Dịch giả: Phạm Mai Hiền
Con ngỗng trời bị rơi
EDMOND GILLIGAN.
Nhà văn Mỹ.

Tuyết tháng tư tan ra trên bờ con hói, nơi bác Abel đang uể oải khua mái chèo cho con thuyền ván mỏng trôi theo con nước chảy xuôi. Bên cạnh những thân cây đã bị băng giá làm nứt vỡ trong mùa đông là những thân cây mới mọc ngả bóng trên những đám tuyết còn rớt lại. Khi bác Abel đi ngang con sông Hudson lộng gió, từng cuộn bụi tuyết như thủy tinh rơi vào tay bác. Rồi chúng tan ngay trong bàn tay sần sùi, sứt sẹo, ấm nóng – bàn tay to và đen không khi nào thay đổi màu sắc bởi vì công việc của chúng không khi nào thay đổi. Trên trời cao, xa xa phía xuôi, vang lên tiếng nhạc, bác nở một nụ cười thanh thản:
- Về đó hử? Đã về rồi đó hử?
Trên ngọn trơ trụi của cây tần bì đã chết, một con chim hét ẩn dật đang hót ngọt ngào. Đầu con chim in hình thật rõ trên nền trời, và bác Abel có thể thấy rõ cái ức con chim màu nâu có điểm trắng đang thở phập phồng. Khi thuyền bác lướt dưới gốc cây, bác lại nghe thấy con chim bạn đáp lại ở những cây tuyết tùng ở xa xa.
Xung quanh khuỷu sông, những cây roi cao mọc thẳng, những con chim đen có cánh đỏ đậu chót vót trên ngọn cây đang hót vang mặt sông. Khi tới chỗ khuỷu sông đổ ra sông lớn, bác mỉm cười thú vị, vì bác đã nhìn thấy bông hoa xuân đầu tiên - một cây dương mai với một nụ trắng và một nụ hơi hồng hồng.
Mặt nước dần dần ầm vang tiếng nhạc ngày xuân - tiếng rì rào của dòng thủy triều với những thân cây đổ trôi xuôi, tiếng xào xạc những lá non cây phỉ và cây sống-qua-đông. Nơi nước lặng phản chiếu ánh mặt trời, bác nghe thấy tiếng ríu rít của những con vịt hoang sống trong các ô làm bằng gỗ, do chính tay bác đặt cho chúng sống qua mùa đông. Sau đó bác nghe tiếng nhạc xa xôi, một tiếng nhạc hoang dã hơn nữa ở rất xa. Để nghe rõ hơn, bác ghé mái chèo lên đầu gối và ngóng nhìn về phía trời Đông. Trong gần sáu chục năm qua, bác vẫn thường hay háo hức ngóng chờ những tiếng kèn trận hoang dã như thế, trên trời cao vào ngày xuân và vào ngày thu, và niềm vui được nghe tiếng nhạc như thế sau những ngày lặng lẽ không bao giờ tan trong lòng bác cả. Với bác, tiếng kêu của những con ngỗng trời mang một ý nghĩa gì đó còn hơn là cả tiếng nhạc nữa. Dòng nước rút va mạnh vào thuyền bác và có một tiếng ộp oạp phá tan cảnh yên tĩnh trong chốc lát. Bác ghé thuyền vào một gốc cây sống-qua-đông và rê thuyền lên một đám huệ. Ở chỗ đó mặt trời chiếu thoải mái lên người bác. Bác cất mũ đi để hưởng thụ nắng ấm mơn trớn đôi má xương xẩu, dạn dày gió mưa của mình. Gió làm rối tung mớ tóc đen đã điểm bạc nơi gáy.
