ta sẽ báo lại với Quốc hội hay cho cánh nhà báo. Nếu hai Bộ trưởng có được Tổng thống thông báo điều gì đi nữa thì cũng chỉ rất sơ sài, và vào phút chót. Tuy nhiên, khi nói chuyện với Kissinger vào ngày 13 và nhiều lần sau đó, Nixon e ngại là hai vị Bộ trưởng đang có trong tay các tài liệu lẽ ra họ không nên có hoặc các bản ghi nhớ các cuộc trao đổi với Tổng thống. "Bất cứ khi nào(123) tôi trao đổi với Rogers và Mel (Lairdl về một trong các vấn đề này, về Lào và Campuchia, … tôi cho là họ đều tự mình ghi âm lại … họ thường tự mình suy luận ra từ những gì tôi yêu cầu, anh biết rồi đấy".
Kissinger đảm bảo với Nixon: "Đúng là họ sẽ tự suy luận ra những gì Tổng thống yêu cầu, nhưng họ sẽ không hiểu được lý do đâu". Những lý do ấy ông ta và Tổng thống luôn thận trọng không để hai người biết được, đặc biệt trên văn bản.
Sự thật là trong suốt năm 1971, các cuộc ném bom gây áp lực lên miền Bắc Việt Nam và Lào đều dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nixon và Kissinger, thông qua một "kênh nối thẳng" tới Đô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Hai người bí mật vượt mặt Laird, vẫn với lý do cũ, Laird không ủng hộ. Một bí mật đặc biệt nhạy cảm là lúc này FBI vẫn đang tiến hành nghe trộm văn phòng và nhà riêng của trợ lý quân sự của Laird, tướng Robert E. Pursley, để biết ông Bộ trưởng nắm được những thông tin gì về các chiến dịch và ông ta có tiết lộ điều gì cho quốc hội. Cần nhớ Laird đã từ bỏ Quốc hội để chuyển sang làm việc cho chính quyền.
Thêm vào đó, Quốc hội, cơ quan cấp ngân sách cho các chiến dịch, được nhận những thông tin mật hoàn toàn giả mạo về mục tiêu ném bom. Hàng trăm nhân viên làm việc tại trụ sở của MACV và CINCPAC đêm ngày bận rộn làm giả các kế hoạch ném bom mật và các bản báo cáo hậu chiến sự, làm giả toạ độ các mục tiêu bị ném bom, để mọi người tưởng rằng họ đang ở Nam Việt Nam chứ không phải là ở Campuchia. Vào năm 1971, khi Nixon ra lệnh ném bom Cánh đồng Chum ở Lào (một địa điểm không hề liên quan đến các tuyến đường lấn chiếm của miền Bắc), ông ta đã dùng đến cơ cấu ghi sổ kép như đã từng dùng để che đậy vụ ném bom Campuchia. Có những trường hợp đến cả các phi công cũng không được biết đích xác toạ độ ném bom của họ. Song chủ yếu mục đích của Nixon vẫn là che giấu Quốc hội và dư luận (và ở một mức nào đó, cả Laird và Rogers, về qui mô và tần suất các chiến dịch). Tổng thống không có ý định và kế hoạch này cũng không nhằm đánh lừa các nước Cộng sản - mục tiêu ném bom của ông ta, hay các đồng minh của họ.
Những người trên mặt đất không thể nhầm lẫn và cũng không ai nghĩ họ nhầm lẫn về kẻ đang dội bom B-52 xuống đầu mình.
Một hệ thống bí mật như vậy đã được chính quyền này giữ kín trong gần bốn năm - cho đến khi một trung sĩ (một trong số hàng trăm người liên quan đến hoạt động giả mạo này) đột nhiên băn khoăn rằng ct sư riêng của Hunt. Tuy tức giận không được nhận nhiều hơn thế, nhưng Hunt cũng vẫn tiếp tục, ít nhất vào lúc đó, khai man trước Đại bồi thẩm đoàn.
Cứ thế trở đi hầu như ngày nào cũng có một tiết lộ theo kiểu trên tại phòng xử án của chúng tôi và ở Washington (nhưng vẫn chưa phải là cuộn băng chứng cứ). Ngày 10--5-1973, Quốc hội lần đầu tiên bỏ phiếu cắt giảm ngân sách Chiến tranh Đông Dương, kể cả ngân sách nối lại các cuộc ném bom nửa chửng. Tổng thống phủ quyết. Nhưng ông cũng hiểu không thể giữ mãi lá phiếu phủ quyết. Ông tự biết sớm muộn sẽ phải đối mặt với khả năng bị luận tội (Uỷ ban về vụ Watergate của Thượng viện lấy tên là Uỷ ban Ervin vẫn chưa khởi động các phiên điều trần công khai).
Nhiều người ngày hôm nay khi nhìn lại, nghĩ rằng "nếu Quốc hội ngăn cản, thậm chí dù không có vụ Watergate" thì Nixon "sẽ không thể" tiến hành ném bom, thực hiện lời hứa riêng của ông với Tổng thống Thiệu và ý định bảo vệ chính quyền miền Nam của mình. Họ vẫn cho rằng chỉ cần một đa số trong Quốc hội ủng hộ cắt giảm ngân sách chiến tranh. Điều đó có thể đúng. Nhưng chỉ đa số thì vẫn chưa đủ để chấm dứt ném bom và không có triển vọng đẩy lùi nó. Muốn thắng lá phiếu phủ quyết của Tổng thống, Quốc hội cần tập hợp không chỉ đa số phản đối mà còn phải là đa số hai phần ba. Mort Halperin cho tôi thấy nếu không có một vụ Watergate lơ lửng trên đầu, Nixon gần như chắc chắn sẽ dồn đủ số phiếu hai phần ba dư một, chiến thắng nỗ lực vô hiệu hoá phủ quyết của ông. Và khi đó các cuộc ném bom của Tổng thống sẽ được nguỵ trang bằng cái cớ "cưỡng bức thực hiện thoả thuận đã ký kết". Như Larry Berman đã vạch ra(156), chính nó là lý lẽ Nixon viện tới để thuyết phục Thiệu ký vào Hiệp định Paris. Tổng thống miền Nam Việt Nam sẽ từ chối việc đó nếu không vì lời hứa này.
Toan tính đó cũng là cơ sở Nixon nối lại các cuộc ném bom mà Quốc hội khó có thể bác bỏ. Nhưng khi các phiên điều trần của Uỷ ban Ervin đang đến gần và có nhiều khả năng Dean sẽ phải khai ra hành vi cản trở công lý của Nixon, có lẽ tốt nhất ông không nên vét cạn nguồn lực chính trị của mình để thắng cuộc bỏ phiếu của Quốc hội trong khi cần phải giành giật từng lá phiếu luận tội Tổng thống.
Do vậy, vào tháng sáu, Nixon đành miễn cưỡng thuận theo hai Viện chấm dứt ném bom trước ngày 15-8. Có thể nhiều nghị sỹ chỉ thấy thoả thuận này có tác động tới các cuộc ném bom lên Campuchia. Họ không hay biết lúc đó Tổng thống đã gần như nối lại hoạt động ném bom Lào và Bắc Việt Nam dù Kissinger đã bí mật đề nghị(157) từ tháng ba, trước cả khi quân đội Mỹ bắt đầu rút. Berman khẳng định quyết tâm của Nixon ném bom trở lại muộn nhất là cuối tháng tư. Trong bài báo "Sự liên hệ với Watergate" ra ngày 5-5 năm 1975, tạp chí Times tiết lộ Tổng thống trong thực tế đã "chính thức chấp thuận" nối lại các cuộc ném bom, nhưng cuối cùng rút lại quyết định khi hay tin Dean sắp sửa gặp các công tố viên. Ông "không còn cách nào khác đành nhận những những lời chỉ trích nặng nề đến đồng thời trên hai mặt trận".
Nếu thực như vậy, hẳn chính các tiết lộ của Dean với công tố viên ngày 15-4 mới là mối nguy hiểm thực sự, đủ làm đảo lộn tính toán của Nhà Trắng về một "sự đã rồi" dành cho Quốc hội. Hạ viện bỏ phiếu ủng hộ cắt giảm ngân sách chiến tranh vào ngày 10-5, hai tuần sau khi phiên toà của chúng tôi nhận được các thông tin từ Dean. Vì phiên toà này là nơi có những tiết lộ công khai quan trọng nhất về vụ trộm do Nhà Trắng đứng đằng sau hậu thuẫn, nhắm tới tôi, cho nên ý định trì hoãn nó sau khi kỳ bầu cử và cuộc chiến tranh Việt Nam đã "kết thúc gọn gàng" đã thất bại ngay từ khi còn trong ý tưởng.
Vẫn ngày hôm đó, ngày 10-5, quyền giám đốc mới của FBI, William Ruckelshaus thừa nhận trước toà các hoạt động nghe trộm điện tử của FBI đối với tôi, trái với những phủ nhận chính thức trước đó. Thẩm phán Byrne yêu cầu có báo cáo của các lần nghe trộm đó. Sáng hôm sau Ruckelshaus trả lời không tìm thấy chúng trong hỗ sơ của FBI và Bộ Tư pháp. Sau này người ta mới biết là các báo cáo này đã bị người phó của J. Edgar Hoover là William Sullivan lấy ra từ trong hồ sơ cá nhân của ông, theo lệnh của Tổng thống ngay từ khi phiên tuà của chúng tôi mới bắt đầu. Các báo cáo đó bao gồm biên bản mười lăm cuộc điện đàm của tôi với Mort Halperin bị nghe lén tại nhà riêng của ông. Chắc chắn các luật sư của tôi sẽ yêu cầu bên nguyên đơn cung cấp những bằng chứng này khi bắt đầu phiên toà. Cho nên Nixon không thể để chúng trong tay Hoover, sợ rằng Hoover có thể bằng cách này hay cách khác đe doạ trao các biên bản cho thẩm phán Byrne.
Ngày hôm sau, 11-5, các luật sư bào chữa yêu cầu thẩm phán ra phán quyết về kiến nghị bãi nại phiên toà và để lại hệ quả (nghĩa là bên nguyên sẽ không được phép kiện bị đơn về cùng một cáo buộc này nữa), trên cơ sở tổng hợp các hành vi sai trái của chính phủ, gồm có hành động bưng bít chứng cớ, xâm phạm quan hệ bác sỹ - bệnh nhân, nghe lén phi pháp, thủ tiêu tài liệu hữu quan và bất tuân thủ lệnh của toà án.
Buổi sáng ngày 11-5, sau phiên tạm nghỉ, thẩm phán Byrne đọc một thông báo, trong đó nói phán quyết của ông dựa trên "phạm vi các vấn đề ông Boudin(158) vừa nói tới. Phán quyết này không đơn thuần dựa trên chỉ riêng hoạt động nghe lén, hay riêng vụ trộm và các thông tin xuất hiện trong những ngày gần đây". Ông tiếp tục:
Bắt đầu từ ngày 26-4, đã có một loạt các tiết lộ quan trọng liên quan đến hành vi của nhiều cơ quan trong chính quyền đối với các bị cáo trong phiên toà này… Phần lớn các thông tin đã được sử dụng, những thông tin mới làm nảy sinh những câu hỏi mới. Giờ đây chúng ta có khá nhiều vấn đề chưa được giải đáp hơn là những điều đã sáng tỏ.
Các tiết lộ này bộc lộ nhiều hành động chưa từng có tiền lệ của nhiều cơ quan chính phủ đối với các bị cáo. Sau những cáo trạng đầu tiên, lẽ ra cần hạn chế quyền tiến hành hoạt động điều tra các bị cáo nhưng quan chức Nhà Trắng đã thành lập một đơn vị đặc biệt điều tra về một bị cáo ở đây. Dù chỉ nắm sơ lược về những việc làm của đơn vị đặc biệt này, nhưng chúng ta đã cảm thấy lo ngại hơn bao giờ hết.
Ông điểm lại các sự kiện: vụ đột nhập vào văn phòng bác sĩ tâm lý của tôi; các hành động của CIA theo yêu cầu của Nhà Trắng "được cho là vượt quá thẩm quyền pháp định của cơ quan này", mạo danh, cung cấp thiết bị chụp ảnh và các đạo cụ khác cho các mật vụ và nhằm xây dựng hai bệnh án tâm thần. Ông cũng nhắc lại thực tế là dù có những quan chức chính phủ đã biết về các việc làm phi pháp nhằm vào bị cáo nhưng toà án và thậm chí bên nguyên đơn không được thông báo cho đến khi có bản ghi nhớ của Silbert, "và cũng chỉ hơn mười ngày sau khi nó được viết lên"; thậm chí trước bức thư này, nỗ lực liên tiếp của chính phủ ngăn chặn tài liệu bào chữa cho bị cáo; "tiết lộ gần đây về hoạt động nghe lén điện tử đối với một số cuộc nói chuyện điện thoại của bị đơn Ellsberg" (sau rất nhiều phủ nhận của FBI và Bộ Tư pháp) nhưng ghi chép về nghiệp vụ đó đã biến mất khỏi hồ sơ lưu trữ của hai cơ quan này từ giữa năm 1971. Trong danh sách các sự kiện thẩm phán đã bỏ qua đề nghị ông giữ chức giám đốc FBI vào ngày 5 và 7-4 và ông cũng đã bác yêu cầu coi đề nghị này là một trong các cơ sở bãi nại phiên toà. Ông tiếp tục:
"Tiếp tục cuộc điều tra của chính phủ sẽ không giúp ích gì cho phiên toà… mỗi ngày trôi qua, bồi thẩm đoàn tiếp tục chờ đợi còn cuộc điều tra không thấy có hy vọng kết thúc. Thêm vào đó nó không thể giải đáp thoả đáng tại sao những hành vi lạc lõng của chính phủ có thể được che đậy trong một thời gian dài như thế và tại sao báo cáo của chính phủ lên Toà án là những hồ sơ và ghi chép liên quan đến các hành vi này đã bị mất tích hoặc bị tiêu huỷ …
Có những vấn đề nghiêm túc về tính xác thực và pháp lý nổi lên từ những cáo buộc dành cho bị đơn mà tôi luôn mong muốn giải quyết triệt để… Tuy nhiên … bồi thẩm đoàn bị đặt vào thế khó để phán quyết một cách công bằng, không cảm tính sau những hành vi gần đây của chính phủ. Đối với tôi, bản thân một vụ án xử trái phép đã là bất công bằng. Cho dù như thế nào, tôi hy vọng dưới thời chính quyền hiện tại, các bị cáo sẽ không bị xét xử thêm một lần nữa về cùng những cáo buộc này.
Tổng hợp những hoàn cảnh trên lại với nhau, "công lý" đã bị xâm phạm theo một cách nào đó. Những sự kiện lạ lùng xảy ra đã gây ra những xâm phạm không thể sửa chữa đối với vụ án này… Tôi tán thành rằng, ở vào tình trạng pháp lý như hiện nay của vụ án, phương cách duy nhất đảm bảo thủ tục và bảo vệ công lý đó là phiên toà này bị huỷ, kiến nghị bãi nại của bị cáo được chấp thuận và đoàn bồi thẩm giải tán.
Yêu cầu bãi nại có hiệu lực, các hội thẩm viên sẽ được thông báo về quyết định này và vụ án bị huỷ bỏ. Xin cám ơn quý vị rất nhiều".
Phòng xử án, hỗn loạn. Hân hoan, ôm hôn, tiếng khóc, tiếng cười vỡ oà. Tiếng rú nổi lên ngay khi thẩm phán kết thúc. Tiếng rú tại một nơi mà mọi biểu hiện cảm xúc của những người tham dự bị dồn nén suốt bốn tháng vừa qua. Lần này ông không cố gắng chặn nó lại nữa. Ông nói các hội thẩm viên có thể đi ra theo lối sau. Rồi ông quay lưng và với chiếc áo chùng đen, ông rảo bước. Các nhà báo đổ xô đi gọi điện thoại; bên nguyên thu dọn, không nói một lời và để lại phòng xử án cho chúng tôi. Tất cả quay cuồng, nghiêng ngả. Patricia và tôi ào đến bên nhau.
Tất cả cùng túa ra ngoài, cùng nhau đứng trên bậc thang toà nhà toà án liên bang, dưới ánh nắng mặt trời và trước một biển máy quay và ánh đèn flash. Có ai đó giơ cao trang nhất của một số báo buổi sáng: MITCHELL BỊ TRUY TỐ.
John Mitchell là người đứng ra khởi tố tôi. Vị Bộ trưởng Tư pháp thứ nhất đối mặt với tù ngục. Nhanh theo chân ông là Kleindienst, hai tuần trước khi từ chức còn là người chỉ đạo vụ truy tố tôi Và Haldeman, Ehrlichman và Colson. Và các cộng sự Nhà Trắng được giao nhiệm vụ "trung lập hoá tôi, các nhân viên hợp đồng cho CIA và những người Mỹ gốc Cuba có nhiệm vụ vô hiệu hoá tôi".
Một tuần sau bắt đầu những phiên điều trần đầu tiên của Thượng viện về vụ Watergate. Từ những phiên này dẫn đến các cuộn băng ghi âm Nhà Trắng, củng cố lời khai của Dean rằng Tổng thống đã chi tiền bịt miệng cho Hunt để hắn không tiết lộ "những việc làm xấu xa cho Nhà Trắng", hay chính là "Ellsberg" (Cuốn băng được ghi ngày 23-7-1972 - "khẩu súng ám khói" qua đó thấy ý muốn của Tổng thống dùng CIA để ngăn cản điều tra và truy tố Ellsberg, vẫn với lý đo như trên. Cuốn băng là động lực đẩy Nixon ra đi). Người thay chỗ ông, Tổng thống Gerald Ford quyết định tuân thủ quyết định chấm dứt chiến sự tại Đông Dương của Quốc hội, cho mãi đến khi chiến tranh kết thúc, ngày 1-5-1975. Quyết định được Hạ viện thông qua một ngày trước khi phiên toà của chúng tôi kết thúc, sau đó tháng 6-1973 đã được sự nhất trí của cả hai Viện.
Hệ thống ghi âm trong Nhà Trắng đã bị gỡ bỏ sau khi Alex Butterfield, một trợ lý Nhà Trắng, ngày thứ sáu, 13-7 khai báo với các điều tra viên vụ Watergate về sự tồn tại của nó.
Hệ thống này vẫn hoạt động trong ngày 11-5-1973, ngày phiên toà của chúng tôi chấm dứt. Một cuộc hội thoại dài giữa Tổng thống và người cựu Chánh văn phòng H. R. Haldeman từ 11 giờ sáng đến 2 giờ chiều ở Bờ Tây. Khi thẩm phán Byrne tuyên bố bãi nại phiên toà ở Los Angeles, điều đã được dự đoán trong cả buổi sáng, ở Nhà Trắng nghe thấy Tổng thống bối rối, cay đắng nói:
"Chẳng hạn với vấn đề An ninh quốc gia này(159), chúng ta lâm vào tình thế nan giải. Tên trộm huênh hoang đạo đức giả được tôn sùng lên hàng anh hùng dân tộc và thoát tội nhờ một vụ án xử trái phép. Còn tờ Thời báo New York ẵm giải thưởng Pulitzer nhờ đánh cắp hồ sơ… Bọn họ mượn bọn trộm cắp để chỉ trích chúng ta. Có Chúa mới biết chúng ta gặp phải thứ gì?
Chúng ta gặp lại một nhà nước dân chủ cộng hoà - chứ không phải một nhà nước quân chủ - ở đó chính phủ hoạt động theo pháp luật, với Quốc hội, Toà án và báo chí có nghĩa vụ phòng ngừa tệ lạm quyền, đúng như Hiến pháp đã gây dựng.
Hơn nữa, trên mảnh đất này cũng như ở tất cả các quốc gia khác, đây là lần đuật Tội làm gián điệp, Quốc hội đã công khai loại bỏ bất kỳ ý định lập pháp áp dụng đạo luật này với các hành động tiết lộ thông tin cho báo chí chưa được phép. Và do đó bất kỳ nỗ lực nào coi đây như một đạo luật về thông tin mật chính thức sẽ vi phạm những nguyên tắc hiến định trong Điều luật bổ sung thứ nhất. Không có một đạo luật nào biện minh cho những cảnh báo đến hàng triệu nhân viên làm việc trong chính quyền đã ký vào những thoả thuận giữ bí mật; trong thực tế, nhân dân có thể nắm lấy đằng chuôi.
Tất cả những điều này tôi không hề biết khi tôi sao chụp và công khai Hồ sơ Lầu Năm Góc. Các luật sư của tôi và, như tôi được biết, các toà soạn cho đăng tải phần nào tập hồ sơ này, cũng có suy nghĩ tương tự. Chúng tôi, kể cả Nixon, Kissinger, Mitchell và hầu hết những người khác, đều cho rằng trong hệ thống luật pháp Mỹ tồn tại một quy định gì đó tương đương một đạo luật về thông tin mật chính thức. Hay nói khác đi, tất cả đều tin rằng, tôi, có thể cả các toà soạn báo; đang vi phạm một điều luật nào đó. Tôi xem hành động của mình là sự chủ tâm vi phạm các quy định dân sự. Nhưng nếu như vậy, thì Tổng thống sẽ giải thích ra sao về việc ông ta chỉ đạo cho nhân viên dưới quyền để lộ ra cho báo chí các tài liệu vào loại tuyệt mật? Và những nhân viên dưới quyền sẽ phải giải thích cho hành động của mình ra sao đây - khi mà những gì họ làm là đích xác những điều Tổng thống đang quy kết tội cho tôi?
Tôi nghĩ là mình có thể tự tìm được câu trả lời, từ kinh nghiệm làm việc tại Lầu Năm Góc. Đon giản là vấn đề đúng, sai chưa bao giờ được đặt ra. Cho dù là một nhà tư vấn, hay trong cương vị một quan chức, tôi cũng chưa bao giờ bận tâm nghĩ đến Điều luật bổ sung thứ nhất, hay những phần trong Hiến pháp có liên quan tới nó, hay những ràng buộc về mặt pháp luật trong nước có thể đặt ra cho công việc của chúng tôi. Tôi làm việc trong ngành hành pháp, phục vụ Tổng thống, công việc liên quan đến chính sách quân sự và ngoại giao. Tôi không cho rằng Hiến pháp hay các văn bản luật của Quốc hội sẽ chi phối công việc chúng tôi đang làm. Về điều này, tôi cũng không có gì khác rất nhiều các quan chức Nhà Trắng, những người sau này đã thừa nhận trong các phiên điều trần liên quan đén vụ Watergate, rằng họ tin là - theo như lời cấp trên của họ, tổng thống Nixon - "khi Tổng thống làm việc gì, việc đó sẽ không vi phạm pháp luật".