Mắt bác dõi nhìn bầu trời phương Nam. Một đàn vịt hoang ùa từ đám sậy ra, cánh vỗ rào rào, miệng quàng quạc, khiến trong một lúc bác không nghe rõ tiếng nhạc xa xa nữa. Sau đó, lại càng nghe rõ hơn, và lần này thì gần hơn. Sau cùng, một hình xếp chữ V, những con ngỗng trời – hơn ba chục con – bay tới phía sông. Bác thấy rõ là chúng mệt mỏi sau một đêm bay ngược gió, chúng vỗ cánh nặng nề. Chúng bay trong nắng loá, khiến bác nhìn rõ những đầu cánh nhọn đang vỗ. Trong khi dõi theo chúng, bác còn thấy một hiện tượng mệt mỏi khác nữa trong đàn chim đang bay. Con đầu đàn, bay mở đường trong chuyến bay vô cùng dài, bỗng kêu lên một tiếng, gọi một con khác thay phiên cho nó công việc nhọc nhằn kia. Đội hình bỗng tan ra, và lập lại để một con khác thay cho vị trí đi đầu. Hình chữ V lại được lập lại và bay ngang đầu bác Abel.
- Nào, các chú lại về rồi!
Một lần nữa bác lại mỉm cười trước vẻ đẹp của chúng. Sau đó bác thấy lo lắng trong lòng, bác lấy bàn tay làm loa và gọi chúng:
- Đây rồi! Đây rồi!
Bác biết rằng, lắm khi, nhất là sau một chuyến bay đêm dài, chúng thường lầm lẫn và có thể bỏ qua những địa điểm nghỉ chân, một mái lều to như vùng nước này.
Lúc này những con ngỗng trời đã ở ngay trên đầu bác. Chúng đã nghe thấy tiếng bác gọi. Con đầu đàn lái xuống thấp và bay vòng trên vùng nước, hình chữ V hạ thấp dần, những con đầu tiên đã dang cánh hạ xuống. Đúng vào lúc đó, bác Abel nghe thấy một tiếng kêu to ở vùng ngã ba sông. Bác cứ ngỡ đó là một tiếng reo mừng của một ai đó đang ngóng đón đàn ngỗng trời như bác. Bác sắp cất tiếng gọi đàn ngỗng một lần nữa, thì bỗng một phát súng nổ từ hướng đó. Bác thấy giận dữ. Bác lắng nghe lo lắng về phía tiếng súng mới vang lên. Bác không sao nghĩ rằng lại có một kẻ có gan bắn như vậy. Và bác lo lắng nhìn đàn ngỗng.
Chúng đã nghe thấy tiếng nổ. Chúng đang im lặng bay nốt quãng đường ngắn hạ xuống bãi sông. Hình chữ V tan ra đột ngột. Tiếng kêu của chúng vang lên trên cao, nghe thảm thương, tiếng kêu sợ hãi và lúng túng. Một con chim bay cuối hàng chữ V nhào xuống một cách lạ lùng như lá rơi. Những con khác bay cuống cuồng loạng choạng sau con đó. Sau rồi có những tiếng quàng quạc lộn xộn vang lên, và bác Abel biết rằng đã có chuyện gì đó không hay xảy ra trong đám ngỗng non một tuổi bay ở cuối đội hình. Khi con chim bị nạn vẫy cánh và rơi xuống, bác biết có chuyện gì đã xảy ra. Phát súng kia, bắn ra vô mục đích, đã trúng nó.
Bác Abel cay đắng tự trách mình vô ý gọi đàn ngỗng để chúng lên nông nỗi ấy. Vì bác mà một con đang nằm chết bên bờ. Hình ảnh đó làm bác đau lòng. Đã lâu lắm rồi bác không bắn những con chim trời này nữa, vì bác không thích phá rối vào cuộc sống của chúng, vào những chuyến bay nặng nhọc qua đây. Lúc này bác đã vô tình đánh vào một con trong bọn đang bay về phương Bắc quê cha đất tổ với những ổ trứng và những con chim non mới ra đời.
Bác thấy đau lòng khi thấy mình bó tay không làm gì nổi, ngoài việc quyết định từ nay sẽ không bao giờ lên tiếng gọi ngỗng trời như thế nữa. Nhưng ngay sau khi nghĩ thế, bác vẫn không thể cưỡng lại việc vớ lấy mái chèo và bơi xuôi về phía bờ dưới kia. Trên đường bác đi, mọi niềm vui xuân về - những mầm của hàng ngàn cây táo, tiếng hót con chim hét và hoa dương mai rực rỡ - đã thay đổi, không phải là sự đau khổ mà là một nỗi sầu muộn, như thể bác vừa học được một bài học không sao hiểu nổi.