Chắc hẳn rằng, cũng với tinh thần ấy, Nixon đã chỉ định Colson và những người khác chủ động tiến hành việc rò rỉ tin tức. Hành động ấy, với người khác, ông ta sẽ thực tâm, dù sai lầm, coi như là tội hình sự, hay là thậm chí là hành động phản quốc (cùng với tội đột nhập và bao che, được thừa nhận rộng rãi là tội hình sự).
Nói cách khác, các nhân viên trong chính quyền cho rằng Tổng thống, và bản thân họ khi làm việc cho ông ta, có thể đứng trên luật pháp trong nước. Chính tôi cũng nghiễm nhiên chấp nhận điều này khi làm việc trong cả lĩnh vực an ninh quốc gia, cũng như các đồng nghiệp của tôi trong lĩnh vực quân sự và chính sách đối ngoại. Đáng buồn là, nhiều nghị sỹ Quốc hội và công chúng cũng có cùng suy nghĩ. Đi liền với sự tin tưởng vào thẩm quyền xét xử và sự tự do độc quyền, vô hạn của Tổng thống trong các lĩnh vực này là giả thiết về khả năng kiểm soát không hạn chế của chính phủ đối với những gì công chúng được biết liên quan đến quá trình đưa ra các quyết định trên của chính phủ.
Tôi nhận ra, có phần muộn màng, rằng cách làm đó sẽ chỉ tạo ra một ông vua chuyên chế và những "Việt Nam" khác, hoặc có thể còn tệ hơn. Tôi cũng đã tìm thấy bài học này, chưng cất từ những trước tác của James Madison. Chính ông là người đã soạn thảo ra Điều luật bổ sung thứ nhất: "Một chính phủ được lòng dân(124), nếu không nắm được các thông tin phổ cập nhất hoặc không có trong tay những phương tiện thu thập các thông tin này, sẽ chẳng là gì ngoài màn mở đầu cho một vở hài kịch, hoặc bi kịch, hoặc là cả hai. Trí tuệ sẽ mãi mãi thống trị sự ngu dốt. Một dân tộc muốn cai trị chính mình sẽ phải tự trang bị thứ quyền năng mà tri thức đem lại".
Người đầu tiên chỉ ra cho tôi thấy kết luận gây chấn động rằng những gì Tony và tôi thực hiện không hề, trên đất nước này, trái với luật pháp, là luật sư Leonard Boudin. Lúc đó là vào cuối năm 1972, khoảng một năm sau lần xét xử đầu tiên đối với tôi.
Boudin tóm tắt cho tôi về đặc điểm việc nghiên cứu vụ việc trong luật pháp Mỹ, về lịch sử lập pháp của những đạo luật được viện dẫn ra trong các bản cáo trạng của chúng tôi và những kết quả nghiên cứu của đoàn luật sư trong suốt cả một năm vừa qua, kể cả tìm kiếm các vụ án trước đây có thể không có hồ sơ lưu trữ. Cuối cùng anh ta kết luận: "Điều mà tôi có thể nói được là, Dan, anh không hề phạm pháp".
Tôi bật lên: "Quá tuyệt! Tôi sắp được tự do rồi!"
Nhưng Boudin đáp lại: "Tôi e là mọi việc không đơn giản như vậy đâu. Khi chính phủ Mỹ bước vào phòng xử án, nói với quan toà, "Vụ kiện giữa chính phủ Mỹ và Daniel Ellsberg" và đưa ra trước toà mười hai trọng tội của anh… anh đừng mong bước chân ra khỏi phòng xử án mà vẫn còn là một người tự do".
Tôi ngẫm nghĩ kĩ, rồi hỏi: "Thế cơ hội của tôi là bao nhiêu?"
"Năm mươi - năm mươi".
"Năm mươi - năm mươi? Và tôi không hề làm trái pháp luật?"
Leonard trả lời: "Dan, hãy đối diện với sự thật. Sao chụp 7.000 trang tài liệu tuyệt mật và chuyển cho tờ Thời báo New York, tình hình không thật thuận lợi cho anh đâu".
Ngày 22-6-1971, còn hơn một tuần nữa mới đến ngày toà án quyết định gỡ bỏ các hạn chế xuất bản trước đó, Tổng thống nói với Ehrlichman, Ziegler và những người khác: "Dẹp lệnh đình chỉ của toà án đi. Chúng ta sẽ thua thôi… Thế đấy! Chúng ta sẽ thua, phải chuyển sang vụ kiện tụng ngay lập tức khởi kiện Ellsberg".
Buổi chiều ngày 13, ngay sau khi Toà án Tối cao ra phán quyết - ngày hôm trước tôi đã bị cáo buộc mười hai tội trạng nghiêm trọng đối với Liên bang - vào lúc có mặt Henry Kissinger tại Phòng Bầu dục, Tổng thống đã hỏi Bộ trưởng Tư pháp John Mitchell: "Cậu không phản đối (125) nếu chúng ta theo đuổi vụ Ellsberg bây giờ chứ?"
Mitchell: Hiển nhiên là không … một nước đi chúng ta phải làm, để tóm gọn những kẻ nào …
Tổng thống: Phải tống thằng khốn này vào tù.
Kissinger: Chúng ta sẽ tóm được hắn.
Tổng thống: Chúng ta sẽ phải tóm được. Đừng bận tâm về phiên toà nữa. Cứ công bố hết. Cứ để báo chí quy tội cho hắn. Cứ để cho báo chí xét xử. John, tất cả những gì thu được từ cuộc điều tra, công bố hết, để lộ tất cả. Tôi muốn chính báo chí tiêu diệt nó. Trên mặt báo. Tất cả đều đã rõ rồi chứ?
Mitchell Kissinger: Vâng.
Tuy nhiên, chỉ ít phút trước, khi Mitchell chưa đến, và sau khi ông này đã đi khỏi, Kissinger nêu lên một thông tin do Laird cung cấp, một thông tin đã làm thay đổi tình hình hiện tại. Các cuốn băng ghi âm cho đến tận hôm nay vẫn không cho thấy sự lo lắng với những tài liệu tôi đã hoặc có thể sẽ tiết lộ. Mọi người đều cho rằng những tiết lộ này chỉ giới hạn trong thời kỳ cầm quyền của Đảng Dân chủ. Việc đưa tôi ra trước pháp luật và huỷ hoại danh dự của tôi đơn giản chỉ để "nêu gương" cho những người khác, những ai đã từng hoặc giờ vẫn đang phục vụ trong chính quyền có ý định tiết lộ các bí mật của chính phủ. Lo lắng của Tổng thống chỉ giới hạn trong khả năng rò rỉ thông tin từ Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, thậm chí dù rằng Nixon đã nhiều lần đảm bảo là xác suất rủi ro rất thấp, vì ở đấy, không một ai, từ Bộ trưởng trở xuống có thể có trong tay các tài liệu viết tay có giá trị, tất nhiên nếu họ biết được một thông tin nào đó. Nhà Trắng là nơi vạch ra chính sách còn NSC thì rất đáng tin và an toàn. Tuy nhiên, những gì Laird nói với Kissinger vào buổi sáng hôm đó là Thượng nghị sỹ Mathias đang có trong tay "hàng xệp tài liệu (126) nhận từ Ellsberg. "Đó chỉ là các thông báo chuyển đến cho chúng ta thôi - và các bản phúc đáp cũng không nói lên nhiều điều, bởi vì tất cả chỉ là, "Tổng thống đã quyết định rằng, Nixon hỏi xem tin tức đó từ đâu ra. Sau đó:
Tổng thống: Và bọn họ cũng có một số tài liệu của NSC?
Kissinger: Đúng vậy, bọn họ có một vài tài liệu của NSC… Đúng thế.
Tổng thống: Chúng ta không để lại thứ gì về Campuchia ở đó chứ, ở NSC đấy? Quỷ tha ma bắt…
Kissinger: (a) Tài liệu về Campuchia lưu tại NSC từ năm 1969. (b) Toàn bộ hệ thống của chúng ta lại khác. Tôi cũng không rõ đấy là những tài liệu gì… Chắc hẳn đấy là mấy thông báo ngớ ngẩn của Rogers
Ngay sau đó, Kissinger nêu ra vấn đề này với Mitchell. Ông Bộ trưởng Tư pháp khẳng định rằng ông đã được nghe điều này từ chính Mathias: Lúc trước(127) Mathias đã gọi điện cho ông (sau này tôi biết đó là ngày 13-6, và Mitchell không hề báo cáo điều này lại với Phòng Bầu Dục). Vào cuối năm 1971, Thượng nghị sỹ Mathias đã nói với Thượng nghị sỹ Charles Goodell, người khi đó là một trong các luật sư của tôi, rằng với tư cách Thượng nghị sỹ, ông cảm thấy mình có trách nhiệm gọi điện đến nhà Bộ trưởng Tư pháp Mitchell và nói với ông ta rằng: "John, có điều này tôi nghĩ anh nên biết…". Hôm đó là chủ nhật, ngày 13-6, ngày tờ Thời báo bắt đầu cho đăng tải Hồ sơ Lầu Năm Góc. Mitchell nói thêm: "Tôi không hiểu tại sao ông ta không hề đề cập chút nào tới Ellsberg. Tôi còn lạ gì ông ta nữa chứ. Chắc chắn Ellsberg đã từng nói chuyện với Mathias".
Hiển nhiên các câu hỏi đặt ra sẽ là: Tôi đã lấy tài liệu từ bộ phận nào trong chính quyền, chính xác là những tài liệu gì, ngoài ra còn thứ gì khác nữa không, tôi nhận tài liệu từ người nào, và ông ta còn có thể có những tài liệu nào nữa, và tôi sẽ còn đưa ra thêm những gì nữa?
Tổng thống: Mọi chuyện sắp sửa vỡ lở cả rồi… Vấn đề là không chỉ có những tài liệu này thôi đúng không?
Mitchell: Rất có thể như vậy.
Kissinger Có thể, nhưng đương nhiên lúc này, nếu hậu quả là tất cả đối thủ của chúng ta có thể sẽ tiết lộ không chừa một tài liệu gì về chính quyền này và đẩy chúng ta vào thế bị động …
Mitchell Thì khi đó bọn họ sẽ phải thấy một thực tế là Ellsberg đang bị kết tội.
Chính suy nghĩ đó mới thực chất là mục đích của họ khi đưa tôi ra xét xử. Nhưng dường như việc làm đó thôi thì vẫn chưa đủ để giải quyết vấn đề của chính quyền này. Tôi có thể còn có trong tay những tài liệu khác về họ. Tôi cũng có thể tiếp tục vai trò một kênh an toàn cho những người khác, chẳng hạn những ai có thể đã trao cho tôi các tài liệu tôi giao lại cho Mathias vào ngày 2-3-1971. Tôi cũng đã chứng tỏ cho họ thấy từ trước đó rằng, không dễ vì sợ truy tố hay ngồi tù mà tôi sẽ chùn chân. Theo lời Colson, tại phòng Bầu Dục, khi có mặt ông ta, Tổng thống và những người khác, Kissinger đã nói: "Daniel Ellsberg là kẻ nguy hiểm nhất đối với nước Mỹ. Chúng ta phải chặn hắn lại bằng mọi giá"(128).
Vào lúc đó Hồ sơ Lầu Năm Góc mới bắt đầu lên báo được có vài ngày. Dù Kissinger có nhìn thấy mối nguy hiểm nào từ tôi đi chăng nữa, thì tôi vẫn chắc hẳn rằng ông ta nói những lời đó mà quên không tính tới sự kiện kia. Tổng thống coi sự kiện này chủ yếu như một cơ hội vạch trần những việc làm bẩn thỉu của các đời Tổng thống trước. Nếu cần, ông sẽ tự mình làm việc đó.
Cho dù Kissinger có biết trước hay khô:st="on">New York: NXB Simon and Schuster. 1972.
25. Rủi ro, mập mờ và quyết đinh. New York: NXB Garland, 2001. Luận văn Tiến sĩ, Đại học Harvard, 1962.
26. Melvin Gurtov, Oleg Hoeffding, Arnold Horelick, Konrad Kellen và Paul F. Langer, Thư gửi ban biên tập: Tại sao Mỹ không nên ở lại Việt Nam. Ngày 12-10-1969.
27. Fitz Gerald, Frances. "Tấn thảm kịch Sài Gòn". Nguyệt san Adantic (tháng 12-1966), 59-67.
28. Foerstel, Herbert N. Tự do thông tín và quyền được biết. Westport, Conn: NXB Greenwood Press, 1999.
29. Fraser, Don. Bài phát biểu ngày 5-11-1969. Hồ sơ Quốc hội- House, H10598-99.
30. Gardner, Lliyd C. Trả bất kỳ giá nào: Lyndon Johnson và chiến tranh Việt Nam. Chicago: Ivan R. Dee, 1995.
31. Ginger, Ann Fagan. Tổng hợp vụ việc Hồ sơ Lầu Năm Góc. Berkeley, Calif.Dobbs Ferry, N.Y. NXB Oceana, 1975.
32. Halberstam, David. Con đuòng sa lầy New York: NXB Random House, 1965.
33. Những người ưu tú và thông minh nhất. New York: NXB Random House, 1992.
34. Haldeman, H. R. Nhật ký Haldeman: Bên trong Nhà Trắng dưới thời Nixon. New York: NXB Putnam, 1994.
35. Henry, John B., II. "Tháng 2-1968" Tập san Foreign Policy số 4 (Đông 1971), 3-33.
36. Hemng, George C., biên tập. Ngoại giao bí mật trong chiến tranh Việt Nam: Quá trình thương lượng qua Hồ sơ Lầu Năm Góc. Austin: NXB Đại học Texas, 1983.
37. Hersh, Seymour M., Giá của quyền lực. New York: NXB Summit Books, 1983.
38. Hoàng Văn Chí. Từ chủ nghĩa thực dân đến chủ nghĩa cộng sản. New York: Liên kết các NXB, 1964.
39. Hoffman, Paul. Ngừng hoạt động. Sự phản kháng của người Mỹ. New York: NXB Tower Publications, 1970.
40. Kahin, George McTumin. Sự can thiệp. New York: NXB Knopf, 1986.
41. Karnow, Stanley. Việt Nam: Một thiên lịch sử New York: NXB Viking, 1983.
42. King, Martin Luther, Jr. Bước đến nền Tư do. New York: NXB Harper and Row, 1958.
43. Kurtner, Stanley. Lạm dụng quyền lực. New York: NXB Free Press, 1997.
44. Lacouture, Jean và Philippe Devillers. Cái kết của một cuộc chiến. Paris: bản của NXB Scuil, 1960.
45. Lancaster, Donald. Giải.phóng Đông Dươing. New York: NXB Đại học Oxford, 1961.
46. Lansdale, Edward G. "Việt Nam: chúng ta có hiểu cuộc cách mạng của họ?" Tạp chí Foreign Affairs số 4: 1 (tháng mười, 1964).
47. Logevall, Fredrik. Chọn chiến tranh. Berkeley: NXB Đại học California, 1999.
48. Lukas, J. Anthony. Cơn ác mộng. Bên những năm ở Nhà Trắng của Nixon. New York: NXB Bantam, 1977.
49. McAlister, John T., Jr. Việt Nam: Khởi nguồn cuộc cách mạng. New York: NXB Doubleday Anchor, 1971.
50. McMaster, H. R. Quên trách nhiệm: Lyndon Johnson, Robert McNamara, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và sự dối trá đưa nước Mỹ đến Việt Nam. New York: NXB Happer Collins, 1997.
5 1. McNamara, Robert S. Hồi ký. Bi kich và bài học Việt Nam. New York: NXB Times, 1995.
52. Moise, Edwin E. Vịnh Bắc Bộ và quá trình leo thang chiến tranh Việt Nam. Chapel Hill: NXB Đại học North Carolina, 1996.
53. Murphy, Bruce Allen, Fortas. Sự hưng suy của công lý toà án tối cao. New York: Morrow, 1988.
54. Kho dữ liệu An ninh quốc gia, Đại học George Washington: www.gwu.edu/~nsarchiv
55. NSSM-l. Hồ sơ Quốc hội. Ngày 10-5-1972, Ehrlichman 4975 -5066.
56. Hồ sơ Lầu Năm Góc. Lịch sử ra quyết sách về Việt Nam của Bộ Quốc phòng, tập 1-4. Boston: NXB Beacon Press, 1971. (chủ biên Thượng nghị sỹ Gravel).
57. Hồ sơ Lầu Năm Góc. Lịch sự bí mật cuộc chiến tranh Việt Nam, chủ biên: tạp chí New York Times. New York: NXB Bantam, 1971.
58. Perry, Mark. Bốn sao. Boston: NXB Houghton Mifflin, 1989.
59. "Cuộc chiến định mệnh khởi nguồn chiến tranh". Báo US. News, mục World Report (ngày 23-7-1984), 356-67.
60. Báo cáo R-266 của viện Rand. Chọn và sử dụng các căn cứ không quân chiến lược.
61. Báo cáo R-290 của Công ty Rand. Bảo đảm khả năng đáp trả của Mỹ trong thập niên 50 và 60. Santa Monica: Công ty Rand, ngày 1 tháng 9-1956.
62. Reeves, Richard. Tổng thống Kennedy. Lược sử quyền lực. New York: NXB Simon and Schuster, 1993.
63. Rudenstine, David. Khi báo chí câm lặng. Lịch sử vụ việc Hồ sơ Lầu Năm Góc. Berkeley: NXB Đại học California, 1996.
64. Sainteny, Jean. Lịch sử về một nền hoà bình bị bỏ lỡ Đông Dương 1945-1947 Paris: A. Fayard, 1967.
65. Schandler, Herbert Y. Vị Tổng thống bị hạ Lyndon Johnson và Viet Nam. Princeton: NXB Đại học Princeton, 1977.
66. Scheer, Robert. "Vịnh Bắc Bộ - Lý lẽ mơ hồ cho một cuộc chiến". Báo Los Angeles, ngày 29- 4-1985.
67. Schlesinger, Arthur M., Jr. Di sản cay đắng. Việt Nam và nền dân chủ Mỹ, 1941-1966 Greenwich, Conn: Fawcett, 1968.
68. Chuyên chế quyền lực. Boston: Houghton Mimin, 1973.
69. Sheehan, Neil. Sự lừa dối hào nhoáng. John Paul và nước Mỹ ở Việt Nam. New York: NXB Random House, 1988.
70. Siff, Ezra. Vì sao Thượng viện ngủ quên. Westport, Conn: Praeger, 1999.
71. Steadman, Richard C. Bản ghi nhớ gửi Bộ trưởng Quốc phòng (Clark Clifford).
72. Tiêu đề: Lực lượng địch ở miền Nam Việt Nam. Ngày 19-3-1968. Được sự cho phép của John Prados.
73. Thoreau, Henly D. Walden và sự chống đối quyền lực dân sự. Tái bản lần thứ hai. Chủ biên William Rossi. New York: Nortn, 1992.
74. Ungar, Sanford J. Hồ sơ lại hồ sơ New York: Dutton, 1972.
75. VanDeMark, Brian. Sa lầy. New York: NXB Đại học Oxford, 1991.
76. Westmoreland, tướng William C. Người lính báo về. Garden City N.Y.: NXB Doubleday, 1997.
77. Witcover, Jules. Giấc mơ tan vỡ. Thăm lại nước Mỹ. New York: Warner, 1997.
78. Wohlstetter, Albert. "Mỏng manh cân bằng sợ hãi". Tạp chí Foreign Affairs 37:21 (tháng 1-1958).
79. Zinn, Howard. Việt Nam: Sự rút lui hợp lý. Boston: NXB Beacon Press, 1967.
80. Tài liệu chưa xuất bản của Daniel Ellsberg, có tại www.ellsberg.net
81. Bản thảo thông báo của Bộ trưởng và Thứ trưởng Quốc phòng gửi Hội đồng Tham mưu liên quân: Hướng dẫn chính sách xây dựng kế hoạch chiến tranh trung tâm (Một phần bản thảo Chính sách cơ bản mới về An ninh quốc gia). Tháng 5-1961.
82. Báo cáo của Fishnet: Các hoạt động vũ trang của Việt Cộng, Ngày 11 đến 15-2-1965.
83. Phát biểu tại Mạn đàm về Việt Nam, ngày 25-4-1965.
84. Bản thảo bài phát biểu về Việt Nam của Bộ trưởng McNamara. Ngày 22-7-1965.
85. Ghi chép: Thăm Hậu Nghĩa, một tỉnh bất ổn. Tháng 10-1965.
86. Thông báo gửi Lansdale: Nạn tham nhũng ở miền Nam Việt Nam. Ngày 23-11-1965.
87. Thông báo gửi Ngài phó đại sứ Porter, Đánh giá triển vọng phát triển đột phá trong năm 1966 trong Khu vực uu tiên quốc gia quân đoàn III. Tháng 3-1966.
88. Thông báo gửi Lansdale, Hội nghị Hội đồng Đặc nhiệm, ngày 25-7-1966.
89. Ghi lại: Ứng cử viên Kỳ và mối quan tâm của Mỹ tới kỳ bầu cử. Ngày 4-5-1967.
90. Bản thảo bài viết về những sự lựa chọn tại Việt Nam đối với Kissinger và Nixon, ngày 27-12-1968.
91. Các câu hỏi về Việt Nam: NSSM-1.
92. Báo cáo lên Tổng thống: Tóm lược phản ứng của các cơ quan đối với NSSM-1. Đồng tác giả Winston Lord. Tháng 2-1969.
93. Các mục tiêu và ảnh hưởng của Mỹ ở Việt Nam, 1950-1965. Tháng 6-1969.
94. Những quan điểm có ảnh hưởng tới quyết sách của Mỹ về Việt Nam: Nhiều lựa chọn. Tháng 6-1969.
95. Chính sách của Mỹ và chính trị thế giới. Tháng 7-1969.
96. Vũ Văn Thái, Về các mục tiêu và can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, tháng 7-1969.
97. Nho sĩ và Cộng sản: Hoàng Văn Chí nói về mối quan hệ giữa những người Mác xít với các quan điểm của Khổng Tử, và giữa văn hoá với chủ nghĩa cộng sản. Tháng 7-1969.
98. Sự ủng hộ của Mỹ dành cho Diệm: Bình luận của Vũ Văn Thái. Tháng 7-1969.
99. Một vài bài học từ thất bại ở Việt Nam. Công ty Rand P-4026. Tháng 7-1969.
100 Cộng sản và người Việt Nam: Bình luận của Hoàng Văn Chí. Tháng 8-1969.
101.Các mục i dành ưu tiên cao nhất…
Nixon: Dù sao đi nữa, nếu nói tài liệu của Nixon - có nghĩa những tài liệu này - không phải là do tôi viết ra?… Tôi không cho là có thể… bởi vì kể từ khi Kissinger vào đây tôi vẫn bắt ông ta cam đoan bằng mạng sống của mình, không bao giờ để lộ ra thứ gì về tôi, cho dù thế nào.