Có một con tàu lướt dưới những cây liễu, rúc lên một còi hiệu. Đẹp lộng lẫy, vỏ tàu màu xanh da trời in hình lên nền trời, và thành cầu tàu màu trắng in lên bóng mây, một con tàu chở hàng loại nhẹ hiện ra nơi cửa rừng. Theo sau vệt nước nó xé ra, là vô số con mòng biển bay loạn xạ. Mới đầu bác Abel ngỡ là lũ chim bay theo tàu kiếm ăn. Nhưng không phải, chúng đang đáp lại tín hiệu của các con mòng khác, bác không thấy vì khuất kín trong lau sậy.
Bác Abel biết rằng giống mòng biển quen thói yên lặng. Chúng bay suốt ngày đêm nên cũng đói suốt ngày đêm. Ngoại trừ khi đói cồn cào vào buổi sáng, chúng chỉ im lặng tìm mồi. Chúng đói ăn lắm nên mắt rất tinh, chúng quan sát ra từng vật đang trôi, ngay cả một mẩu áo cũ. Bác thường thấy khi đó miếng mồi làm chúng sung sướng thế nào. Lắm khi bác chứng kiến chúng nó có những hành vi độc ác, ngay cả trong vườn nhà bác, khi chúng xà xuống như diều hâu và xâu xé một con thỏ chết. Giờ đây bác đang thấy chúng sung sướng như thế.
Thuyền bác cặp bờ. Bác lên một doi cát, khi đó bác nhìn thấy bọn mòng biển lùi ra. Chúng bay xuôi, bốc cao lặng lẽ, rồi nhào xuống. Khi nhào xuống chúng kêu to. Sau đó chúng lại bốc bay cao, từng tốp tám chín con, rồi lại nhào xuống và kêu.
- Mày rơi nơi nào hử, ngỗng con?
Bác Abel nghĩ hình như vừa nghe thấy một tiếng kêu trầm trầm từ một con vật màu xám, bác ngỡ đó là một con vịt trời địa phương lạc bày đang bị lũ mòng biển tiến công. Bác từng thấy như vậy nhiều lắm, và vẫn bỏ qua, chấp nhận, coi đó là việc của thiên nhiên. Thế nhưng cái dự cảm ban đầu không tha bác. Nghe một tiếng kêu lần nữa – không phải tiếng kêu con mòng – bác cảm thấy cái dự cảm lúc trước phát triển thành một tính cảm khác: phải hành động. Bác chưa từng nghe thấy một tiếng như thế bao giờ. Chưa khi nào bác thấy một con mòng hoặc một con vịt hoang kêu như vậy.
Sau một nhát chèo mạnh cho thuyền đi xuôi, bác đã biết cái gì kêu lạ lùng như vậy: một con ngỗng trời đực. Một con ngỗng trời đang vùng vẫy mà không cất mình lên nổi vì cánh đập yếu lắm. Khi ngực nó nhô lên khỏi những gợn sóng lăn tăn, bác Abel thấy có vết máu ứa ra. Một con mòng nhào xuống và mổ vào đầu con ngỗng. Con ngỗng tránh và cố lặn xuống nước. Nhưng nó không lặn nổi. Cánh nó vùng vẫy tránh đỡ trận tiến đánh tiếp theo của lũ mòng. Một con, một con, lại một con nữa lao xuống. Và con ngỗng trời chỉ còn biết nhờ làn nước mỏng manh che chở. Bọn mòng tìm cách làm cho con ngỗng trời bị chết đuối. Khi nó ngoi lên thở, một con mòng mổ vào mắt nó. Máu loang trên má trắng con ngỗng.
Con ngỗng đã nom thấy những bụi sậy bên bờ. Nó cố bơi vào đó. Những trận tiến đánh liên tiếp khiến nó không thể tiếp tục đi theo hướng đó và đi theo cách đó. Nó thử bay, cánh nó dang ra vùng vẫy. Nó mất nhiều sức vì việc đó quá, cánh nó xoè ra trên mặt nước đang trôi xuôi, mỏ nó gục trong làn nước. Hai con mòng bơi tới và đuổi theo phía cái đầu con ngỗng. Bác Abel chèo nhanh con thuyền chen ngang giữa các con mòng và con ngỗng trời. Bác bế bổng con ngỗng vào trong thuyền. Các con mòng lẳng lặng bay đi.