Ehrlichman: Theo tôi được biết, có thể là tài liệu do Tổng thống viết hoặc là gửi đến cho ngài - một trong hai cách đó. Và…
Nixon: Không thể do tôi viết. Không thể từ tôi, John, bởi vì chỉ có thể do Henry viết mà thôi. Anh hiểu ý tôi chứ? NSC - chúng ta thường làm như vậy.
Mitchell: Tôi hiểu, điều đó đúng với chính quyền của Tổng thống… Nhưng đó là tất cả những thông tin tôi thu thập được.
Nixon: Chúng ta sẽ biết trong vài ngày tới đây thôi… Nếu Ellsberg muốn công khai chúng. Nhưng trong trường hợp, nếu nguồn tài liệu của Ellsberg là những người hiện vẫn còn đường chức…
Mitchell: Tôi đang nghĩ thế.
Nixon: … Tôi cho rằng kế hoạch chúng ta nên tiếp cận từ khía cạnh này. Ellsberg không hành động một mình. Ellsberg là một - Tôi không biết những ai đang tham gia vào đây… Nhưng chúng ta sẽ phải tìm ra những kẻ nào đang câu kết với nhau thực hiện âm mưu này … Chúng ta sẽ phải kết tội bọn chúng trên báo chí, trên báo chí, mọi người hiểu điều tôi muốn nói chứ? Với việc làm này, bọn họ và rõ ràng còn có cả hai, ba người bên Henry đã tự đặt mình lên trên luật pháp. Thề trước Chúa chúng ta sẽ truy tìm ra chúng. Mọi chuyện đã quá rối rắm rồi, tôi không muốn có thêm một người nào bên đó dính líu vào vụ rò rỉ này nữa. Đó là lý do tại sao - John, anh không nên loại trừ trường hợp người của Henry dính líu vào đây. Phải xem còn có kẻ nào vẫn đang làm việc trong chính phủ này hay không. Tôi giao vụ Ellsberg cho anh đấy. Tôi không hứng thú mấy với việc vạch mặt một người, kết tội hắn rồi tự bịt miệng mình.
Nói thật, tôi muốn phơi bày câu chuyện này ra hơn, mọi người đều hiểu chứ? Thậm chí cả câu chuyện về Ellsberg. Tôi không chắc là tôi muốn hắn ta bị xét xử, luận tội - nhưng phải làm thế bởi vì hắn ta đã thừa nhận hết rồi…
Về việc còn lại, tôi cảm thấy giờ là thời điểm rất tốt để anh đi bước tiếp theo, hé ra các thông tin mật và tất cả những gì khác nữa có thể chứng minh tội tày trời của những thằng cha này. Còn phần tôi… rất nóng lòng xem người ta kết tội Ellsberg. Cứ thế.
Mitchell: Đúng vậy, tôi hoàn toàn đồng ý.
Tuy nhiên, Tổng thống cũng không thực sự nghĩ cả vị Bộ trưởng Tư pháp lẫn Bộ Tư pháp thích hợp với công việc ngài đang yêu cầu. Vào ngày 1-7-1971, một ngày sau khi Toà án tối cao đã gỡ bỏ hạn chế xuất bản các tài liệu mật, một ngày sau khi Nhà Trắng đã nhận ra là vấn đề của tôi không thể đơn giản chỉ giải quyết bằng một phiên toà, Tổng thống đã nói với Haldeman:
"Thực ra mà nói, tôi cho là nếu Mitchell thôi làm Bộ trưởng Tư pháp(136) (để chuyển sang chỉ đạo chiến dịch tranh cử), chúng ta sẽ có thuận lợi hơn … John không phải là một luật sư bình thường. Anh ta giỏi và rất mạnh. Để anh ta làm những công việc không hay này thật là không phải, nhưng cần phải làm. Chúng ta sẽ phải đánh trận này…
Trước đó Nixon đã đưa ra với Haldeman, Colson và Ehrlichman yêu cầu của ông "tìm một nhân viên Nhà Trắng(137) tập trung hoàn toàn vào hai công việc". Hai công việc đó, trước tiên, là để lộ các tin xấu về các chính quyền tiền nhiệm thuộc Đảng Cộng hoà, đặc biệt về chính quyền Kennedy, nhưng cũng sẽ quay ngược trở lại thời của FDR và sự kiện Trân Châu Cảng ("Chúng ta đều hiểu ông ta đã biết trước(138) mọi việc sẽ xảy ra như thế nào nhưng ông ta lại cố tình tỏ ra như không"). "Hãy khuấy động không khí một chút… Mọi người sẽ tạm quên đi Việt Nam. Họ sẽ nghĩ ngợi về quá khứ mà tạm quên các vấn đề hiện tại Công việc thứ hai là tiết lộ các thông tin về cá nhân tôi.
Tổng thống: Chúng ta đã dập tắt được vụ (Algerl Hiss(139) trên báo chí. Chúng ta làm được. Tôi đã phải tung tin lên khắp các báo… Chúng ta thắng ở ngay trên mặt báo. John Mitchell khó mà hiểu được một việc như thế này. Anh ta là một luật sư tử tế. Khó mà hiểu được. John Ehrlichman sẽ gặp một số khó khăn đấy. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là chúng ta cần phải xây dựng một chương trình, một chương trình tiết lộ thông tin. Chúng ta sẽ mượn báo chí để tiêu diệt bọn này … Đây là một cuộc chơi. Phải chơi trên mặt báo. Đó là lý do Mitchell không chơi được trận này. Anh ta không thể.
Haldeman: Sẽ phải tìm một người Tổng thống có thể thực sự tin cậy, bởi vì người này sẽ phải…
Tổng thống: Không để lại dấu vết gì tại Nhà Trắng…
Trong các cuộc đàm thoại này, Colson nhiều lần đề cử "một người ở bên ngoài(140) có năng lực và khuynh hướng tư tưởng có khả năng thực hiện tất cả các nhiệm vụ này … Một người sắt đá… Anh ta vừa mới ra khỏi CIA… Tên là Howard Hunt". Từ các cuộc nói chuyến điện thoại với Hunt vào lúc trước mà Colson đã bí mật ghi âm lại và sao chụp, ông ta rút ra: "Về mặt tư tưởng, Hunt hoàn toàn đồng ý phải xây dựng một kế hoạch lớn". Cũng trong cuộc điện đàm đó, Colson đã hỏi nhận xét của Hunt về tôi:
"Anh có nghĩ anh ta(141) hành động đơn độc không?"
Hunt trả lời: "Tôi cho là như thế, nếu không tính đến giới Đông phương chắc chắn đã giúp đỡ và hậu thuẫn anh ta". Được hỏi về việc xét xử tôi, Hunt nói: "Tôi muốn gã này phải bị treo cổ nếu việc ấy có lợi cho chính quyền".
Trong một thông báo gửi cho Haldeman, giới thiệu Hunt, ông ta đã nhắc đến: "Tôi đã quên không nói(142) với anh rằng Hunt là quân sư của CIA trong vụ Vịnh Con Lợn". Một lời giới thiệu việc làm kỳ lạ - như thể ông ta đã đoán biết tác động của nó - nhưng thực chất lại rất hiệu quả. Hunt được nhận việc vào ngày 7-7. Tuy nhiên theo Nixon, lý do quyết định tuyển Hunt lại chính là câu nói tiếp sau của Colson, "Anh ta nói với tôi từ rất lâu rồi rằng nếu sự thật được phơi bày ra, Kennedy hẳn đã bị mất mặt".
Tờ Thời báo đã đăng tải loạt bài về vụ đảo chính Diệm ngay trong số báo đầu tiên sau khi Toà án Tối cao thu hồi lệnh đình chỉ xuất bản. Tổng thống vẫn thấy rằng, chừng đó còn chưa đủ để phơi bày thực chất của chính quyền Kennedy. Hunt được giao nhiệm vụ lục tìm trong đống hồ sơ của Bộ Ngoại giao và CIA những bức điện tín theo kênh không chính thức được xếp vào loại tối mật mà tờ Thời báo vẫn chưa nắm được và qua đó "chỉ ra sự dính líu trực tiếp"(143) của Tổng thống Kennedy vào vụ ám sát Diệm. Không tìm được thông tin nào. Hunt cho rằng các hồ sơ này đã bị xoá sạch. Colson khi đó khuyến khích Hunt "nâng cấp các hồ sơ sẵn có bằng cách làm giả các bức điện gây bất lợi nhiều hơn cho Tổng thống Kennedy. Với những ngón nghề có được sau thời gian làm việc ở CIA của mình, anh ta làm giả hai điện tín và Colson định sắp xếp cho Hunt trao chúng cho một tay phóng viên tờ tạp chí Life. Tay phóng viên này tỏ ra đặc biệt thích thú và tỏ ý muốn đăng lại trên tạp chí Life. Tuy nhiên Hunt đã cảnh báo với Colson rằng nếu bị thẩm định, tài liệu giả đấy sẽ không đứng vững được. Lúc đấy Hunt vẫn chưa làm giả được kiểu giấy in của Nhà Trắng, và "sau vụ Alger Hiss, mọi người đều thận trọng hơn với các tài liệu đánh máy". Vì thế không có bài báo nào lên trang và những tài liệu giả mạo đó nằm lại trong két an toàn của Hunt tại Nhà Trắng cho mãi tới vụ đột nhập vào khách sạn Watergate.
Mặc dù vẫn còn nằm trong danh sách hưởng lương của Colson nhưng từ ngày 17-7, Hunt đã được thuyên chuyển sang một đơn vị điều tra đặc biệt (SIU), do Tổng thống thành lập và trực tiếp giao nhiệm vụ thông qua Cố vấn đối nội, John Ehrlichman. Đứng đầu SIU là Egil Krogh, một trợ tá cho Ehrlichman, David Young, trợ tá cho Kissinger, người sẽ giám sát các hoạt động của Hunt và G. Gordon Liddy, một cựu nhân viên FBI. Nhóm này được lịch sử biết đến với cái tên là "Thợ sửa ống nước Nhà Trắng" do một chuyện đùa của nhóm. Một người họ hàng của David Young sau khi đọc trên tờ Thời báo nói rằng Young đang "vá víu" các rò rỉ tại Nhà Trắng đã nói: "Ông nội sẽ tự hào về cậu cho xem(144)… ông là thợ sửa ống nước mà". Từ đó Young đem treo trước cửa căn phòng số 16 trên căn gác của Toà nhà Văn phòng Hành chính, nơi làm việc tuyệt đối bí mật, lẽ ra không biển hiệu của họ, một tấm biển có ghi ông Young. Thợ sửa ống nước.
Sở dĩ họ mỉa mai tự gọi mình là "thợ sửa ống nước" vì chức năng chính của nhóm này là thực hiện chương trình rò rỉ kép như Tổng thống yêu cầu. Vì thế công việc đầu tiên của Hunt là công bố các bức điện tín bí mật - mà thực chất là "nâng cấp" hoặc làm giả chúng - có liên quan đến Tổng thống Kennedy và Diệm. Lần đầu tiên ông ta sử dụng những lốt nguỵ trang và những bằng chứng giả do CIA cung cấp là trong cuộc điều tra lén lút về trách nhiệm của Ted Kennedy trong tai nạn tại Chappaquiddick, và hiển nhiên kết quả điều tra sẽ được tiết lộ ra ngoài nhằm hoặc thao túng hoặc gây áp lực với Kennedy. Nhiệm vụ thứ hai, thu thập thông tin, vẫn theo một cách có phần lén lút, về bản thân tôi và rồi sẽ lại tiết lộ các thông tin đó ra.
Đây chính là những mục tiêu được vạch ra trong một thông báo của Hunt gửi Colson vào ngày 28-7-1972.
Bản ghi nhớ này chỉ được công khai gần hai năm sau đó nhờ một cuộc thẩm vấn trong phòng xử án của chúng tôi. Tiêu đề của bản ghi nhớ đó là "Trung lập hoá Ellsberg". Mở đầu Hunt viết: "Tôi đề nghị có một khung kế hoạch hành động, mục đích xây dựng tập hồ sơ về Ellsberg, trong đó có chứa tất cả các thông tin công khai, bí mật và những thông tin nhạy cảm với uy tín của Ellsberg. Đây sẽ là công cụ cơ bản quyết định sẽ dùng cách nào nhằm huỷ hoại hình ảnh của ông ta trước công chúng và hạ thấp uy tín của ông ta".
Tiếp theo đó là một danh sách tám "đề mục" được đặt tên là "mong muốn", qua đó xác định những nguồn thông tin có thể sẽ hữu ích, rất đa dạng, bao gồm từ các tài liệu đã được xử lý thông tin mật đến các cuộc phỏng vấn với vợ cũ của tôi, các đồng nghiệp cũ tại Rand và ISA. Hai trong số các mục này là "Yêu cầu CIA bí mật tiến hành đánh giá tâm lý với Ellsberg" và, như một điềm báo, "Thu thập hồ sơ về Ellsberg từ những phân tích bệnh tâm thần của anh ta".
Khuyến nghị cuối cùng này đã dẫn đến vụ đột nhập vào văn phòng bác sỹ phân tâm trước của tôi tại Beverly Hill, ông Lewis Fielding. Có lý do hầu hết mọi người coi đề nghị cuối cùng này cùng với việc thu nhận Howard Hunt là sự mở đầu cho quá trình lụn bại của chính quyền Nixon. Tuy nhiên chưa có mấy người phán đoán chính xác các động cơ đằng sau haỉ hành động trên và phần lớn các phán đoán đều đi quá xa. Có độ tin cậy nhiều nhất là phát biểu của Egil Krogh về mục tiêu hoạt động của SIU và vụ đột nhập vào văn phòng của Fielding.
Ông này là người phụ trách SIU nhưng đồng thời cũng là người duy nhất luôn thành thực, thẳng thắn. Ông đã khai nhận trước mặt thẩm phán Gerhart Gesell tại toà(145) tội chỉ đạo vụ đột nhập vào nhà Fielding, trình bày các mục đích của vụ trộm và ý định sử dụng thông tin thu được sau đó. "Chúng tôi vạch ra rất nhiều mục tiêu cho chiến dịch này". Một trong số đó là đánh giá khả năng bị truy tố ra toà có khiến Tiến sĩ Ellsberg tiết lộ thêm nữa những tài liệu mật không, hay nếu không thì ông ta sẽ im lặng".
Điều này có vẻ không hợp lý nếu đặt ngoài bối cảnh cuộc thảo luận giữa Kissinger và Tổng thống ngày 27-7, một ngày trước khi Hunt thảo ra kế hoạch cho một cuộc điều tra ngoài luật nhằm "trung lập hoá Ellsberg":
Kissinger: Tôi cho là Mitchell nên hoãn lại(146) việc xét xử Ellsberg cho đến khi chúng ta dù bằng cách này hay cách khác khép lại được cuộc chiến tranh Việt Nam
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32 ( Hết )
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~--- !!!8852_35.htm!!!-region>. Bởi vì tên khốn kiếp ấy. Đầu tiên, tôi cứ hy vọng - Tôi biết hắn khá rõ… Tôi chắc chắn rằng hắn ta vẫn còn giấu giếm thông tin khác nữa….Tôi cược là hắn ta ém lại cho phiên toà. Vì hắn có trong tay các bằng chứng về tội ác chiến tranh của Mỹ. Tôi không biết, nhưng tôi có cảm giác như thế.
    Tổng thống: Được.
    Kissinger: Hắn ta sẽ hành động như vậy.
    Tổng thống: Hoãn lại ư, phiên toà này…
    Kissinger: Thứ hai, chờ khi chúng ta chấm dứt được cuộc chiến này, chúng ta sẽ trút hết lên Ellsberg. Chúng ta sẽ ở thế mạnh hơn - và không ai buồn nhớ gì đến tội ác chiến tranh nữa. Ellsberg, đồ bỉ ổi!
    Trước mặt thẩm phán Gesel vào tháng giêng năm 1974, Krogh khai nhận là các "mục đích tiềm năng" của thông tin thu được từ vụ đột nhập rất "đa dạng".
    "Đương nhiên mục tiêu hàng đầu(147) là ngăn chặn tiến sĩ Ellsberg tiếp tục tiết lộ các thông tin khác và loại trừ bất cứ bộ máy phục vụ việc tiết lộ thông tin có thể đã được thành lập. Chúng tôi, đặc biệt là E. Howard Hunt, cũng cho rằng thông tin loại này có thể có tác dụng buộc Tiến sĩ Ellsberg phải tự mình khai. ra những ý đồ thực sự của ông ta. Cuối cùng, trọng tâm của quá trình điều tra lúc đó đang được tiến hành là khả năng sử dụng các thông tin này hạ thấp uy tín của một người phát ngôn cho phong trào phản đối chiến tranh".
    Krogh, trong một lời khai khác đã nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng này. Trái với phỏng đoán trong gần như tất cả các tường trình từ trước tới giờ, ông ta không coi nó là mục tiêu tối quan trọng:
    "Việc hạ thấp uy tín của Tiến sĩ Ellsberg sẽ có tác dụng làm chùn chân những kẻ khác định bắt chước ông ta. Nó cũng sẽ hạn chế khả năng của ông ta kích động tinh thần chống đối chính sách Việt Nam mà Tổng thống Nixon đã lựa chọn. Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn được coi là cốt tử của An ninh quốc gia.
    Do đó, một trong các mục tiêu đặt ra cho SIU và vụ đột nhập là thu thập tin tức phục vụ nhiệm vụ Nixon đã giao phó cho Mitchell, Colson, và Hunt: tung ra dư luận các thông tin đó và "mượn báo chí để kết tội (tôi)". Tuy nhiên, theo lời Egil Krogh (sau này ông ta khẳng định với tôi như thế), đây không là mục đích chính của tất cả các nỗ lực nhằm vào tôi và kể cả của cuộc đột nhập riêng rẽ vào văn phòng bác sĩ phân tâm cũ của tôi.
    Trong một lời khai vào năm 1974 của Krogh, ông ta nhớ lại:
    "Tôi nhớ rằng nhiệm vụ của tôi là tập trung vào việc ngăn chặn những tiết lộ mới của Ellsberg và triệt tiêu bất cứ bộ máy nào ông ta có thể đã dựng lên để phục vụ ý đồ này của mình. Theo như tôi hiểu thì đây là nhiệm vụ trung tâm được giao phó cho đơn vị chúng tôi".
    Cũng không có gì là hoang tưởng khi cả Tổng thống Nixon và Henry Kissinger đều nghi ngại tôi sẽ đưa ra các tài liệu tối mật khác đe doạ đến chính sách Việt Nam của họ. Cứ dựa vào những gì Thượng nghị sỹ Mathias đã nói với Kissinger - nhưng ông ta lại không để họ nhìn thấy tận mắt bất cứ tài liệu nào - cả hai người đều cho rằng tôi đang nắm giữ những tài liệu mật về Việt Nam, lấy được từ NSC, và tôi vẫn chưa hề công bố. Nixon và Kissinger không biết đó chỉ là những tài liệu chính tôi đã soạn ra (theo yêu cầu của Nixon), đã sao chụp và chuyện về Rand, cho nên giả định duy nhất của họ chỉ có thể là tôi đã nhận tài liệu từ một ai đó từng làm việc tại NSC vào năm 1969, hoặc có thể người này vẫn còn làm việc tại đây và vẫn có khả năng trao cho tôi những tài liệu khác. Thậm chí cho dù về sau người này có ra khỏi NSC, các kế hoạch cũng vẫn đã được vạch ra từ năm 1969, chi tiết với từng bước leo thang là chỗ dựa nhằm bí mật đe doạ Hà Nội, và những hành động leo thang đã và sẽ được thực hiện, trong thời gian từ năm 1969 đến năm 1971. Những kế hoạch dự phòng(148), sự đe doạ, và nhiều đợt leo thang chiến tranh tại Campuchia và Lào, tất cả đều được giữ kín - không nhằm che giấu chính quyền Hà Nội hay các nước đồng minh Cộng sản, mà chính Quốc hội và dư luận Mỹ - chính bởi vì nếu công khai, theo dự đoán bất ngờ sâu sắc của Krogh, sẽ đe doạ đến điều mà Nhà Trắng coi là "cốt tử của an ninh quốc gia": "Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn".
    Tôi không cho rằng Nixon đã thực sự nghĩ tôi chính là mối đe doạ với "an ninh quốc gia", nếu bốn chữ đó được định nghĩa đúng như nó phải thế. Với tất cả khả năng của mình, tôi đe doạ công khai một chiến lược mà nếu tất cả mọi người đều hiểu đúng về nó, nền dân chủ của chúng ta có thể sẽ không cho phép Tổng thống tự do không e ngại điều gì theo đuổi chiến lược này.
    Vẫn còn đó một câu hỏi, thông tin thu thập được từ văn phòng bác sĩ phân tâm sẽ có ích gì với kế hoạch "ngăn chặn các tiết lộ mới"? Tôi mới chỉ mập mờ hiểu điều đó, cho mãi đến năm 1975 khi Taylor Branch, phóng viên và là người gần đây đã nhận giải thưởng văn học Pulitzer viết về tiểu sử Martin Luther King Jr, cho tôi biết câu trả lời. Trong năm đó, Branch và một đồng nghiệp của mình, George Crile đã phỏng vấn một số người Cuba có liên hệ với Howard Hunt qua một loạt các kế hoạch phiêu lưu, bắt đầu từ vụ Vịnh Con Lợn. Có Eugenio Martinez và Bemard Barker, cả hai đều đã tham gia vào vụ trộm tại nhà bác sĩ Fielding, và sau đó là khách sạn Watergate (và trong cả một âm mưu ám sát tôi vào năm 1972, tôi sẽ kể lại chi tiết trong chương sau). Họ cho Branch hay rằng, trong năm 1971 họ có nhiệm vụ tìm kiếm các thông tin cá nhân mà tôi không muốn tiết lộ, dựa vào đó gây áp lực buộc tôi khai ra những bí mật vẫn còn nắm giữ có thể ảnh hưởng đến An ninh quốc gia. Họ không biết những bí mật đó là gì, chỉ biết rằng tôi là "kẻ phản quốc".
    Cũng với mục đích này, họ còn được giao tìm hiểu về chính bác sĩ Fielding trong hồ sơ cá nhân của ông, làm thế nào khiến ông thay đổi quyết định và cung cấp cho FBI các thông tin của tôi. Biết như vậy, tôi cảm thấy vỡ lẽ ra nhiều so với giả định ngây thơ rằng các bệnh án viết tay của bác sĩ phân tâm lại có chứa các thông tin SIU cần đến. Buộc chính vị bác sĩ phân tích tâm lý ấy nói về bệnh nhân của mình có lẽ còn hiệu quả hơn nhiều. Thực chất, Barker đã trả lời phỏng vấn tờ Harper's rằng sau khi xem xét báo cáo nộp thuế thu nhập của Fielding, anh ta "cảm thấy hình như vị bác sĩ tử tế này lại không hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế". Ngoài ra, song song với tìm kiếm thông tin về tôi, bọn họ còn nghiên cứu về vợ và các con tôi, mục đích không gì khác ngoài thao túng tôi.