°
- Hay lắm ngỗng ạ! Còn cố sức như thế thì còn sống.
Bác băng vết thương cho con ngỗng bằng băng dính, sau đó bác cho nó nằm trong một cái hộp lót rơm và đặt gần cái lò trong bếp. Sau khi theo dõi một lúc, bác thấy con ngỗng không cất đầu lên nổi. Bác liền buộc một khúc gỗ làm giá đỡ và buộc nhẹ cổ nó vào, cố tránh không làm nó nghẹt thở. Một lát sau, con ngỗng phát ra một tiếng kêu yếu ớt khò khè và lấy mỏ mổ một cách yếu ớt.
- Nào cu cậu, nếu sống nổi qua đêm nay, thì ngày mai tớ sẽ chữa nữa cho. Nghe chưa?
Cả đêm, con ngỗng không ngớt kêu, kêu thật to, khiến bác Abel phải vào xem có chuyện gì. Khi bác chạm tay vào nó, nó vẫy cánh thật mạnh. Thấy thế bác lại mừng và bác bỏ cái khúc gỗ làm giá đỡ đi. Khi làm việc đó bác phải đụng chạm tay vào con ngỗng. Con ngỗng nằm im trong nệm rơm cho bác làm mọi việc, và bác Abel thấy rằng con vật đã thôi không sợ hãi bác như trước. Sáng ngày, bác nấu cháo mạch, bác lấy chút ít trộn với sữa và dùng thìa bón cho nó; nó ăn không nhiều, nhưng nó không vùng vẫy phản đối.
Hôm sau, khi ở vườn về nhà, bác thấy con ngỗng đã ra ngoài ổ. Nó không đi được xa. Chiều tối đó, con ngỗng sục mỏ vào đĩa cháo mạch và ăn ngấu nghiến.
Đến hôm chủ nhật, bác Abel cho con ngỗng ra bãi cỏ nắng ấm bên bờ cái ao lớn nhà bác, định bụng cho nó có thích nước thì cứ việc đi tới ao mà vùng vẫy. Ở ao nhà bác có hai chủ nhân, một cặp vịt trắng, một con tên Henry và một con tên Alise. Nhiệm vụ của chúng chỉ là làm cảnh đẹp. Cả hai con đều đón tiếp con ngỗng một cách thân tình và không phản đối khi con ngỗng tới ăn chung với chúng. Bác Abel mặc cho ba con ở với nhau. Khi trở về, bác thấy con ngỗng đã ở dưới ao, nó không bơi nhưng thả người bồng bềnh ven bờ.
Những ngày sau, con ngỗng trở nên gần như thân thiện hẳn với hai con vịt, mặc dù đôi khi hai con kia vẫn nhìn nó một cách không được thiện cảm tí nào. Nó bắt đầu bơi xa dần hai con vịt. Song nó vẫn coi bác Abel là người bạn tốt hơn cả. Khi chiều xuống, bác Abel vỗ hai tay vào nhau, thế là nó từ bụi sậy chui ra, trở về nhà nằm trong cái ổ nơi nhà bếp.
Vài ngày sau nữa, con ngỗng thử tập bay. Các con vịt cả đời lạch bạch, bỗng thấy kinh dị trước chuyến bay đầu tiên của con ngỗng. Khi con ngỗng cất cánh bay, hai con vịt không nhìn theo ngỗng mà lại nhìn nhau. Bác Abel theo dõi con ngỗng bay cao dần, cao mãi. Khi đã bay cao hơn những cây du, con ngỗng reo lên một tiếng kêu vui sướng. Nó bay giỏi rồi, và cả vết thương nó đã lành. Song bác Abel vẫn ngại con ngỗng không thể một mình đi về phương Bắc, như vậy nó phải bay nhọc nhằn một mình. Nhìn nó bay, bác Abel thấy nó đẹp quá, bác như không muốn xa nó nữa. Bác vỗ tay kêu nó về, và co!!!9899_18.htm!!! Đã xem 25542 lần.