    Tất cả những việc này, đương nhiên không loại trừ kế hoạch công bố các thông tin hoặc do Fielding cung cấp hoặc tìm thấy qua hồ sơ bệnh án của ông. Công việc có thể sẽ do chính Colson thực hiện (như trong một ghi nhớ của SIU vào thời điểm đó). Tuy nhiên, nhìn vào những gì Krog cho là chức năng của SIU, sẽ hợp lý hơn nếu thấy khả năng tiết lộ thông tin là rất ít so với hành động đe doạ sẽ tiết lộ. Branch cho hay là một số các kế hoạch chi tiết khác cũng đã được thảo luận. Đứng trước nguy cơ các thông tin nhạy cảm của mình bị lộ ra ngoài, ít nhất tôi cũng sẽ chùn chân. Thậm chí họ còn hy vọng tôi bỏ đi sống lưu vong, ở Cuba, hay Algeria, như gương của Eldridge Cleaver hoặc Timothy Leary, hoặc khiến tôi tự sát (là điều FBI mong mỏi nhất khi họ gửi đến cho Martin Luther King. Jr cuốn băng nghe trộm các cuộc phiêu lưu tình ái của ông). Tôi hiểu rõ con người mình khi đó, và biết chắc rằng không gì có thể thao túng được tôi. Nhưng nếu họ có hy vọng thì cũng chẳng có gì là vô lý. Không gì là chắc chắn cả, Nhà Trắng đã chợt nhận ra nguy cơ đó với chính sách chiến tranh họ đang bí mật tiến hành nếu nó bị tiết lộ.
    Chú thích:
    (106) "Theo dư luận" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (107) "Lào và Campuchia" - sđd.
    (108) "Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp" - Tổng thống và Ehrlichman, 19:13, 14 tháng 6, 1971, Điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (109) "Lời cảnh cáo sơ bộ" - Tổng thống và Mitchell, 19:19, 14 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (110) "Lệnh của toà án chỉ" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 10:39, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-2.
    (111) "mớ tài liệu dính dáng tới Kennedy" - Tổng thống và Ziegler, 24:59, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-7.
    (112) Tổng thống, Kissinger, Ehrlichman và Haldeman, 17:15, 17 tháng 7, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 525-1.
    (113) Sau khi Kissinger đi khỏi: Tổng thống nói chuyện với Colson, 18:21, 17 tháng 7, 1971, Biên bản điện đàm Nhà Trắng, Phòng Bầu Dục 525-1.
    (114) "Đơn giản chúng ta không thể cho phép" - Tổng thống và Colson, 18:21, 15 tháng 7, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục, Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (115) "… có một bức hình lớn" - Tổng thống, Haldeman, Ehrlichman và Mitchell, 17:09, 22 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (116) "Tôi buộc phải làm như vậy" - Trích lại trong Ungar, 186
    (117) "tốt nhất là" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 9:38, 24 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
    (118) "Quỷ tha ma bắt, phải tống một tên nào đó vào từ" - Tổng thống và Haldeman, 9:56 sáng, 15 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (119) "Có cách nào" - Tổng thống, Mitchell và Ziegler, 15:45, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục, 521-9.
    (120) "Tại sao FBI chưa" - Tổng thống, Ziegler và Haldeman, 14:42, 17 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (121) "Tổng thống, ngài cần phải mạnh tay" - Tổng thống, Kissinger và Ziegler, 22:39, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 520-4.
    (122) "Có những lý do đặc biệt" - Liên quan tới các rò rỉ về Campuchia, Lào hoặc chiến dịch Thực đơn, xem Tổng thống, Haig và Kissinger, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 23:04, 23 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Kissinger, 30 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 8:45, 1 tháng 7, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Ehrlichman, 10:58, 8 tháng 10, Phòng Bầu Dục.
    (123) "Bất cứ khi nào" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 23 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục.
    (124) "Một chính phủ được lòng dân" - Foerstel, tr. 11, trích dẫn Các bài viết của James Madison, 9, chủ biên Gaillard Hunt (New York: NXB Putnam, 1900-10), trang 103
    (125) "Cậu không phản đối" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 6.
    (126) "hàng xệp tài liệu" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (127) "Lúc trước", "Tại sao ông ta không hề đề cập tới" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 30 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (128) "Daniel Ellsberg là kẻ nguy hiểm nhất" - trích trong Hersh, tr. 385.
    (129) "Đã đến lúc phải hành động" - trích trong sđd, trang 330.
    (130) "Nhưng ở đây rất an toàn" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (131) "Việc khó là" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
    (132) "Mathias vẫn đang chơi trò mèo vờn chuột" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11: 47, 6 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục (trích Hồ sơ Đội chuyện trách khởi tố đặc biệt vụ Watergate, hội thoại 538-015, băng ghi âm Nhà Trắng).
    (133) "cái trò trẻ con" - Tổng thống và Ehrlichman, 11:09, 20 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (134) "Ellsberg đã như thế" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11:47, 6 tháng 6, 1971.
    (135) "Vấn đề Mathias" - sđd.
    (136) "Thực ra mà nói, nếu Mitchell thôi" - Tổng thống, Haldeman và Colson, 9:15, 2 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
    (137) "một nhân viên Nhà Trắng" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
    (138) "Chúng ta đều hiểu, ông ta đã biết trước" - Tổng thống và Haldeman, 15:09, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (139) "… chúng ta đã dập tắt vụ "Algerl Hiss" - Tổng thống, Haldeman và Kissinger, 8:45, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 7.
    (140) "một người ở bên ngoài" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrli(.hman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 13.
    (141) "Anh có nghĩ anh ta" - Biên bản điện đàm của Charles Colson với Howard Hunt, 1 tháng 7, 1971, Tài liệu Watergate, hồ sơ riêng của tác giả.
    (142) "Tôi đã quên" - Thông báo của Charles Colson gửi H. R. H. Trả lời: Howard Hunt, 2 tháng 7, 1971, sđd.
    (143) "chỉ ra sự dính líu trực tiếp" - Biên bản cuộc điều trần của E. Howard Hunt trước Đại bồi thẩm đoàn, 2 tháng 5, 1973, sđd.
    (144) "Ông nội sẽ tự hào về cậu" - trích trong Lukas, trang 101-2.
    (145) ông đã khai nhận trước mặt Thẩm phán Gerhart Gesell tại toà: Lời khai trước Toà án Tiền kết án, 22 tháng 1, 1974. Nathaniel Akerman cung cấp.
    (146) "Tôi cho là Mitchell nên" - Tổng thống và Kissinger, 14:20, 27 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (147) "Đương nhiên, mục tiêu hàng đầu là"; "Làm Ellsberg mất uy tín"; "Tôi nhớ rằng" - Lời khai trước Toà án Tiền kết án.
    (148) Liên quan tới các rò rỉ về kế hoạch dự phòng, bao gồm kế hoạch phong toả Hải Phòng và ném bom các kênh đào: Tổng thống và Kissinger, 13 tháng 6, 15 tháng 6, 30 tháng 6, 1971; Tổng thống, Kissinger và Haldeman, 30 tháng 6, 1971.

    Truyện Những bí mật về chiến tranh Việt Nam ---~~~cungtacgia~~~--- !!!8852_35.htm!!!-region>. Bởi vì tên khốn kiếp ấy. Đầu tiên, tôi cứ hy vọng - Tôi biết hắn khá rõ… Tôi chắc chắn rằng hắn ta vẫn còn giấu giếm thông tin khác nữa….Tôi cược là hắn ta ém lại cho phiên toà. Vì hắn có trong tay các bằng chứng về tội ác chiến tranh của Mỹ. Tôi không biết, nhưng tôi có cảm giác như thế.
    Tổng thống: Được.
    Kissinger: Hắn ta sẽ hành động như vậy.
    Tổng thống: Hoãn lại ư, phiên toà này…
    Kissinger: Thứ hai, chờ khi chúng ta chấm dứt được cuộc chiến này, chúng ta sẽ trút hết lên Ellsberg. Chúng ta sẽ ở thế mạnh hơn - và không ai buồn nhớ gì đến tội ác chiến tranh nữa. Ellsberg, đồ bỉ ổi!
    Trước mặt thẩm phán Gesel vào tháng giêng năm 1974, Krogh khai nhận là các "mục đích tiềm năng" của thông tin thu được từ vụ đột nhập rất "đa dạng".
    "Đương nhiên mục tiêu hàng đầu(147) là ngăn chặn tiến sĩ Ellsberg tiếp tục tiết lộ các thông tin khác và loại trừ bất cứ bộ máy phục vụ việc tiết lộ thông tin có thể đã được thành lập. Chúng tôi, đặc biệt là E. Howard Hunt, cũng cho rằng thông tin loại này có thể có tác dụng buộc Tiến sĩ Ellsberg phải tự mình khai. ra những ý đồ thực sự của ông ta. Cuối cùng, trọng tâm của quá trình điều tra lúc đó đang được tiến hành là khả năng sử dụng các thông tin này hạ thấp uy tín của một người phát ngôn cho phong trào phản đối chiến tranh".
    Krogh, trong một lời khai khác đã nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng này. Trái với phỏng đoán trong gần như tất cả các tường trình từ trước tới giờ, ông ta không coi nó là mục tiêu tối quan trọng:
    "Việc hạ thấp uy tín của Tiến sĩ Ellsberg sẽ có tác dụng làm chùn chân những kẻ khác định bắt chước ông ta. Nó cũng sẽ hạn chế khả năng của ông ta kích động tinh thần chống đối chính sách Việt Nam mà Tổng thống Nixon đã lựa chọn. Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn được coi là cốt tử của An ninh quốc gia.
    Do đó, một trong các mục tiêu đặt ra cho SIU và vụ đột nhập là thu thập tin tức phục vụ nhiệm vụ Nixon đã giao phó cho Mitchell, Colson, và Hunt: tung ra dư luận các thông tin đó và "mượn báo chí để kết tội (tôi)". Tuy nhiên, theo lời Egil Krogh (sau này ông ta khẳng định với tôi như thế), đây không là mục đích chính của tất cả các nỗ lực nhằm vào tôi và kể cả của cuộc đột nhập riêng rẽ vào văn phòng bác sĩ phân tâm cũ của tôi.
    Trong một lời khai vào năm 1974 của Krogh, ông ta nhớ lại:
    "Tôi nhớ rằng nhiệm vụ của tôi là tập trung vào việc ngăn chặn những tiết lộ mới của Ellsberg và triệt tiêu bất cứ bộ máy nào ông ta có thể đã dựng lên để phục vụ ý đồ này của mình. Theo như tôi hiểu thì đây là nhiệm vụ trung tâm được giao phó cho đơn vị chúng tôi".
    Cũng không có gì là hoang tưởng khi cả Tổng thống Nixon và Henry Kissinger đều nghi ngại tôi sẽ đưa ra các tài liệu tối mật khác đe doạ đến chính sách Việt Nam của họ. Cứ dựa vào những gì Thượng nghị sỹ Mathias đã nói với Kissinger - nhưng ông ta lại không để họ nhìn thấy tận mắt bất cứ tài liệu nào - cả hai người đều cho rằng tôi đang nắm giữ những tài liệu mật về Việt Nam, lấy được từ NSC, và tôi vẫn chưa hề công bố. Nixon và Kissinger không biết đó chỉ là những tài liệu chính tôi đã soạn ra (theo yêu cầu của Nixon), đã sao chụp và chuyện về Rand, cho nên giả định duy nhất của họ chỉ có thể là tôi đã nhận tài liệu từ một ai đó từng làm việc tại NSC vào năm 1969, hoặc có thể người này vẫn còn làm việc tại đây và vẫn có khả năng trao cho tôi những tài liệu khác. Thậm chí cho dù về sau người này có ra khỏi NSC, các kế hoạch cũng vẫn đã được vạch ra từ năm 1969, chi tiết với từng bước leo thang là chỗ dựa nhằm bí mật đe doạ Hà Nội, và những hành động leo thang đã và sẽ được thực hiện, trong thời gian từ năm 1969 đến năm 1971. Những kế hoạch dự phòng(148), sự đe doạ, và nhiều đợt leo thang chiến tranh tại Campuchia và Lào, tất cả đều được giữ kín - không nhằm che giấu chính quyền Hà Nội hay các nước đồng minh Cộng sản, mà chính Quốc hội và dư luận Mỹ - chính bởi vì nếu công khai, theo dự đoán bất ngờ sâu sắc của Krogh, sẽ đe doạ đến điều mà Nhà Trắng coi là "cốt tử của an ninh quốc gia": "Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn".
    Tôi không cho rằng Nixon đã thực sự nghĩ tôi chính là mối đe doạ với "an ninh quốc gia", nếu bốn chữ đó được định nghĩa đúng như nó phải thế. Với tất cả khả năng của mình, tôi đe doạ công khai một chiến lược mà nếu tất cả mọi người đều hiểu đúng về nó, nền dân chủ của chúng ta có thể sẽ không cho phép Tổng thống tự do không e ngại điều gì theo đuổi chiến lược này.
    Vẫn còn đó một câu hỏi, thông tin thu thập được từ văn phòng bác sĩ phân tâm sẽ có ích gì với kế hoạch "ngăn chặn các tiết lộ mới"? Tôi mới chỉ mập mờ hiểu điều đó, cho mãi đến năm 1975 khi Taylor Branch, phóng viên và là người gần đây đã nhận giải thưởng văn học Pulitzer viết về tiểu sử Martin Luther King Jr, cho tôi biết câu trả lời. Trong năm đó, Branch và một đồng nghiệp của mình, George Crile đã phỏng vấn một số người Cuba có liên hệ với Howard Hunt qua một loạt các kế hoạch phiêu lưu, bắt đầu từ vụ Vịnh Con Lợn. Có Eugenio Martinez và Bemard Barker, cả hai đều đã tham gia vào vụ trộm tại nhà bác sĩ Fielding, và sau đó là khách sạn Watergate (và trong cả một âm mưu ám sát tôi vào năm 1972, tôi sẽ kể lại chi tiết trong chương sau). Họ cho Branch hay rằng, trong năm 1971 họ có nhiệm vụ tìm kiếm các thông tin cá nhân mà tôi không muốn tiết lộ, dựa vào đó gây áp lực buộc tôi khai ra những bí mật vẫn còn nắm giữ có thể ảnh hưởng đến An ninh quốc gia. Họ không biết những bí mật đó là gì, chỉ biết rằng tôi là "kẻ phản quốc".
    Cũng với mục đích này, họ còn được giao tìm hiểu về chính bác sĩ Fielding trong hồ sơ cá nhân của ông, làm thế nào khiến ông thay đổi quyết định và cung cấp cho FBI các thông tin của tôi. Biết như vậy, tôi cảm thấy vỡ lẽ ra nhiều so với giả định ngây thơ rằng các bệnh án viết tay của bác sĩ phân tâm lại có chứa các thông tin SIU cần đến. Buộc chính vị bác sĩ phân tích tâm lý ấy nói về bệnh nhân của mình có lẽ còn hiệu quả hơn nhiều. Thực chất, Barker đã trả lời phỏng vấn tờ Harper's rằng sau khi xem xét báo cáo nộp thuế thu nhập của Fielding, anh ta "cảm thấy hình như vị bác sĩ tử tế này lại không hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế". Ngoài ra, song song với tìm kiếm thông tin về tôi, bọn họ còn nghiên cứu về vợ và các con tôi, mục đích không gì khác ngoài thao túng tôi.
    Tất cả những việc này, đương nhiên không loại trừ kế hoạch công bố các thông tin hoặc do Fielding cung cấp hoặc tìm thấy qua hồ sơ bệnh án của ông. Công việc có thể sẽ do chính Colson thực hiện (như trong một ghi nhớ của SIU vào thời điểm đó). Tuy nhiên, nhìn vào những gì Krog cho là chức năng của SIU, sẽ hợp lý hơn nếu thấy khả năng tiết lộ thông tin là rất ít so với hành động đe doạ sẽ tiết lộ. Branch cho hay là một số các kế hoạch chi tiết khác cũng đã được thảo luận. Đứng trước nguy cơ các thông tin nhạy cảm của mình bị lộ ra ngoài, ít nhất tôi cũng sẽ chùn chân. Thậm chí họ còn hy vọng tôi bỏ đi sống lưu vong, ở Cuba, hay Algeria, như gương của Eldridge Cleaver hoặc Timothy Leary, hoặc khiến tôi tự sát (là điều FBI mong mỏi nhất khi họ gửi đến cho Martin Luther King. Jr cuốn băng nghe trộm các cuộc phiêu lưu tình ái của ông). Tôi hiểu rõ con người mình khi đó, và biết chắc rằng không gì có thể thao túng được tôi. Nhưng nếu họ có hy vọng thì cũng chẳng có gì là vô lý. Không gì là chắc chắn cả, Nhà Trắng đã chợt nhận ra nguy cơ đó với chính sách chiến tranh họ đang bí mật tiến hành nếu nó bị tiết lộ.
    Chú thích:
    (106) "Theo dư luận" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (107) "Lào và Campuchia" - sđd.
    (108) "Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp" - Tổng thống và Ehrlichman, 19:13, 14 tháng 6, 1971, Điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (109) "Lời cảnh cáo sơ bộ" - Tổng thống và Mitchell, 19:19, 14 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (110) "Lệnh của toà án chỉ" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 10:39, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-2.
    (111) "mớ tài liệu dính dáng tới Kennedy" - Tổng thống và Ziegler, 24:59, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-7.
    (112) Tổng thống, Kissinger, Ehrlichman và Haldeman, 17:15, 17 tháng 7, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 525-1.
    (113) Sau khi Kissinger đi khỏi: Tổng thống nói chuyện với Colson, 18:21, 17 tháng 7, 1971, Biên bản điện đàm Nhà Trắng, Phòng Bầu Dục 525-1.
    (114) "Đơn giản chúng ta không thể cho phép" - Tổng thống và Colson, 18:21, 15 tháng 7, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục, Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (115) "… có một bức hình lớn" - Tổng thống, Haldeman, Ehrlichman và Mitchell, 17:09, 22 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (116) "Tôi buộc phải làm như vậy" - Trích lại trong Ungar, 186
    (117) "tốt nhất là" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 9:38, 24 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
    (118) "Quỷ tha ma bắt, phải tống một tên nào đó vào từ" - Tổng thống và Haldeman, 9:56 sáng, 15 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (119) "Có cách nào" - Tổng thống, Mitchell và Ziegler, 15:45, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục, 521-9.
    (120) "Tại sao FBI chưa" - Tổng thống, Ziegler và Haldeman, 14:42, 17 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (121) "Tổng thống, ngài cần phải mạnh tay" - Tổng thống, Kissinger và Ziegler, 22:39, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 520-4.
    (122) "Có những lý do đặc biệt" - Liên quan tới các rò rỉ về Campuchia, Lào hoặc chiến dịch Thực đơn, xem Tổng thống, Haig và Kissinger, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 23:04, 23 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Kissinger, 30 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 8:45, 1 tháng 7, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Ehrlichman, 10:58, 8 tháng 10, Phòng Bầu Dục.
    (123) "Bất cứ khi nào" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 23 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục.
    (124) "Một chính phủ được lòng dân" - Foerstel, tr. 11, trích dẫn Các bài viết của James Madison, 9, chủ biên Gaillard Hunt (New York: NXB Putnam, 1900-10), trang 103
    (125) "Cậu không phản đối" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 6.
    (126) "hàng xệp tài liệu" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (127) "Lúc trước", "Tại sao ông ta không hề đề cập tới" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 30 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (128) "Daniel Ellsberg là kẻ nguy hiểm nhất" - trích trong Hersh, tr. 385.
    (129) "Đã đến lúc phải hành động" - trích trong sđd, trang 330.
    (130) "Nhưng ở đây rất an toàn" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (131) "Việc khó là" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
    (132) "Mathias vẫn đang chơi trò mèo vờn chuột" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11: 47, 6 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục (trích Hồ sơ Đội chuyện trách khởi tố đặc biệt vụ Watergate, hội thoại 538-015, băng ghi âm Nhà Trắng).
    (133) "cái trò trẻ con" - Tổng thống và Ehrlichman, 11:09, 20 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (134) "Ellsberg đã như thế" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11:47, 6 tháng 6, 1971.
    (135) "Vấn đề Mathias" - sđd.
    (136) "Thực ra mà nói, nếu Mitchell thôi" - Tổng thống, Haldeman và Colson, 9:15, 2 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
    (137) "một nhân viên Nhà Trắng" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
    (138) "Chúng ta đều hiểu, ông ta đã biết trước" - Tổng thống và Haldeman, 15:09, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
    (139) "… chúng ta đã dập tắt vụ "Algerl Hiss" - Tổng thống, Haldeman và Kissinger, 8:45, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 7.
    (140) "một người ở bên ngoài" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrli(.hman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 13.
    (141) "Anh có nghĩ anh ta" - Biên bản điện đàm của Charles Colson với Howard Hunt, 1 tháng 7, 1971, Tài liệu Watergate, hồ sơ riêng của tác giả.
    (142) "Tôi đã quên" - Thông báo của Charles Colson gửi H. R. H. Trả lời: Howard Hunt, 2 tháng 7, 1971, sđd.
    (143) "chỉ ra sự dính líu trực tiếp" - Biên bản cuộc điều trần của E. Howard Hunt trước Đại bồi thẩm đoàn, 2 tháng 5, 1973, sđd.
    (144) "Ông nội sẽ tự hào về cậu" - trích trong Lukas, trang 101-2.
    (145) ông đã khai nhận trước mặt Thẩm phán Gerhart Gesell tại toà: Lời khai trước Toà án Tiền kết án, 22 tháng 1, 1974. Nathaniel Akerman cung cấp.
    (146) "Tôi cho là Mitchell nên" - Tổng thống và Kissinger, 14:20, 27 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
    (147) "Đương nhiên, mục tiêu hàng đầu là"; "Làm Ellsberg mất uy tín"; "Tôi nhớ rằng" - Lời khai trước Toà án Tiền kết án.
    (148) Liên quan tới các rò rỉ về kế hoạch dự phòng, bao gồm kế hoạch phong toả Hải Phòng và ném bom các kênh đào: Tổng thống và Kissinger, 13 tháng 6, 15 tháng 6, 30 tháng 6, 1971; Tổng thống, Kissinger và Haldeman, 30 tháng 6, 1971.
    --!!tach_noi_dung!!--

    Đánh máy: Mõ Hà nội ( Nguyễn Học)
    Nguồn: Nhà xuất bản công an nhân dân - Mõ Hà Nội
    Vnthuquan - Thư viện Online
    Được bạn: Ct.Ly đưa lên
    vào ngày: 19 tháng 2 năm 2007

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--